Thứ Năm, 12 tháng 12, 2019

10 - Công bố thành lập 'ĐẠO ĐỜI' (3)


       

ĐẠO ĐỜI (3)
(Đạo Hòa bình – Hạnh phúc)
(đã sửa ngày 30/5/2020)



(Tiếp theo)


6/
Giai đoạn 2

‘Rèn Tâm trực tiếp’ của giai đoạn 1 – là chỉnh sửa Ca của các việc ‘ngoài não’.
‘Rèn Tâm trực tiếp’ của giai đoạn 2 – là chỉnh sửa Ca của các việc ‘trong não’.

Để kế thừa lực đẩy (niềm vui) CaN từ giai đoạn ‘ngoài não’, sang giai đoạn ‘trong não’ (trí tuệ), thì tiến hành:
- Đặt ‘CaN’ = 0 (‘0’ có nghĩa ‘hoàn thiện’ ) – viết là ‘Ca(0N)’.

Chỉnh sửa trong não, thực chất là chỉnh sửa trong Vô thức (tâm).
- Là giai đoạn quyết định, sửa đổi A2 thành A1 toàn diện – đối tượng trực tiếp là Ca.
- Là giai đoạn xử dụng chủ yếu lao động T (Vùng 1),
   để sản xuất từ Ca(Sai) ra Ca(Đúng).
  . Lúc này lao động V (Vùng 2) chỉ tác động hỗ trợ định hướng cho lao động T (Vùng 1) – bằng các ý niệm gợi ý (do Vùng 1 – gởi thông tin kích hoạt ra).


(Chú thích:
- Giai đoạn 1 (Rèn Tâm trực tiếp - ngoài não), dùng ‘tư duy ý thức’ (lao động V) là chính, để chỉnh sửa các ‘việc’ đạt logic T. Từ đây tác động gián tiếp lên lao động T, để tạo ra các Ca.
- Giai đoạn 2 (Rèn Tâm trực tiếp - trong não), dùng ‘lao động T’ là chính, để trực tiếp chỉnh sửa các Ca thành các Ca trình cao (hoàn thiện hơn), đến Can.
    )


Xác định mục đích rèn luyện (sửa chữa), là đạt Ca = 0 (bình an, H) hay Ca(0) – từ số lượng ít đến số lượng toàn diện.
Và định nghĩa Ca = 1 hay Ca(1) – là bất an, K. Là đối tượng tiền đề của Ca(0).
Hiện tại sự sống đang dùng phổ biến Ca(1).

Cách chỉnh sửa trong não, chủ yếu dùng
- ‘Ca(0) – tích cực đối đầu với ‘Ca(1) – tiêu cực’. (Kết quả ‘tiêu cực’ luôn thua – nếu thực hiện đúng cách, do quy luật quy định)
Vì các Ca trong Vô thức không có nội dung cụ thể, nên không thể dùng lý giải để chứng minh xóa Ca(1), như cách áp dụng của giai đoạn rèn luyện ngoài não.
Mà chủ yếu dùng Ca(0) thắng trực tiếp Ca(1).

Ca(0) là dùng lực đẩy của ‘Ca(0N)’, của giai đoạn 1 truyền lực qua.
. Nội dung Ca(0), do ý niệm (Vùng 2) gợi ý.
. Ý niệm (Vùng 2), do Ca(0N) (Vùng 1) gợi tín hiệu ra, kích hoạt tạo ‘ý niệm-gợi ý’ của (Vùng 2).


Bắt đầu sửa chữa, gọi Ca(1) = Ca(Sai) là đối tượng của việc đầu tiên.
(cụ thể nó là những bất an do ‘Vùng 1’ phát ra.
- Những bất an của ‘Vùng 2’ đã giải quyết xong cơ bản, trong giai đoạn 1).

Khi Ca(1) xuất hiện, ta áp Ca(0N) vào để đối đầu.
. Kết quả đạt chiến thắng, cho Ca(0N)  Ca(1) = Ca(01)’.

Và tiếp tục Ca(01) đối đầu với Ca(1.2) xuất hiện. Kết quả đạt ‘Ca(02)’. 
Tiếp Ca(02) đối đầu với Ca(1.3), cho ra Ca(03) … v.v…
cuối cùng là Ca(0n-1) đối đầu Ca(1.n), cho ra kết quả sau cùng là ‘Ca(0n)’.

Ca(0n)’ đánh dấu ‘Rèn Tâm trực tiếp’ của giai đoạn 2 đã thành công và kết thúc.


- Đặt Ca(1.n) = 1 =  SAI        = Ý thức    = V  = K
          Ca(0n)  = O =  ĐÚNG  = Vô thức  = T  = H
Từ kết quả rèn luyện cho phép kết luận:
- Với mọi 1 (ý thức), Tâm luôn bằng O (vô thức).
Hay
1 (ý thức, K)  =>  O (vô thức, H).

(Diễn giải - với mọi ý thức bất an K, tâm luôn bình an H.)


Chú thích,
- Trong rèn luyện giai đoạn 2, ví dụ kết quả ‘Ca(01)’ - phải gắn (sáng tác) một Tên-Định nghĩa (để dễ nhớ).
Để sau đó gọi ‘Tên-Định nghĩa’ ấy ra, để tạo lực đẩy đối đầu với Ca(1.2), v.v…

Các ‘Tên-Định nghĩa’ thường do sáng tác ngẫu nhiên tức thời. Nhưng sao cho có lý, để khi cộng chung lại tạo thành nội dung hệ thống phát triển nhất quán.
Ví dụ, cây mọc hướng về mặt trời, con người hướng về sự rộng lớn, thẳng hướng vũ trụ tự nhiên bao la, v.v ...
Các ‘Tên-Định nghĩa’ cũng nhằm tạo lực đẩy cho Ca.


Ca(0n) = 0, là tổng của nhiều Ca(0x) = Ca = 0.
(chú thích: - n là chỉ số đích đến, x là biến số)
Nó có ý nghĩa:

 Ca = 0 = Bình an, Niềm tin, sự phát triển, Hạnh phúc.

Tại sao?
- Tai kết cấu trí tuệ là như vậy.
Khi Ca đã đạt logic T đồng bộ, thì tự động cảm giác bình an hình thành. Nhằm chứng minh, sự sống đang vận hành đúng quy luật.

Tức là, sự sống không cần dùng cầu nguyện, đọc kinh, vái lạy ai, cầu khẩn trời đất, v.v… để tìm H (chân lý, quy luật).
Mà là rèn luyện sản xuất Ca thành công, thì H sẽ đến.
Cụ thể,
Ca (V) + Ca (T) =  H (HpV+HpT)






III - ỨNG DỤNG ‘Ca’ VÀO CUỘC SỐNG.


a.      Ca là gốc của sự sống.

Con người sống phát triển bằng Ca (của Tâm, Vô thức, T).
- Với Ca là cảm xúc trong vô thức (Vùng 1).

Vì không nhìn thấy Ca (Vô thức), nên tin rằng ‘Vật chất quyết định Ý thức (T)’.
Hoặc ‘Tự do + Giàu tiền = H’.
Hoặc ‘Cầu nguyện … = H’.


Đáp án đúng phải là
HpV + HpT  =  H

Với
  HpV = KHV + Logic V  = Tiền
  HpT = KHT + Logic T   = Ca

  Lao động V, tạo ra ‘Tiền’.
  Lao động T, tạo ra ‘Ca’.

  
KHT chứng minh:
. Ca (A1) là cái gốc của quy luật sự sống.
Nó được cấu tạo bằng ‘logic T’.
‘Logic T’ là vấn đề của ‘nhận thức’ (ý nghĩa mục đích việc làm).

Do vậy,
Chỉ cần ‘thay đổi nhận thức’, là sự sống thành công.
- ‘Thay đổi nhận thức’ do ĐẠO ĐỜI tham vấn.

Vì ĐẠO ĐỜI là đại diện của KHT – theo định nghĩa.
- Nên muốn vận dụng KHT, tốt nhất là tham vấn ĐẠO ĐỜI.


Vì sao ĐẠO ĐỜI đại diện cho KHT, và đại diện như thế nào:

- Vì từ KHT mà ĐẠO ĐỜI được tạo ra.
- Vì ĐẠO ĐỜI không dùng bạo lực hay ưu quyền, để áp đặt chân lý (dưới mọi hình thức) với mọi người. – (Ví dụ, chính quyền dùng bạo lực, tôn giáo dùng ưu quyền huyền bí, v.v..)
- Vì ĐẠO ĐỜI dùng biện chứng KH và thực tiễn, để chứng minh chân lý khách quan.


- Vì ĐẠO ĐỜI kết luận, thế giới phải tiến lên mô hình 'Toàn dân - Cầm quyền(làm chủ trực tiếp) xã hội (quốc gia, thế giới), thông qua hệ thống DIỄN ĐÀN rộng khắp. Vì đây là con đường duy nhất, đem đến lợi ích lý tưởng, cho tất cả mọi người (loài người).   
(‘Chính quyền’ trở lại làm đúng chức năng, của bộ máy ‘Thừa quyền’. - Là có nhiệm vụ làm theo mệnh lệnh, của 'Toàn dân - Cầm quyền- ĐẠO ĐỜI tham vấn.)


- Vì ĐẠO ĐỜI khuyến khích mọi người, tự do tranh luận CÔNG KHAI/BÌNH ĐẲNG, để minh định sự tồn tại của chân lý.
- Vì ĐẠO ĐỜI xác định, sự sống chỉ có Một chân lý. Nên mọi tranh luận đúng logic, đều cuối cùng gặp nhau tại điểm thống nhất.
Đã là chân lý, thì không nhận thức nào có thể vượt qua giới hạn.
Nhờ vậy nếu ĐẠO ĐỜI sở hữu chân lý toàn diện, thì đủ khả năng tham vấn sự sống vào quỹ đạo H HHV.

- Vì ĐẠO ĐỜI không dùng quyền lực, chỉ dùng chân lý để đánh thức ý thức tự giác đúng đắn của xã hội. Nhờ vậy xã hội (quốc gia, thế giới) luôn phát triển trong bình yên tự giác.
- Vì ĐẠO ĐỜI mở rộng cửa thành viên cho mọi người.
‘Không ích kỷ, không bạo lực, mục đích Hạnh phúc, v.v..’ là những tiêu chí phấn đấu của các thành viên ĐẠO ĐỜI.

- Vì ĐẠO ĐỜI không do cá nhân nào toàn quyền quyết định. Mà do đa số (trong mỗi diễn đàn), biểu quyết thực hiện các hoạt động. Mọi người đều bình đẳng trước chân lý. Con người hơn nhau ở tính ĐÚNG-SAI trong mỗi quan điểm góp ý.

- Vì ĐẠO ĐỜI hoạt động theo nguyên lý ‘lương tâm’. Mà ‘lương tâm’ là cái gốc của sự sống. Nên ĐẠO ĐỜI sẽ là trung tâm tập hợp mọi người, không phân biệt bất kỳ.  


Thế giới đến nay, chưa có mô hình tổ chức nào hoạt động theo kiểu ĐẠO ĐỜI.
- Nơi mọi người chỉ dùng tranh luận để chứng minh chân lý, xây dựng tương lai. – Tuyệt đối không dùng quyền lực, bạo lực, giáo điều áp đặt, v.v… để bắt mọi người thực hiện “chân lý” theo mệnh lệnh.
- Tất cả làm theo tranh luận thống nhất công khai, nhằm tạo điều kiện mọi người giúp nhau - cùng làm chủ cuộc sống, làm chủ xã hội, và làm chủ tương lai Hạnh phúc.  




b.      Vai trò và ý nghĩa của Ca.

1/
Bí mật sự sống nằm ở Ca.
Có thể nó là những tế bào thần kinh rất nhỏ, nhưng tất cả loài người phải lệ thuộc nó.

Ca thủ phạm chính, của mọi ‘Sai Lầm’.
Nhưng nó ẩn trong vô thức, để điều khiển ý thức.
Nên con người ngộ nhận Ý THỨC là thủ phạm.

Hậu quả, loài người dùng đủ mọi biện pháp, để tiêu diệt ý thức-SAI.
- Nhưng đều thất bại.
Vì thủ phạm chính Ca – chưa có biện pháp trị đến.


Muốn thắng Ca, chỉ có lao động T,
- do ý niệm đã qua rèn luyện kích hoạt.

Ca là gì?
- Là cái gốc điều khiển tư duy (ý thức, ý chí).
- Ngược lại tư duy cũng điều khiển Ca.
Khi con người chưa làm chủ quy trình tương tác biện chứng này, thì chúng “dắt tay nhau” đi lung tung phương trời (vô phương kiểm soát).


Não (trí tuệ) có tính đồng bộ thống nhất. Nếu một tư duy SAI, cả khối thành SAI.
Mỗi tư duy là đại diện của một cá tính nhỏ. Sửa một cá tính nhỏ, có thể được.
Nhưng sửa một cá tính lớn (tổng của nhiều cá tính nhỏ), thì rất khó.
Sửa một nhân cách (tổng các cá tính lớn), thì thường không thể ...


Nhưng tất cả sẽ sửa được, nếu biết dùng KHT.
- Tuy nhiên, nó còn tùy thuộc ý muốn của người sửa, và các yếu tố khách quan khác.

Sau khi các điều kiện đã thỏa, thì cách sửa cũng đơn giản.
- Bằng cách hàng ngày, dành thời gian sửa từng tính cách nhỏ một.
(Giống như xây nhà, con người phải xếp lên từng viên gạch một.)
- Ở đây là xếp từng viên ‘Ca’ một. Và phải theo quy trình trật tự do A1 quy định.
Cứ thế lâu ngày, chủ thể sẽ xây hoàn thành ‘Nhân cách mới’.


Hay mục đích là xây dựng ‘lâu đài-Ca’ (lâu đài-nhân cách) trong vô thức.
- Xây dựng trong vô thức, chỉ có bằng thủ công. Ngoài ra không máy móc nào có thể thay thế. – Vì vậy nó xây rất chậm, rất lâu. (Chứ không còn cách nào khác)

Ví dụ:
- Một tư duy ý thức muốn thay đổi, không khó. – Từ ‘màu đỏ’ nói láo ‘màu vàng’, rất nhanh. Nhưng khổ nỗi, tính cách do Ca quyết định.
- Nhưng một Ca (buồn, gian xảo) muốn nó thành Ca (vui, trung thực), là rất khó hay không thể.


Ca là do lao động T sản xuất.
Nó sản hoạt nhanh hay chậm, không ai biết được.
- Tùy theo đơn đặt hàng từ ý thức, mà lao động T sản xuất nhanh hay chậm.

Ví dụ:
- Nhiệm vụ Lao động T là sản xuất ‘Ca – Đúng’.
- Với điều kiện “hồ sơ” ý thức nộp, phải thỏa logic T.
- Nếu không nó sản xuất ra ‘Ca – Sai’.
Mỗi lần như vậy mất rất nhiêu thời gian, để sửa lại “hồ sơ”.


- Trên là trường hợp các vấn đề ‘Rèn Tâm trực tiếp’ giai đoạn 1.
Sang giai đoạn 2, không có chuẩn logic T rõ ràng.
Tất cả “hồ sơ” phải bằng ‘phản xạ - logic cảm xúc’, do chủ thể tự sáng tác ứng phó.
- Khi ‘cảm thấy nó đúng, hợp lý, hợp logic’ – là nộp “hồ sơ” vào vô thức.

- Đợi lâu lâu (hên xui, tùy hồ sơ), lao động T sản xuất ra ‘Ca - H’ – là thành công.
(- Nếu thất bại, nó sản xuất ‘Ca - K’.
Bấy giờ, phải rà sửa lại “hồ sơ sáng tác”)

Thông thường “hồ sơ sáng tác” luôn đúng. Vì lao động T cũng gợi ý ra.
+ Khi có lòng thành cộng tích lũy kinh nghiệm từ giai đoạn 1,
+ thì lao động T sẽ giúp hướng dẫn soạn “hồ sơ sáng tác” rất rõ.

Để cuối cùng đi đến đích ‘Ca = 0n’.




2/
Từ thành quả nghiên cứu xây dựng HTNT (ĐẠO ĐỜI), cho phép rút ra kết luận sau đây:
- Lao động T chỉ chấp nhận ‘hồ sơ logic T’ (giai đoạn 1)
- Và ‘hồ sơ logic-cảm nhận (sáng tác/phát minh)’ do lao động T gợi ý (giai đoạn 2).

Còn lại mọi “hồ sơ” khác đều bị từ chối.

So sánh thực tế - thời đại Văn minh V:
- Những nhân danh “người thiện” lại hay dùng ‘hồ sơ logic V 
- Và những ‘Kẻ ác’ thì dùng ‘hồ sơ logic B (chống logic T)
Để nộp xin gia nhập ‘quản lý-lao động T’ – sản xuất Ca.

Kết quả, cả hai đều thất bại.
. Đây là lý do “người thiện” suy yếu dần ‘Vốn T’.
. ‘Kẻ ác’ thì càng ác, dấu hiệu âm dần ‘Vốn T’.


Đây là lý do chứng minh, vì sao cái Ác không thể là cái Thiện.
- Cho dù cái Ác gian trá láo lếu đến đậu, cũng không thành Thiện.
- Vì nó không xâm nhập được Vô thức (lao động T) – trung tâm điều khiển sự sống toàn diện.

Từ đây suy ra, SỰ SỐNG chân lý, có Phải/Trái – Đúng/Sai phân minh.
- Và nó do tự nhiên (lao động T – A1) quy định.


Nhìn lại cách loài người Văn minh V, đang vận hành sinh tồn như thế nào. Sẽ thấy và hiểu vì sao nó còn bất ổn.
Theo dòng thời gian, tùy theo lãnh thổ, tùy theo sự phát triển, con người cho rằng:

- Một là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-cơ bắp’ quyết định.
- Hai là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-vũ khí’ quyết định.
- Ba là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-kinh tế’ quyết định. 
- Bốn là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-KHKT’ quyết định.

- Năm là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-quyền lực’ quyết định.
   (Hệ quả của tổng hợp sức mạnh)
- Sáu là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-Bệnh T’ quyết định.
   (Bệnh T = Bệnh tính Ác. Như bạo lực, gian xảo, vô cảm, chai lì, lưu manh, bất công, ích kỷ, bàng quang (việc chung xã hội, thế giới), v.v ...)

- Bảy là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-Siêu nhiên’ quyết định.
   (Siêu nhiên = Niềm tin tôn giáo, giáo điều, huyền bí, thần thánh, mê tín, v.v..)
- Tám là, Phải/Trái do ‘sức mạnh-Dốt nát’ quyết định.
   (Dốt nát = Làm đại/bừa/ẩu, thiếu suy nghĩ, thiếu nhận thức, thiếu giáo dục … bất kể hậu quả, bất kể tương lai. Miễn là thỏa niềm vui trước mắt nhất thời … là làm)


Cả tám quan điểm trên đều không đạt ‘hồ sơ logic T’.
- Có thể một số quan điểm, ít nhiều có đạt nội dung quy định.
- Tuy nhiên tổng hồ sơ mỗi quan điểm, đều không đạt – luôn SAI.

Hậu quả, Ca của xã hội sản xuất một, thì Cab sản xuất hai ba.
- Hay tính Thiện tăng một, thì tính Ác tăng hai ba.
- Vốn T loài người vì thế yếu dần, nhưng mấy ai hiểu tại sao.

Cái gì thiếu nghiên cứu rèn luyện học tập – đến nơi đến chốn,
. thì cái SAI (ác) tất yếu sẽ tăng theo tỉ lệ,
. ngược lại cái ĐÚNG (thiện) thì hiếm dần
(vì độ khó nhận thức xã hội tăng).


Vì vậy ‘lao động T là hàng rào bảo vệ ‘tính Thiện’ của tự nhiên.
- Nó luôn hoạt động hiệu quả và chính xác.
Con người dù có ‘son phấn, trang điểm, che mắt đến đâu’, thì kết quả đều vô nghĩa trước lao động T. Mọi Đúng/Sai đều hiện nguyên hình.
- Tiếc rằng những ‘Thiện-logic V’ lại dễ rụng tim, vì các lớp son phấn ấy … Thế là sụp bẫy!
(con người cuồng Văn minh V, hơn Văn minh T)




*

Đây là lý do giải thích vì sao, tuy hai kiểu người,


MT - -

- “Người THIN” (văn minh V) làm việc rõ ràng, đúng đắn, chính xác, đàng hoàng, công khai minh bạch, không ác ý, không chơi xấu, v.v…
  . Và Văn minh V gọi như thế là ‘người thiện’.

Tuy nhiên KHT định nghĩa, ‘Người Thiện-Văn minh V’ chủ yếu nặng về hình thức
- Có nghĩa, nhìn chung thuộc tính của họ vẫn là ÁC 
- Nguyên nhân, bản chất Mục đích V là tính Ác K. 
(Khi nó thiếu cơ sở chứng minh, vị trí vai trò của ‘tình người’ trong hệ thống chức năng mục đích.)

Hay
Người Thiện-Văn minh V  =  Người Ác (tiềm năng)

Tức là tính Ác ở dạng nhẹ, hay tiềm ẩn - Bệnh T nhẹ (tiềm năng).
– Trường hợp này phải dùng phân tích KHT mới phát hiện (siêu vi ‘Ác’), ẩn sâu bên trong cách sống/cách tư duy. Mắt thường nhìn không thấy/không phân biệt.

Con người bị lây nhiễm ‘siêu vi Ác’ trong quá trình lớn khôn tự nhiên.
- Giai đoạn ý thức logic T chưa hình thành rõ ràng (nên sinh bệnh).
(Cụ thể, họ thường dùng logic V trong ứng xử cuộc sống [hay trong môi trường KHT]. – Biết rằng, logic V chỉ được dùng trong tương tác vật chất [hay trong môi trường KHV]).


HAI - -

- ‘Người ÁC’ là người biết việc đang làm là SAI (có hại cho người khác), nhưng vẫn làm - vì lợi ích bản thân. Cứ thế tính ‘ích kỷ-độc ác’ (hay ‘tính Ác’) hình thành từ đây.
Đặc điểm của tính Ác là sự gian dối, xảo trá, lưu manh, không minh bạch, bất công, độc ác, không đối thoại-bình đẳng-công khai-đại chúng-minh bạch để tìm lẽ phải-chân lý, v.v…
Vậy là họ đã mắc Bệnh T nặng (do A2 lớn mạnh), trong quá trình lớn khôn.
Có nghĩa họ đã bị tâm Ác (A2) điều khiển trí tuệ, trong suốt thời gian bị bệnh.


+ Hậu quả, khả năng nhận thức phân biệtPhải/Trái-Đúng/Sai’ kém dần. Kỹ năng tư duy logic lý giải các nan đề sự sống (con người/xã hội) dễ bị đuối lý, bế tắc, mất phương hướng.
Nên sinh ra tìm cách né tránh ‘không đối thoại’, hoặc ‘đối thoại một chiều (áp đặt, đe dọa, nói năng vô lối, quanh co, v.v..)’. Để cuối cùng chuyển qua ‘bạo lực, dối trá, lưu manh, mưu sâu kế hiểm, ..’ giải quyết vấn đề.

Vì vậy họ là ‘Kẻ Ác’ đúng nghĩa - xét trên mọi góc độ (trừ những ai bị trúng quả lừa – số này không ít và đủ loại thành phần đối tượng).
Nhờ vậy họ vẫn tồn tại mạnh mẽ, khi ‘những người bị mắc lừa’ luôn tích cực bảo vệ họ rất hiệu quả.



**

Người Thiện-Văn minh V’ và ‘Kẻ Ác’ tuy khác nhau về mục đích hành vi,
nhưng giống nhau ‘cùng lạc lối đường đến H’.


Hậu quả, cả hai đều THẤT BẠI khi lên nắm ‘CHÍNH QUYỀN’.
- Vì người dân cả hai bên đều ít nhiều chống đối ‘Chính quyền’.
(Mặc dù xét về quy mô và tính chất, sự chống đối có khác nhau. Tuy nhiên vẫn là ‘bị chống đối’.)

Lạc lối đồng nghĩa, ý thức quy luật chưa rõ ràng.
. Đồng nghĩa sự sống bị cản trở. Lý do bất ổn và K ra đời.


Đáp án, loài người cần xây dựng thế hệ ‘CON NGƯỜI MỚI’, để thay thế hai nhóm người đã quá cũ kỹ trên.



***


Sự trộn lẫn giữa ‘Người Thiện-Văn minh V’
Và ‘Kẻ Ác’.

‘Người Thiện-Văn minh V’ mắc sai lầm, vì dùng ‘logic V’ trong ứng xử xã hội.
‘Kẻ Ác’ mắc sai lầm, vì dùng ‘logic B’ trong ứng xử xã hội.
- Đáp án đúng, con người phải dùng ‘logic T’ trong ứng xử xã hội.


Lúc đầu,
Khi Văn minh V còn non trẻ, ‘Người Thiện-Văn minh V’ và ‘Kẻ Ác’ rất dễ phân biệt về hình thức
- Ví dụ, bên này sống đàng hoàng chỉnh tề, bên kia nghèo khổ hung ác bẩn thỉu.

Sau đó Văn minh V phát triển, bấy giờ ‘Thiện/Ác-Văn minh V’ gần như nhập làm một. – Tức là họ giống nhau gần như đúc, từ hình thức đến nội dung.
- Vậy là rất đông người bị mắc lầm. Xã hội gần như mất kim chỉ nam phân biệt ‘Phải/trái-Đúng/Sai’. Ai cũng có thể là Ác, ai cũng có thể là Thiện …

Lý do:
- Một là, tính Ác (tiềm ẩn) của ‘Người THIN-Văn minh V’ nay bắt đầu trổi dậy, khi cảm thấy ‘sự sống bị chặn’ (hệ quả lạc lối).
- Hai là, ‘Kẻ Ác’ rút kinh nghiệm giả vai ‘THIN-Văn minh V’ ngày càng giống hơn.

Cái Ác giờ đây biết làm giống cái Thiện từ hình thức đến nội dung.
Ví dụ:
- Họ cũng biết sắm áo quần tươm tất, giàu sang, chức quyền, danh lợi, v.v ….
- Họ cũng học chữ nghĩa, bằng cấp, làm việc thiện, lý lẽ đấu tranh công bằng, v.v…


Nhưng trừ ‘Tâm ác - A2 - Cab (biểu hiện của Bệnh T – hại người), là yếu tố duy nhất còn lại – mà cái Ác vĩnh viễn không bao giờ làm giả được.
(Vì nếu làm được, nó trở thành Thiện. Mà điều này không thể, vì Thiện và Ác là khoảng cách rất xa trong rèn luyện.)
. Vì vậy so với ‘Tâm thiện – A1 - Ca’ của ‘Người Thiện – Văn minh V’, ‘kẻ Ác’ luôn khác.

Tuy nhiên sự khác biệt, không thể nhìn thấy bằng mắt hay bằng suy luận thông thường.
- Mà phải bằng luận pháp KHT/logic T chặt chẽ, kết hợp quá trình Rèn Tâm lên cao – từ bằng đến cao hơn, cấp độ của ‘Tâm Ác’.
Ví dụ:
- Độ sâu của ‘Tâm Ác’ (A2) là ‘- Ca3’ (hay ‘Cab3’),
- thì trình ‘Tâm Thiện’ phải từ ‘+ Ca3’ trở lên.
Thì ‘tính Thiện’ mới đủ khả năng, nhận diện hết ‘tính Ác’ đối trọng. 

Khả năng quan sát này thuộc trình Vô thức, do các tài năng-lương tâm (KHT) thực hiện.
– Người bình thường chủ yếu quan sát (con người) bằng ý thức, nên dễ bị nhầm lẫn (khi cái Ác đã nâng cấp tồn tại).


Suy ra, ‘Sự sống’ là một nghề KH có tính chuyên nghiệp. Gọi là ‘NGHỀ SỐNG’.
Chỉ những ai phát triển (Rèn Tâm) đủ chuyên môn, mới có thể vận dụng hiệu quả vào cuộc sống.

Tuy nhiên loài người đến nay chưa có ‘NGHỀ SỐNG’.
Vì vậy sự phân biệt Thiện/Ác còn lẫn lộn. Lý do bất ổn phát sinh.

. Đây là lý do ĐẠO ĐỜI được thành lập, nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo ‘Nghề Sống’.


    
Đến đây có thể đánh giá công lao của lao động T là rất lớn.
Nó là biên giới tự nhiên cuối cùng, để phân biệt Thiện – Ác – mà không sợ nhầm lẫn.
- Vì nó luôn chỉ chấp nhận ‘hồ sơ logic T’ (của tính Thiện-Văn minh T),
Đồng nghĩa
  . Không chấp nhận ‘hồ sơ logic V’ (của tính Thiện-Văn minh V),
  . Và không chấp nhận ‘hồ sơ logic B’ (của tính Ác-Bệnh T).


Đồng nghĩa thời đại ‘Văn minh V’ đã quá hạn xử dụng.
-
Đã đến lúc, thế giới cần tiến lên xây dựng mẫu ‘CON NGƯỜI MỚI’,
cho thời đại mới - Văn minh T.
Mẫu người mới ấy được định nghĩa như sau:
                            
                                           Người logic T  =  Người THIN – Văn minh T
= ‘CON NGƯỜI MỚI’

Để thay thế hai mẫu người ‘Thiện-Văn minh V’ và ‘Ác-Bệnh T’, đã quá hạn xử dụng.

Được như thế, kỷ nguyên phát triển KH đồng bộ - từ V đến T, chính thức được thành lập.




3/
Trong Văn minh V, con người quen dùng bốn công cụ (phương tiện) chính sau đây, để điều hành thúc đẩy xã hội phát triển:
- Một là ‘Tiền                             (sức mạnh vật chất)
- Hai là ‘Quyền lực-Thiểu số (bao biện, độc đoán)
- Ba là ‘bạo lực                          (công an, quân đội)
- Bốn là ‘tôn giáo                      (để xoa dịu bất an)

Ngày nay, ‘Thiên’ và ‘Ác’ đều dùng giống nhau bốn công cụ này.
Tức là giống nhau một phương thức quản lý xã hội.
. Thì cơ sở nào để phân biệt ‘Thiện/Ác – Đúng/Sai’ trong cuộc sống.
Vì vậy thế giới luôn bất ổn và K.


Trong Văn minh T, con người dùng bốn công cụ sau đây,
để quản lý phát triển xã hội:
- Một là ‘Lẽ phải-Chân lý                       (sức mạnh tinh thần)
- Hai là ‘Quyền lực-Toàn dân              (hệ thống diễn đàn).
- Ba là ‘ĐẠO ĐỜI-Tham vấn                 (luận pháp KHT/logic T)
- Bốn là ‘Tiền                                             (sức mạnh vật chất)

Từ bốn công cụ cơ bản này, tính ‘THIN’ sẽ xóa sổ tính ‘ÁC’ vĩnh viễn.
Loài người tiến đến H HHV thành công.


Biết rằng,
-          ‘THIN’  là đồng nghĩa ĐÚNG ĐẮN và  H.
-          ‘ÁC’        là đồng nghĩa SAI TRÁI và K.

Suy ra, khi sự phân biệt Đ/S đã rõ, thì đích đến HHV sẽ là chắc chắn.
Hay nó chỉ là vấn đề thời gian.

. Ngược lại, lịch sử đến nay chứng minh - bài toán Đ/S còn chưa minh bạch. Đây là nguyên nhân cơ bản, đã tạo cơ hội cho tính ‘ÁC’ trường tồn.
. Muốn Đ/S rõ ràng chỉ có cách vận dụng KH vào hiện tượng sự sống (con người).
Đồng nghĩa thế gian sẽ tiến lên từ ĐẠO ĐỜI – khi nó là đại diện đầy đủ của KHT, là luận pháp KH hóa thành công sự sống (con người). 


Trong Văn minh T, các trọng tâm cơ bản cần tập trung lý giải:
- Một là, quy trình sản xuất ‘Lẽ phải-Chân lý’.
- Hai là, xây dựng thế trận ‘Quyền lực-Toàn dân’.  


·        Muốn sản xuất ‘Lẽ phải-Chân lý cần có ‘Ca = 0’ làm gốc định hướng.
  (Ví dụ, trong Ca có mười cấp - từ 01 đến 010.
     Vậy Ca = 0n với n=10. Còn lại là Ca = 0x).
Mỗi cấp Ca = 0x, là đại diện cho một trình ‘lẽ phải-chân lý’, của một phạm vi nhận thức sự sống nhất định.
Ca = 0n, là đại diện ‘chân lý’ toàn diện chung. - Có nhiệm vụ xác định kim chỉ nam tiến hóa, chung loài người.

Để có ‘Ca = 0n’ đầu tiên, bắt buộc phải dùng Rèn Tâm (trực tiếp) để xác định.
Từ Ca = 0n, tác giả tìm ra HTNT (ĐẠO ĐỜI).
Từ Ca = 0x, các tài năng-lương tâm sẽ tìm ra lẽ phải-chân lý, phù hợp cấp độ vấn đề.
Từ 0n và 0x, kết hợp với mọi người, sẽ tìm ra lẽ phải-chân lý của xã hội, cho mỗi vấn đề.

(Chú thích:
- Ca = 0 có nghĩa, tính khách quan vô từ (bình an) của chủ thể.
- Ca = 0 là thành quả Rèn Tâm của chủ thể, theo khả năng.
- Ca = 0x là đắc đạo từng phần.
- Ca = 0n là đắc đạo toàn diện.
)


Đặc điểm của Rèn Tâm gián tiếp, là phải dùng 0n làm kim chỉ nam.
- Nếu không kết quả sẽ lạc lối. Mâu thuẩn/bất ổn/tội ác xã hội sẽ tái lập như cũ.

+ Tổ Nhóm, là đơn vị sản xuất ‘lẽ phải-chân lý’ – cấp thô sơ của xã hội.
+ Hệ thống DIỄN ĐÀN, là tổ chức sản xuất ‘lẽ phải-chân lý’ – cấp hoàn thiện của xã hội (quốc gia, thế giới – dưới sự tham vấn của ĐẠO ĐỜI, đầu mối tập hợp hệ thống hóa lẽ phải-chân lý toàn cầu).
+ Qua các tổ chức hoạt động tổng hợp trên, mọi người sẽ dần nâng cao nhận thức, đồng nghĩa thành quả sản xuất Ca sẽ tăng dần. - (Đây gọi là ‘Rèn Tâm gián tiếp’).



·       Muốn xây dựng thế trận ‘Quyền lực-Toàn dân’. 

Một là,
  về nguyên tắc, các Chính quyềnnhân dân mỗi quốc gia, có thể thỏa thuận với nhau – quy trình chuyển giao QUYỀN LỰC về cho Toàn dân.

Quá trình mở hội nghị thỏa thuận như trên, về nguyên tắc sẽ rất thuận lợi. Vì nó phù hợp quy luật tự nhiên.
Tuy nhiên thực tế nó diễn biến chậm chạp … , vì thói quen ý thức của chính quyền và của mọi người chưa chuyển đổi … ĐẠO ĐỜI thì chưa phổ biến rộng rãi …


(Chú thích:
- Nếu quốc gia nào đặt hàng, ĐẠO ĐỜI sẵn sàng hướng dẫn tổ chức ‘chuyển giao-quyền lực’ làm mẫu tại một số địa phương.
 - Và hướng dẫn tổ chức vận hành bộ máy ‘Toàn Dân – Làm chủ’ trực tiếp địa phương. Để mọi người quan sát đánh giá, kết luận vấn đề.
Nếu xét thấy hiệu quả, thì nhơn rộng ra. Bằng có quan điểm nào khác, thì cùng tranh luận chứng minh.
Tất cả đều rất đơn giản, nếu thế giới đồng ý tiến hành làm mẫu.
)


  + Với bộ máy các chính quyền (độc tài), vấn đề diễn biến còn chậm hơn. Tuy nhiên nếu thế giới vận dụng thành công trật tự mới … thì mọi thay đổi đều có thể xảy ra.


Hai là,
  sau khi cơ chế ‘Toàn dân-LÀM CHỦ’ (xã hội) được xác lập
. thì việc tiếp theo là lập ra ‘Hệ thống DIỄN ĐÀN – TOÀN DÂN rộng khắp’,
. để thu thập mọi ‘Ý kiến, Quan điểm’ đa chiều của mọi người.
Trước hết nhằm phục vụ cho địa phương. Kế là phần đóng góp trách nhiệm, cho bài toán chung quốc gia và thế giới.

Tất cả hệ thống DIỄN ĐÀN, đều hoạt động trên nguyên tắc - luận pháp logic T làm chuẩn.

- Luận pháp logic T, thuộc về bản năng tự nhiên của số đông con người.
Vấn đề là gợi ý đánh thức nó, thì tự động mọi người sẽ biết cách vận dụng.
Bên cạnh nếu có các Tổ Nhóm hỗ trợ, thì mô hình ‘Toàn dân – Làm chủ’ sẽ mau chóng vận hành hiệu quả.


Nhìn chung của Mô hình ‘Toàn dân – Làm chủ’,
- Không khác mộ hình ‘Xã hội Tư bản Phát triển’ (Tự do, phương tây) hiện nay.
- Vì cuối cùng, quản lý quốc gia vẫn thuộc về nhóm ‘Thiểu số’ (chuyên nghiệp) đảm trách.

Tuy nhiên vấn đề ở đây khác ở chỗ,
- giờ đây ‘Toàn dân – Làm chủ’ điều khiển bộ máy ‘Thừa quyền’, theo mệnh lệnh.
Trong khi phương thức cũ,
- ‘Chính quyền – Làm chủ’ điều khiển … ‘Toàn dân’ gánh hậu quả quay cuồn.

Tức là mô hình xã hội mới, mở rộng cửa cho toàn dân LÀM CHỦ, mọi lúc khi cần.
- Tạm thời trước mắt, mệnh lệnh ‘Thừa quyền’ (thiểu số) làm tốt các vấn đề được giao. Nếu kết quả suôn sẻ tốt đẹp, thì cứ thế tiếp tục.
- Bằng không đạt như ý, mọi công dân đều có quyền đặt vấn đề, và thống nhất đuổi việc - khi đã đủ chứng lý.

Đây là khác biệt cơ bản, mà lịch sử chưa từng có mô hình ‘Toàn dân-Làm chủ’ tuyệt đối, và lý tường như trên.

(còn tiếp)

HVS (12/12/2019)


Mọi sự trợ giúp ngân phí xin vui lòng gởi về:


ASIA COMMERCIAL BANK  -  SWIFTCODE: ASCBVNVX
Account:  9442057 
Master:    LO CONG HOAN 
Branch:    CN CHO LON

hoặc 

Số tài khoản :         123 893 919
Chủ tài khoản:        LO CONG HOAN
Nơi mở tài khoản:  ACB PGD Bình Phú.