ĐẠO ĐỜI (2)
(Đạo
Hòa bình – Hạnh phúc)
(Tiếp
theo)
II
- CẤU TRÚC TRÍ TUỆ - LAO ĐỘNG T.
a.
Vô thức và Ý thức.
Gọi
Vô thức là ‘Vùng 1’, nơi có ‘Tâm’.
Gọi
Ý thức là ‘Vùng 2’, nơi có ‘Ý chí’.
Chú
thích: - Viết ‘Vùng 1’ hay (Vùng 1).
‘Vùng
1' tạo ra lao động T, sản xuất các ‘giá
trị vô hình’ (Ca).
‘Vùng
2’ tạo ra lao động V, sản xuất các ‘giá
trị hữu hình’ (Tiền).
(Chú
thích:
-
Lao động T trong thực tế, bắt đầu từ
‘Vùng 1’,
Sau
chuyển thông tin sang ‘Vùng 2’, để tạo thành ‘ý thức’ và ‘hành động’.
Lao động T được tính thuộc
‘Vùng 1’ (vô hình) - [nguyên nhân tạo kết cấu A1], vì nơi
đây là cái nôi đầu tiên.
-
Lao động V trong thực tế, bắt đầu từ
‘Vùng 2’ (khi ý thức bị môi trường ngoài não, tác động). Nó tạo thành thông tin
gởi về ‘Vùng 1’. Từ ‘Vùng 1’ (sau khi xử lý) trả thông tin lại ‘Vùng 2’, để cuối
cùng hình thành ‘ý thức’ hoàn chỉnh và tạo ‘hành động’.
Lao động V được tính thuộc
‘Vùng 2’ (hữu hình) - [nguyên nhân tạo kết cấu A2], vì nơi
đây là cái nôi đầu tiên.
)
Lao động V tạo ra ‘Vốn V’
(tài sản, nhà cửa, thực phẩm, v.v..).
Lao động T tạo ra ‘Vốn T’
(lương tâm, đạo đức, nhân cách, niềm tin, ý thức tự giác, v.v..).
. 'Vốn V': - Đường dẫn đến HpV.
. 'Vốn T': - Đường dẫn đến HpT.
. 'Vốn V': - Đường dẫn đến HpV.
. 'Vốn T': - Đường dẫn đến HpT.
Thế
giới đã biết dùng ‘lao động V’, nhưng
chưa biết dùng ‘lao động T’.
-
Đây là lý do giáo dục chưa làm chủ được ‘tính THIỆN’ (KH).
(nên
phải nhờ đến “cầu nguyên ..”, và kém hiệu quả ..)
(Chú
thích:
Tính
Thiện Khoa học (KH) ≠ Tính Thiện Tôn giáo (TG) ≠ Tính
Thiện Dân gian (DG)
1-
Tính Thiện KH, được định nghĩa trên
Tính Thiện KH = Ca (A1)
Do
lao động T sản xuất, trên nền các chứng
minh logic T cụ thể.
2-
Tính Thiện TG, được định nghĩa
Tính Thiện TG = Niềm
tin về một giá trị siêu nhiên tuyệt đối
Do
các giáo lý định nghĩa, trên cơ sở dùng
một số hiện tượng cuộc sống, để minh họa.
3-
Tính Thiện DG, được định nghĩa
Tính Thiện DG = Nhìn hình thức kết luận hiện tượng
Ví
dụ, không bạo lực, không hung dữ, không trộm cắp, hình thức quần áo tóc tai bảnh
bao gọn gàng sạch sẽ, nói năng vừa phải, sang trọng, có địa vị xã hội, v.v … là
đủ kết luận – như thế là ‘Người Thiện’.
Kết
luận,
-
Tính Thiện KH, xác định giá trị gốc thuộc về Ca. – Đây là loại sản phẩm không làm giả được.
-
Tính Thiện TG và DG, nghiêng về giá trị hình thức và siêu nhiên … nên có thể bị
cái giả lừa.
)
Sự
sống cần có ‘lao động T’, để ranh giới
THIỆN – ÁC minh bạch từ nay.
-
‘Lao động T’ tồn tại trong Vô thức, do
A1
(lương tâm) kích hoạt. – Nơi mắt nhìn (ý thức) không thấy, nên cái Ác không
biết đường chui vào làm giả.
Lao động T là nguồn lực
chính tạo ra sự sống (KHV) và Tính Thiện (KHT).
Lợi
ích của lao động T, ví dụ:
-
Làm toán lúc đầu ai cũng sai. Nhưng lớn lên, tự động mọi người thành thạo những
bài toán cơ bản.
-
Điều gì đã tạo nên sự ‘thành thạo’ ấy. – Đó là nhờ công lao của lao động T tạo ra.
Chức
năng của lao động T, là thanh lọc/chuyển
hóa/thành thạo hóa từ ‘Ca - Sai’
thành ‘Ca – Đúng’.
Theo
quy định tự nhiên:
.
Ca (Đúng) là sản phẩm của tư duy logic T.
.
Ca (Sai) là sản phẩm của tư duy không logic T (logic V,
logic B).
Và
các logic theo nguyên tắc, thuộc về
trách nhiệm Vùng 2 (ý thức, ý chí) xử lý.
Do
đó, tùy theo con người (cá nhân) lựa chọn, mà sự sống có Ca(Đúng) hay Ca(Sai).
Ví
dụ,
-
Nếu chọn logic V hay B,
thì tạo ra Ca (Sai).
-
Nếu chọn logic T, thì tạo ra Ca (Đúng).
Và
từ Ca (Sai) hay (Đúng), mà sự sống
con người bị điều khiển theo quỹ đạo.
(Chú thích:
· Theo nguyên tắc, Ca (Đúng) là sản phẩm của logic T
· Tuy nhiên trong thực
tế, cho dù đã thực hiện đúng logic T, nhưng lao động T vẫn không tạo ra Ca
(Đúng). Vì sao?
- Vì nó còn phụ thuộc sự thành tâm (ý thức thật lòng, bền bỉ).
-
Nên đây là lý do, mọi cái Ác đều thất bại trước lao động T.
Ví
dụ:
-
Làm việc thiện (đi chùa, ..) rất nhiều nhưng không thành tâm,
thì
tính Ác vẫn còn đó.
-
Ngược lại làm việc thiện đơn giản nhưng thành tâm,
thì
tính Thiện tăng cụ thể (đường đến H
rộng mở).
Đây
là tính KH khách quan của lao động T.
– Nó rất công bằng và rõ ràng.
Nên
kẻ giản’ muốn giả ‘Người Thiện’, trong KH là không được.
-
Giống như người thất học, thì không chế tạo được máy móc.
Trong
KHT, ‘Ca’ trình cao nhận diện ‘Ca’
trình thấp – bằng cảm nhận của tâm. Là cho kết quả khá chính xác.
-
Hay ‘Người thiện’ (Ca cao) đánh giá
‘Người ác’ (Ca thấp) không khó. – [Với
điều kiện ‘Ca cao’ đã qua rèn luyện
luận pháp KHT].
-
Hoặc bằng công khai hóa trước cộng đồng (xã hội) – đã trang bị KHT cơ bản, thì sẽ
định được giá trị của ‘Ca’. (Và cộng
thêm thời gian kiểm chứng thực tiễn nữa ..)
Thông
thường phải cộng chung các cách trên lại, để xác định một Ca phức tạp.
Ngoài
ra ‘giá trị của Ca’ không có
phương thức nào định giá chính xác hơn.
-
Kể cả dùng giấy chứng nhận, bằng cấp, thay đổi hình thức khác thường, v.v… Tất
cả có chăng chỉ để tham khảo.
Bình
thường lao động T luôn hoạt động sản
xuất ra Ca (Đúng) – trên tổng Ca của một nhân cách, nhằm phục vụ sự sống.
Vì
vậy con người dù Ác thế nào, vẫn tìm
về tính Thiện.
(Nhưng
do đường đi lối về bị tắt hay lạc lối, nên tính Ác chưa tìm ra lối thoát. Và một
phần do thói quen, không muốn thay đổi.)
Lao động T như chiếc la bàn
của sự sống. Nó luôn hoạt động và hướng con người về phía “ánh sáng mặt trời”
(quy luật, tính chân thiện, đường đến H).
-
Con người nhiều lúc, muốn làm ngược lại. Rằng lợi dụng ‘tính Thiện’ trời cho, để
đi che mắt lừa gạt mọi người, mưu cầu ‘Việc Ác’.)
-
Còn bình thường, lao động T luôn giúp sự sống hướng đến sự hoàn thiện,
trên mọi mặt sinh tồn.
‘Rèn
Tâm’ là rèn kỹ năng làm chủ lao động
T, nhằm thúc đẩy nó cho năng suất cao nhất.
Ví
dụ:
-
HTNT là thành quả điển hình của sự khai thác tích cực lao động T.
-
‘Ngồi thiền’ trong Yoga hay trong đạo Phật , cũng là cách rèn lao động T. – Tuy nhiên kết quả chỉ
tương đối hay kém, vì thiếu tính KH rõ ràng đồng bộ.
Khi
lao động T thành thạo, thì kỹ năng logic T thành thạo.
-
Cả hai biện chứng cho nhau phát triển, tăng năng suất
từ
‘Ca - Sai’ (Ác) chuyển
thành ‘Ca - Đúng’ (Thiện).
Khi
‘Ca - Đúng’ phát triển đủ nhiều và rộng,
thì:
. Người Ác → Người Thiện
. Tính Ích kỷ →
Tính Chia sẻ
. Tính Hung dữ, Bạo lực
→
Tính Thân thiện, Đối thoại
…
. Chiến tranh → Hòa
bình
. Người K → Người
H
Kết
luận, đường đến HHV sẽ thành hiện thực,
khi lao động T được ứng dụng phổ cập.
b.
Xử dung lao động
T.
‘Lao động T’ có dễ dùng không?
.
Trà lời: - Có và không (hay tương đối).
+
Có , là vì trong thực nghiệm, đã chứng minh sự thành công là tuyệt đối.
+
Không (hay tương đối) , là vì lao
động T đòi hỏi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, nếu muốn làm chủ.
. Ví dụ, nó đòi hỏi về năng khiếu, ý chí, hoàn
cảnh, môi trường xã hội, lịch sử, v.v…
Nên
lao động T vừa dễ dùng, vừa khó dùng.
.
Tuy nhiên nếu biết nguyên lý, thì mọi người có thể dùng theo khả năng – và hiệu
quả đạt theo thời gian.
Ví
dụ:
-
Từ lao động T, cá nhân có thể rèn
luyện cải thiện một số cá tính tiêu cực.
-
Các ‘tài năng-lương tâm’ (nhiều nguồn) có thể dùng lao động T, để hoàn thiện nhân cách.
Trong
‘Rèn Tâm trực tiếp’, lao động T
là nhân tố quyết định, để đạt đến giác ngộ chân
lý (toàn diện) sự sống.
Trong
‘Rèn Tâm gián tiếp’, lao động T
vận hành ẩn mình. Mọi người chỉ thấy sự sống thay đổi, khi xã hội thay đổi.
. Vì nó ẩn mình, nên khi lao động T bị sai, con người khó phát
hiện.
Ví dụ:
-
Nếu môi trường xã hội vận hành tích cực, lao động T sản xuất ‘Ca –
Đúng’. Con người sống bình yên Hạnh phúc (H).
-
Nếu môi trường xã hội vận hành tiêu cực, lao động T sản xuất ‘Ca –
Sai’. Con người sống lạc lối bất an đau khổ (K).
Đây
là lý do, sự sống cần có ĐẠO ĐỜI song hành tham vấn, thì môi trường xã hội mới luôn
vận hành tích cực ổn định.
‘Rèn Tâm gián
tiệp’ có ưu điểm dễ dùng cho cộng đồng. Nhưng phải có lý thuyết đúng đắn dẫn đường, thì đích đến H mới thành hiện thực.
‘Rèn
Tâm gián tiếp’ hiểu nôm na, là hiện
tượng xã hội phát triển tự nhiên tốt đẹp – nếu có lý thuyết đúng đắn dẫn đường.
-
Bằng không nó phát triển lạc lối, do tự phát ngẫu nhiên, hoặc do bị lý thuyết sai trái dẫn đường.
Nếu
xã hội phát triển bằng lý thuyết đúng đắn,
thì mọi ngành nghề đều phát triển cân đối ổn định hiệu quả.
Tức
là mọi người không phải ai cũng định nghĩa
H
=
Đắc đạo chân lý
làm
lẽ sống.
Mà
đa số chọn
H
=
Mức
sống (V + T) phát triển ổn định hiệu quả,
từ cơ bản trả lên là thành công.
Cụ
thể,
-
Mỗi người chỉ cần số vốn ‘lẽ phải-chân
lý vừa đủ’ (cơ bản trở lên)
-
Và một số vốn ‘tiền vừa đủ’ (cơ bản
trở lên)
là
sự sống hạnh phúc viên mãn.
Còn
lại những lĩnh vực chuyên môn phức tạp khác, sẽ thuộc về các tài năng lương tâm’, các nhà ‘kinh doanh chuyên
nghiệp’, các khoa học gia, v.v... đảm trách.
(Chú
thích:
-
Vốn lẽ phải-chân lý cơ bản như, ý thức
‘không ăn cấp, biết chia sẻ, trách nhiệm xã hội, biết tranh luận bảo vệ lợi ích
cơ bản, v.v…’.
-
Vốn tiền cơ bản như, đủ ăn mặc ở …
cơ bản.)
Đây
là lý do, con người nên lập và tham gia ‘Tổ,
Nhóm’, để thực hiện quyền làm chủ xã hội của mình.
-
Mỗi Tổ Nhóm, thực chất là ‘MỘT CHÍNH QUYỀN – thu nhỏ’.
-
Nơi đây mọi người thể hiện vai trò ‘NGƯỜI CHỦ XÃ HỘI’ của mình.
Có
như vậy, kỹ năng làm chủ sự sống mới không bị lạc lối, đời sống T mới phát triển, và thế giới mới bình
yên trường tồn.
-
Có tổ chức Tổ Nhóm hệ thống, lao động T (A1) mới được
phát huy.
-
Thiếu Tổ Nhóm hệ thống, sự sống bị lạc
lối vào lao động T (A2).
(Tất
yếu khi đã lạc lối lao động T, thì ý thức vẫn không hay biết – nếu không
dùng suy luận nghiên cứu để phát hiện.)
Cách
định nghĩa chân lý:
+ Chân
lý, phải bắt đầu từ logic T
làm gốc,
+ Rồi mới đến đa số quyết định.
Khi
chưa qua luận pháp logic T, đã kết luận theo Đa số, là cho kết quả
SAI - Chân lý.
-
Cách làm sai này, trên thế giới vẫn còn nhiều nơi áp dụng.
Mỗi
Tổ Nhóm là một ‘Chính quyền Nhỏ’ (toàn dân là ‘Chính quyền Lớn’).
+
Mỗi cá nhân (Tổ Nhóm) là
- Chủ
Nhân của sự sống bản thân và xã hội.
Hay
họ sinh ra đã là các “Vua chúa, Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch nước, Tổng bí
thư, v.v…” của đất nước mình.
Mà
không cần phải do ai bầu ra. Con người sinh ra, đã được trời đất tự nhiên ban
cho những quyền hạn cơ bản như vậy.
Vấn
đề là giữa họ với nhau, làm sao tìm ra tiếng nói chung (quan điểm
chung), để phát triển sự sống đến đích H
thành công.
+ KHT là chìa khóa duy nhất, giúp loài người tìm thấy sự hợp
nhất đồng bộ trên.
Suy
ra, KH (KHV + KHT) là một phần tự nhiên của tiến hóa loài người.
Tổ Nhóm là môi trường để
mọi người, trang bị hoàn thiện kỹ năng KHT.
Trên
thế giới, hiển nhiên có nhiều ‘Tài năng – Lương tâm’ được đào tạo từ đa
dạng nguồn. Và họ ít nhiều sở hữu vốn kiến thức KHT tự phát nhất định.
Họ
đích thực là những nhân tố tích cực của xã hội – hay của các Tổ Nhóm nếu được thành lập. – Luận pháp
của họ có thể chưa hoàn chỉnh, nhưng so với mặt bằng chung họ vẫn vượt trội.
Xã
hội luôn cần những người như họ, làm điểm tựa phát triển.
Nếu
có điều kiện, các ‘Tài năng – Lương tâm’ có thể tìm hiểu thêm ĐẠO ĐỜI (HTNT,
KHT). Thì khả năng càng hoàn thiện. Và họ có thể trở thành những thành viên
tích cực của ĐẠO ĐỜI (trung tâm), để
cùng chia sẻ về ý thức trách nhiệm cộng đồng.
c.
Miêu tả Ca.
1/
Ca là viết tắt của cảm xúc (cảm giác).
Nó có nhiều
độ sâu rộng khác nhau, và khác nhau tùy mỗi người.
- Độ sâu nhất
là Ca của ‘Vùng 1’ (vô thức, tâm) –
hay ‘Ca1’.
- Độ sâu
quân bình thuộc Ca của ‘Vùng 2’ (ý
thức, ý chí) – hay ‘Ca2’.
Tại mỗi
‘Vùng’, Ca lại chia thành nhiều độ
sâu khác nhau.
Sâu nhất là
cảm giác sinh tồn bản năng, từ ‘Vùng 1’.
Có hai loại
Ca cơ bản:
- Ca (hạnh phúc, vui tươi, tình người,
bình an, ..) = Ca (ĐÚNG) = Ca
- Ca (khổ đau, sợ hãi, hung dữ, bất an,
..) = Ca (SAI) =
Cab
Mỗi loại có hai
cấp sâu cơ bản:
- Cấp ‘Vùng
2’ (ý thức) – được biểu hiện bằng thái độ, lời nói, lý lẽ, cảm xúc, hành vi, việc
làm, v.v…
- Cấp ‘Vùng
1’ (vô thức) – được biểu hiện trong nội tâm, tâm hồn, bền bỉ, chiều sâu, … - Sau
đó ‘Vùng 2’ (ý thức) cảm nhận phần phản xạ ra (sản phẩm đầu cuối).
. Ý thức chỉ thấy hệ quả, không thấy nguyên
nhân.
Nếu là Ca gốc ‘Vùng 2’ = Ca2, thì ý chí có thể
chủ động điều khiển sự diễn cảm.
. Ví dụ: - Con
người có thể ‘vui’ (bên ngoài), ‘buồn hoặc hết buồn’ (bên trong).
Nếu là Ca gốc ‘Vùng 1’ = Ca1, thì ý chí không thể chủ động điều khiển sự diễn cảm.
- Vì do Tâm (A1) chủ động
điều khiển, ý thức chỉ cảm nhận hệ quả đầu cuối.
- Con người chỉ
điều khiển Ca1, bằng RÈN TÂM.
. Nếu Rèn Tâm đạt kết quả, thì Cab (Vùng 1) biến thành Ca (Vùng 1).
Ví dụ: - Dùng
logic T làm tăng Ca. - Là làm thay đổi từ Cab (buồn) thành Ca (vui).
Mục đích sự
sống là tìm đến đích H = Ca (ĐÚNG) = Ca – do A1 phát động.
. Gọi đây là ‘Mục đích T’ - cứu cánh của sự sống, do tự nhiên quy định.
Nhưng thực tế,
con người đang tìm đến đích K = Ca (SAI) = Cab – do A2 phát động.
. Gọi đây là ‘Mục đích V’ – sai lầm ngẫu nhiên, do tự nhiên quy định.
+ Nhiệm vụ sự
sống là điều chỉnh,
‘Mục đích V’ thành ‘phương tiện’,
‘Mục đích T’ là ‘cứu cánh’.
Ví dụ 1: - Con
người dù chọn sống bằng ‘Mục đích V’ gì, thì vẫn phải ý thức ‘Mục đích T’
mới là cứu cánh (ý nghĩa chính) của sự sống.
- Diễn giải:
- Ví dụ khi mục đích là ‘Kiếm tiền, làm giàu’ (phương tiện V), thì ý thức ‘Chia sẻ xã hội’ (mục
đích T) là trách nhiệm tất yếu của mỗi
công dân – khi thành đạt (từ cơ bản trở lên).
‘Chia sẻ xã hội’ = Lẽ phải-Chân lý = Ca
Suy ra con
người dù làm gì, cũng phải cần dựa vào Ca,
để làm kim chỉ nam.
. Ca là kim chỉ nam theo nghĩa, sống là ‘không
ích kỷ’
. thì đích đến
mới là H = HpV+HpT rộng mở.
Bằng ngược lại,
đích đến sẽ là K = HpT + KđT (tính ác).
(Chú
thích:
- H = HpV + HpT
. Với HpT,
là thước đo cuối cùng, hành trình tiến đến đích H.
. Và HpV là thước đo của giai đoạn đầu, hành
trình trên.
- Thế giới thường
dùng GDP (HpV), làm thước đo cuối
cùng tiêu chí H.
Trong khi đúng lý, phải có thêm tiêu chí Ca (HpT) - làm thước đo cuồi cùng đường
đến H.
)
Thông thường:
. Người chọn
đích đến là ‘tiền nhiều’ (HpV), thì ‘vốn
Ca kém’.
. Ngược lại,
người chọn đích đến ‘Ca phát triển’
(HpT), thì ‘vốn dtiền kém’.
Chỉ khi tiến
lên ‘Xã hội Mới’ (toàn dân là chủ),
- Thì HpV và
HpT mới phát triển cân đối hợp lý, cho mỗi cá nhân và xã hội.
2/
Sự sống có hai
lựa chọn cơ bản, ‘Sống-ĐÚNG’ hay ‘Sống-SAI’.
Ví dụ,
. Nếu chọn mục
đích ‘Hưởng thụ V’, là chọn ‘Sống-SAI’.
- Vì sự
phát triển của ‘Hưởng thụ V’ bị giới hạn (ăn mặc ở … giới hạn).
- Đồng nghĩa sự sống bị chặn. Đồng
nghĩa K phát sinh (A2
tăng).
. Nếu chọn mục
đích ‘Hưởng thụ T’, là chọn ‘Sống-ĐÚNG.
- Vì ‘Hưởng thụ T’ có khả năng phát triển vô
hạn (Ca … biến vô hạn).
- Đồng
nghĩa sự sống không bị chặn. Đồng nghĩa H phát sinh (A1
tăng).
Kết luận, chọn ‘Hưởng thụ T’ là đáp án tiếp theo, sau đáp
án ‘Hưởng thụ V’ giai đoạn đầu.
Bằng cách
nào thay đổi lựa chọn, từ ‘Hưởng thụ V’
sang ‘Hưởng thụ T’?
- Thực tế chứng
minh, thay đổi ‘Hưởng thụ’ là một vấn đề rất khó khăn. - Vì ‘thói quen hưởng thụ’ không dễ thay đổi.
- Nhưng nếu không
thay đổi, sự sống phát sinh K (bất
ổn, tội ác, v.v..).
Nên thay
đổi ‘kỹ năng Hưởng thụ’ là bắt buộc – tối thiểu ở cấp định hướng phát triển.
Sau đó, mở rộng thay đổi dần, theo nguyên tắc ‘mưa dầm thấm lâu’.
. ‘Hưởng thụ
V’ là hữu hình sinh động cụ thể, nên ai cũng ưa thích.
. ‘Hưởng thụ
T’ là trừu tượng khó hiểu … khó dùng. Nên ít người lựa chọn.
Vì vậy thay
đổi ‘kỹ năng hưởng thụ’, là một thách thức phức tạp. – Nó chỉ thật cần thiết,
khi sự sống bắt buộc. Và thực tế, cuộc sống đang bắt buộc.
Sự sống đòi
hỏi phải thay đổi, đơn giản vì tự nhiên (quy luật) quy định như vậy.
. Kết quả
thay đổi là nhằm chuyển sự sống K, thành
sự sống H – trên phạm vi toàn cầu.
Sự thay đổi
đầu tiên, bao giờ cũng khó khăn. Vì nó có tính khám phá.
- Nhưng những
lần sau sẽ đơn giản hơn, nhờ giáo dục rút ngắn khoản cách tìm tòi mò mẫm nghiên
cứu – cho các thế hệ sau.
- Nếu giáo dục
định hướng đúng, não người sẽ tự động ‘thay đổi hưởng thụ’, khi điều kiện đã hội
đủ.
Sau đây là
chứng minh, quy trình ‘thay đổi hưởng thụ’:
- Từ ‘chọn
hưởng thụ V’ sang ‘chọn hưởng thụ T’.
Về lý thuyết,
Hưởng thụ giá trị T > Hưởng thụ giá trị V
Nhưng thực tế,
con người hiểu ngược lại,
Hưởng thụ giá trị
V > Hưởng thụ giá trị T
Mục đích chứng
minh, là đảo ngược sự nhầm lẫn trên, từ góc độ lý thuyết đến thực hành. – Thực
chất đây là sự thay đổi cả hệ thống ‘Đạo đức, Nhân cách’ của con người.
Hay nó là sự
thay đổi về ‘nhân sinh quan và thế giới quan’ của tư duy.
Chú thích,
- Trong ‘hưởng
thụ giá trị T’, đã bao gồm ‘hưởng thụ giá trị V’.
- Ngược lại,
trong ‘hưởng thụ giá trị V’, loại trừ ‘hưởng thụ giá trị T’.
Vì trong V (đồ
vật) không có T, trong T (trí tuệ) có T và V.
Vì vậy người
giàu có trong ‘Văn minh V’, thường đạo đức nhân cách (T) kém.
Trái lại, người
nghèo trong ‘Văn minh V’, có điều kiện phát triển nhân cách (T).
- Vì giàu có
quá chú trọng vào vốn V (tiền), nên không còn thời gian cho vốn T.
- Ngược lại,
vì nghèo khổ nên vốn V (tiền) bế tắt, quay sang phát triển vốn T (đạo đức, nhân
cách, tâm hồn).
So sánh giá
trị V và giá trị T:
Ví dụ 1,
- ‘Bác tài’
(T) có giá trị lớn hơn ‘chiếc xe’ (V).
. Vì nhờ có ‘bác tài’, ‘chiếc xe’ mới phát
huy giá trị.
. Trong thực tế, đào tạo ‘bác tài’ (đạo đức,
nhân cách) - khó hơn sản xuất ‘chiếc xe’ (khả năng kiếm tiền) rất nhiều.
Ví dụ 2,
- T là lẽ phải-chân lý (bác tài). V là tiền (chiếc xe).
Chiếc xe (tiền) phải nhờ có bác tài (lẽ phải-chân lý), thì đường đến đích H sáng tỏ.
Chiếc xe (tiền) thiếu bác tài (lẽ
phải-chân lý), thì sự sống lạc lối đến K.
Vì lợi ích
trên, nên yêu cầu chuyển ‘Hưởng thụ V’
thành ‘Hưởng thụ T’,
- Vấn đề có
nghĩa, chủ thể phải học cách ‘dùng lao động
T để sản xuất Ca’
(với Ca
= HpT = Hưởng thụ T = đoạn cuối
đến đích H).
+ Trường hợp
chủ thể đang áp dụng ‘Rèn Tâm trực tiếp’.
Quy trình học
cách dùng ‘lao động T’ như sau:
Trí tuệ (T) có kết cấu cơ bản là thói
quen (do Ca bất kỳ điều khiển).
- Thay đổi thói quen ‘Sai’ sang ‘Đúng’, là đồng
nghĩa ‘sản xuất Ca’ thay thế Cab.
- Con người ban
đầu dùng thói quen (V)
- ‘Sai’, để sản xuất sự sống.
. Theo nghĩa ‘Hưởng thụ V’ = ‘ăn mặc ở’ (= HpV = đoạn đầu của H)
Khi V tăng số
lượng, con người quy đổi ‘ăn mặc ở (V) = Tiền’.
Suy ra, ‘Hưởng
thụ V = ‘Tiền’ = H’.
– Hay ‘Tiền = H’.
‘Tiền = H’
là thói quen (T)
- Vì ‘Tiền’
là khái niệm của trí tuệ (T).
- Vì ‘tiền’
không ăn được, nhưng vẫn ‘hưởng thụ H
(V).
Suy ra hưởng
thụ đó là hưởng thụ tinh thần - H (T).
. Hay H (T) đang đại diện cho H (V).
. Vì ‘tờ giấy tiền’ (T) đang kích hoạt cảm
xúc (V) – ăn mặc ở...
Kết luận
H (tư duy-tiền) = H (T) (tư duy = tờ giấy)
Tức là chỉ cần
nhiều ‘tờ giấy’, là niềm vui hạnh phúc vô bờ.
- Đây là
cách loài người, đã chuyển từ ‘hưởng thụ V’ sang ‘hưởng thụ T’
thành công – một cách ngẫu nhiên tự phát.
- Hay thói quen (V) đã chuyển thành thói quen (T).
Tuy nhiên, trong
công thức trên vẫn còn khái niệm ‘tờ giấy’
(thuộc V).
Nên ‘hưởng
thụ H - vẫn còn bị giới hạn’.
(Chưa thỏa
mãn nhu cầu tối ưu vô hạn)
. Do đó yêu
cầu là, phải tiến lên
‘Hưởng thụ
T toàn diện’ (H không còn giới hạn bởi V).
Tiến hành
như sau:
Trước định
nghĩa, Tiền (tờ giấy) = H.
Nay định
nghĩa, ‘logic’ = H
(‘tờ giấy’
và ‘logic’ đều là khái niệm, nên có thể đổi nhau – miễn là có lý)
Vì sao logic = H:
- KHV dùng logic
V, tạo ra ‘Mức sống V’ (xe hơi, nhà lầu, v.v..) = H (HpV)
- Suy ra Logic
V = H
Tương tự
- KHT dùng logic T, phát triển ‘Mức sống T’ (lẽ phải-chân lý, ..) = HpT
= H
(HpT - do thực
nghiệm đã chứng minh.
Ví dụ, sống
thân thiện (logic T) = H, sống hận thù (logic B) = K.)
- Suy ra Logic T = H
Tiếp theo để
thay đổi,
Từ (hưởng
thụ) thói quen V chuyển sang (hưởng
thụ) thói quen T bằng cách:
- Tạo ra
định nghĩa mới về ‘mục đích sống’ với H = HpT (thay vì H = HpV)
- Tức là,
trước (hưởng thụ) ‘thói quen tiền’,
nay đổi sang (hưởng thụ) ‘thói quen logic T’.
Đến đây H đã có đáp án chuyển đổi, từ ‘Ca (tiền)’ (A2) - sang ‘Ca (logic T)’ (A1).
- Nó đúng
trên lý thuyết logic chứng minh, và đúng trong thực tiễn.
(Gọi giai đoạn
này, là ‘Rèn Tâm ngoài não’.)
Sau đây đến
phần chứng minh, giai đoạn ‘Rèn Tâm trong não’.
(Vì thực tế,
có hai giai đoạn Rèn Tâm – ngoài nào và trong não,
thì ‘mục
đích thói quen V’ mới đổi thành ‘mục đích thói quen T’ trọn vẹn.)
- Cũng tương
tự, từ định nghĩa logic T = H, nay định
nghĩa logic T = 0 = H.
‘0’ có nghĩa là, công việc hoàn
thành đúng đắn, tốt đẹp, vui vẽ.
- Lý do thay
đổi từ ‘H’ sang ‘0’,
. Vì trong Rèn Tâm (sửa thói quen) ban đầu dùng
logic T,
(cho các vấn đề/hiện tượng ngoài não
– do Ý thức phụ trách là chính)
. Nhưng khi
Rèn Tâm ‘trong não
– do Vô thức
phụ trách là chính, cụ thể là do lao động
T’.
Thì lao động T chỉ nhìn thấy ‘0 và 1 (khác không)’.
Ví dụ:
- Khi logic
T = 0, thì lao động T sản xuất Ca = H.
- Khi n lần
logic T = 0, thì Ca tăng n lần, là đạt
đích giới hạn (Đắc đạo toàn diện).
Ca = 0n = Hn
(Đắc đạo Toàn diện)
Bấy giờ, Hưởng
thụ T phát triển vô hạn – khi ý thức vận động vô hạn, trong quỹ đạo ‘thói quen quy luật tự nhiên’.
Với đặc điểm
Hưởng thụ T vô hạn = Ca phát
triển vô hạn
= Tính Thiện phát triển vô hạn
= H (HHV)
- Kết quả
này thay thế cho thói quen cũ,
Hưởng thụ V hữu hạn = tiền phát triển vô hạn
= Tính Ác phát triển vô hạn.
= K (K’’)
Kết luận:
- Chỉ Hưởng
thụ T là thỏa bản năng hưởng thụ vô hạn của con người. Đồng thời vừa là độc
đạo, dẫn loài người đến điểm hẹn niềm vui HHV – mà lịch sử loài người hằng mơ ước
(từ tiềm thức, đến huyền bí siêu nhiên, đến thực tại).
- Khác với Hưởng
thụ V, nó luôn bị giới hạn (bởi ăn mặc ở … có giới hạn). Vì vậy để bù đắp,
con người (cá nhân, thiểu số) càng tìm cách ‘kiếm tiền vô hạn’ nhằm thỏa bản năng dục vọng … hay quán tính dục vọng.
. Và hệ quả tất yếu, nó đẩy bất công/tội ác của xã hội loài người, đến đỉnh cực đại của sai lầm, bạo
lực, khủng hoảng, khổ đau, bế tắc, … đối đầu … nguy cơ tận thế.
. Bởi con người bị phản lực, khi mù quáng dùng
‘lòng tham vô hạn’ đối đầu với
hưởng thụ ‘tiền tài thế gian hữu hạn’.
(Đáp án:
- Chỉ khi ‘lòng
tham vô hạn’ đối đầu với hưởng thụ ‘Ca
(lẽ phải-chân lý) vô hạn’,
thì sự sống thế gian mới thật sự phát triển đúng đắn - trong Bình an Hạnh
phúc vĩnh viễn.)
Hay tạo hóa vốn
dĩ đã minh định:
· H (T) = vô hạn. –
Là đáp án độc đạo của bản năng Hạnh phúc vô hạn.
Trái với
· H (V) = hữu hạn. – Là đáp án lạc lối, đường dẫn
đến Khổ đau vô hạn.
(Cho dù ‘tiền chất đầy kho’)
Kết quả,
. ‘Hưởng thụ
thói quen T’ (Văn minh T) là lời
giải của kỷ nguyên phát triển đỉnh cao.
– Vì vậy nó mang tính MỤC ĐÍCH, trong hành
trình tiến hóa sự sống con người.
. ‘Hưởng thụ
thói quen V’ (Văn minh V) là lời
giải của kỷ nguyên phát triển đầu.
– Thì nay nó trở thành tính PHƯƠNG TIỆN, nhằm
phục vụ cho tính ‘Mục đích’.
Trí tuệ có hai phần ‘V + T’.
. ‘Tiền’ là đại diện cho ‘Hưởng thụ V’, nhằm thỏa nhu cầu cơ thể (quy luật V).
Nhưng nó sẽ lạc lối nếu tiếp tục phát triển,
mà không quy luật T dẫn đường.
. ‘Ca’ là đại diện cho ‘Hưởng thụ T’, nhằm thỏa nhu cầu trí tuệ (quy
luật T).
Nhưng nó sẽ vô nghĩa nếu thiếu quy luật V, làm đối trọng (phương tiện).
Theo quy định
tự nhiên,
. Trí tuệ chỉ được chọn MỘT trong hai
(V hay T) làm mục đích sống chính (hưởng thụ chính - đời người).
[Con người không
thể chọn cùng lúc ‘hai mục đích V &
T song hành – ngang nhau’].
Do đó trong
thực tiễn cuộc sống,
bắt buộc cá nhân (xã hội, quốc gia, thế giới) phải
chọn MỘT trong hai,
làm kim chỉ
nam phát triển:
- Một là chọn
‘thói quen V’, làm mục đích sống
chính. - Thì tương lai, bị lạc lối.
- Hai là chọn
‘thói quen T’ (sau rút kinh nghiệm lạc
lối). - Thì tương lai sẽ HHV.
Khi ‘thói quen T’ thay dần ‘thói quen V’, thì đồng nghĩa cái ÁC cùng
lùi dần vào bảo tàng lịch sử.
3/
Bằng cách
nào chuyển đổi từ ‘Mục đích V’ sang ‘Mục đích T’.
Muốn thay đổi
‘thói quen hưởng thụ’,
Thực chất là
thay đổi ‘quan điểm mục đích sống’
trước.
- Giống như
muốn ăn trái gì, thì phải chọn và gieo hạt giống trước.
Hạt giống ở
đây là trả lời câu hỏi, con người sống kiếm Tiền để làm gì - cho ai?
- Để trả lời,
cần định nghĩa lại … bài toán ‘Mục
đích sống’.
Một là,
+ Sống là vì Lợi ích Cá nhân (bản thân).
Câu đáp này
là ĐÚNG, khi cá nhân mới phát triển – sự sống còn thiếu.
Nhưng nó là SAI,
khi cá nhân sống thành công – từ cơ bản đến
giàu có (tiền).
- Tức là cá
nhân phải thay đổi quan điểm sống:
. Từ ‘vì lợi ích bản thân’ tiến lên ‘vì
lợi ích chung’ (xã hội, thế giới)
. Nếu không sẽ thành ích kỷ (Bệnh T).
Hai là,
+ Sống là vì Lợi ích Chung (xã hội, quốc gia, thế giới).
Câu đáp này
luôn ĐÚNG về lý thuyết, cho mọi trường hợp (nghèo, giàu).
Nhưng xét
góc độ khách quan,
. Chỉ người có dư (từ cơ bản đến giàu có),
mới đủ điều kiện ‘vì lợi ích chung’ (chia sẻ/giúp đỡ người khác)
. Còn người đang thiếu sống (nghèo khổ), thì
không đủ điều kiện ...
Nhưng thực tế
(thường) chứng minh ngược lại:
. Người giàu
có dễ có tính ích kỷ (vì lợi ích
cá nhân, Bệnh T) hơn
. Người
nghèo khổ dễ có tính chia sẻ (vì lợi ích chung) hơn.
Lý do đơn giản:
. Người giàu
có chưa kịp thay đổi quan điểm sống của thời ‘thiếu sống’.
. Người nghèo
khổ có nhiều cơ hội thay đổi
quan điểm sống hơn – khi lương tâm đồng
cảm cảnh ngộ, dễ đánh thức ‘tình
người’ trong họ hơn.
Kết quả:
- Người giàu có thường mắc ‘Bệnh T’, đường đến H (HpT) bị cản trở.
- Người nghèo khổ ít mắc ‘Bệnh T’ hơn, đường đến
H (HpT) tương đối hơn.
Đây là lý
do, thế giới ‘người nghèo’ nhiều khi, vui hơn thế giới ‘người giàu’.
Hậu quả,
‘giai cấp’ nào rồi cuối cùng … đều cùng khổ.
Chung quy là
do mục đích ‘sống để làm gì?’, chưa được minh định rõ ràng.
- ĐẠO ĐỜI giải
đáp, sống để tìm H = HpV + HpT.
Với:
HpV = Mức sống V (tiền) từ cơ bản đến giàu
có
HpT = Mức sống T từ không ích kỷ (Bệnh T),
đến giác ngộ ‘lẽ phải-chân lý’
tăng dần.
Thực tế, sự
sống đã bị gieo mầm ‘ích kỷ’, từ thuở
‘thiếu sống’.
Để sau đó:
- Ích kỷ + Văn minh V = Bệnh T.
Chỉ có những
‘tài năng-lương tâm’ là được miễn
nhiễm với Bệnh T – mặc dù chưa phải hoàn toàn.
- Lý do, họ
còn thiếu cơ sở lý thuyết KH, để củng cố nhận thức.
Nay với ĐẠO
ĐỜI, tin rằng sự miễn nhiễm sẽ triệt để hơn. Để từ đây sự miễn nhiễm lan rộng
ra xã hội và thế giới, theo thời gian.
ĐẠO ĐỜI thực
hiện miễn nhiễm bằng cách nào?
- Bằng tiến
hành ‘sửa lại quan điểm sống’
– khi mức sống V đã cơ bản trở lên.
(về nguyên tắc,
sửa quan điểm ngay từ thuở ‘thiếu sống’ là hiệu quả nhất)
* Sửa lại
quan điểm sống, cũng là sửa lại mục đích sống, rằng ‘Hãi sống vì lợi ích phát triển chung’ – bao gồm phát
triển vì lợi ích bản thân, và vì lợi ích chung mọi người (xã hội, quốc gia, thế
giới).
Thay vì, ‘chọn
sống thu hẹp chỉ vì lợi riêng cá nhân, hay vì cục bộ thiểu số’.
Giai đoạn đầu
khi chưa đủ sức, cá nhân có quyền ‘tập trung phát triển cho bản thân’ (không
ích kỷ). Nhưng khi mức sống đã ổn định và có dư (giàu có), thì ‘hãy chia sẻ lợi ích với mọi người’ để tạo
điều kiện cùng phát triển chung. – Đặc biệt, ưu tiên chia sẻ cho những hoàn cảnh
nghèo khổ (dưới mức sống cơ bản).
Nhờ vậy thế
giới sẽ phát triển ổn định và đồng bộ.
Như trên là
định nghĩa theo góc độ logic T, về
‘Mục đích sống’.
- Nó nhằm ‘gieo
mầm’ đích đến H (HpT) cho tương
lai chung.
(trên nguyên
tắc cơ bản ‘sống là không ích kỷ’)
- ‘Gieo mầm’
là sửa lại quan điểm từ ‘ích kỷ’
sang ‘chia sẻ’.
Hay
- ‘Mục đích
V’ chuyển sang ‘Mục đích T’.
- ‘Mức sống
V’ tiến lên ‘Mức sống T’.
- ‘Hưởng thụ
Tiền (ăn mặc ở ..)’ tiến lên ‘Hưởng
thụ Ca (lẽ phải-chân lý)’.
Tất cả bằng phương
thức ‘Rèn Tâm’ (trực tiếp kết hợp gián tiếp), để đạt hiệu quả.
Đặc điểm
tính ‘ích kỷ’ là dùng logic V hay
logic B, trong cuộc sống.
Đặc điểm
tính ‘chia sẻ’ là dùng logic T, trong cuộc sống.
Logic T = logic V + Tình người
Theo quy định
tự nhiên, muốn thành công:
. Trong công
việc V (đối tượng là ‘đồ vật’), phải dùng logic V (logic) để chứng minh.
. Trong công
việc T (đối tượng là ‘con người’), phải dùng logic T để chứng minh.
Nhưng thực tế
với ‘công việc T’, con người thường
dùng logic V (đến logic B) để giải
quyết. – Như thế là nhầm lẫn giữa ‘đồ vật’ với ‘con người’. Nên thất
bại trước tự nhiên.
4/
‘SAI’
lâu tạo thành ‘thói quen-Sai’ (A2,
Cab), và tăng dần.
- Mục đích của
‘Rèn Tâm’ là sửa ‘thói quen-SAI’
thành ‘thói quen-ĐÚNG’.
Kết quả, thói quen-Đúng (A1,
Ca) hình thành và tăng dần.
- Tức là sửa
từ logic V (logic B) cho việc T, sang
logic T cho việc T.
Ví du:
. Đi làm đúng giờ, đúng hẹn, khách quan, trung
thực, hiệu quả, chia sẻ, v.v… - Như thế là cách sống logic T, của những con người biết sống vì lương tâm, vì trách nhiệm,
...
. Khó hơn, là biết tìm ‘lẽ phải-chân lý’ cho
những vấn đề phức tạp của xã hội và thế giới. Thì đây là cách sống logic T của những tài năng-lương tâm.
Cách sửa ‘thói quen – SAI’ thành ‘ĐÚNG’ như sau:
- Mỗi hành
vi/việc làm của con người, đều có những ‘nội dung/ý nghĩa’ nhất định.
- Sửa lại các
‘nội dung/ý nghĩa’ ấy cho đúng logic
T, là sự sống đổi mới thành công.
Ví dụ, làm việc
gì cũng phải cân bằng lợi ích – giữa riêng cá nhân và chung xã hội (quốc
gia, thế giới), sao cho đạt tỉ lệ hợp lý nhất.
. Lợi ích bản thân là đích đến H = HpV + HpT
. Lợi ích xã hội (.. thế giới) là đích
đến HHV.
Cả hai đích
này có tính biện chứng với nhau.
Vì vậy cá
nhân hay loài người, đều cần ý thức vận dụng song hành hai mục đích trên cùng
lúc, thì đích đến tương lai mới tốt đẹp.
Hiện nay,
- Con người
sống/làm việc vì HpV (= Ca (HpV)) là phổ biến.
Vì vậy tính ích kỷ phát sinh, như ngày càng phổ cập.
(Một vài
hành vi/lời nói/việc làm tích cực hình thức, thực chất chưa đủ nói lên điều gì.)
Gọi,
- Tính ích kỷ là hệ quả của ‘việc V’
đơn thuần. – Đích đến sẽ là K.
- Tính chia sẻ là hệ quả của ‘việc V + việc
T’ kết hợp. – Đích đến sẽ là H.
Như vậy sửa lại ‘Mục đích sống’ có
nghĩa, cùng một vấn đề - trước chỉ làm ‘một việc’ là hoàn thành. Thì nay phải
làm thành ‘hai việc’ song song, mới gọi là hoàn thành.
Cụ thể:
- Một là, hoàn thành ‘việc V’ (sản xuất
đồ vật, ..)
+ Sao cho thỏa logic V.
- Hai là, hoàn thành ‘việc T’ (là sửa
lại ‘nội dung/ý nghĩa/mục đích’ của ‘việc V’).
+ Sao
cho thỏa logic T.
Hay ‘việc V’ sửa thành ‘việc T’, - với
‘việc T = việc V + việc T’.
+ Tức là logic V, sửa thành logic T = logic V + Tình người.
Thực tế nhiều người không thích sửa
‘việc V’ thành ‘việc T’.
- Vì nó làm ‘Vốn V’ (tiền) của họ bị
giảm.
- Nhưng họ quên rằng khi ‘Vốn V’ giảm,
là lúc ‘Vốn T’ (đạo đức, nhân cách) tăng.
Cả hai cộng lại mới tìm ra H.
Biết rằng mục đích sự sống là tìm H, chứ nào phải tìm ‘nhiều Tiền’.
– Tuy nhiên
thói quen ‘không vui’ (khi làm việc T), vẫn là không vui.
. Vì ‘A2 – Cab - ích kỷ’ đang chủ đạo
cuộc sống. Làm cho niềm vui lương tâm (A1
– Ca - chia sẻ) đã bị CHAI cảm
xúc (vô cảm).
. Vô cảm
là biểu hiện của ‘Bệnh T’ đã hình thành, do Cab phát triển quá mạnh.
Do đó cần sớm
điều trị, để phục hồi lại Ca (thay
thế Cab).
+ Để khắc phục Bệnh T, con người thường dùng
… ‘cầu nguyện’, để ứng phó tạm thời sự bế tắt. Trong khi thực tế, nó (Cab) vẫn tồn
tại.
+ Hệ quả của Bệnh T, là con người ‘không tự giác – LÀM ĐÚNG’.
Tức là chưa
biết kết hợp ‘việc V + việc T’.
Sau đây là
quy trình ‘điều trị bệnh CHAI’ (vô cảm) của Bệnh T.
. Đặc điểm bệnh, là niềm vui tinh thần Ca (HpT – lương tâm) yếu hay không có,
– so với niềm vui vật chất Ca (HpV) rất cụ thể mạnh mẽ.
- Cách điều
trị ‘Bệnh T’ (bằng ‘Rèn Tâm trực tiếp’) như sau:
. Gắn
niềm vui Ca-HpV vào niềm vui Ca-HpT (bị vô cảm) - xem ‘CÁCH SỐNG MỚI’ (HTNT) phần rèn tâm.
Thì ‘cảm
xúc-tình người’ sẽ mạnh lên. Hay ‘Vô cảm’ đã phục hồi sang ‘Tình người’.
(Cách làm giống
như: - ‘Giấy tiền’ vô nghĩa, nhưng gắn vào ‘niềm vui - ăn mặc ở’. Kết quả
‘Giấy tiền’ cũng có ‘niềm vui – ăn mặc
ở’, mặc dù chỉ là tờ giấy vô nghĩa.)
– Sau gắn vào (lần đầu) thành công, thì các việc V đổi thành việc T của các lần sau sẽ kế thừa thành quả của Ca (HpT) lần đầu. Cứ thế ‘tình người’ cộng dồn mạnh dần lên,
và phục hồi lại bình thường. Bệnh T chấm dứt.
(Chú
thích:
‘Gắn niềm
vui’ theo cách bình thường.
- Là khi ‘việc
V đổi sang việc T’, chủ thể liên tưởng đến Ca (HpV) [có niềm vui mạnh mẽ như ăn
ngon, thi đậu, trúng số độc đắc, v.v..] nhiều lần. Thì ‘Việc T’ sẽ có niềm vui
mạnh mẽ của Ca (HpT) liên tưởng. Tuy
nhiên, cách làm này cho kết quả chậm và khó chủ động kết quả.
‘Gắn vào’ theo
phương pháp ‘CÁNH DIỀU’ (trong “Cách sống Mới”), sẽ cho kết quả nhanh (gần
như tức thời). Tính chủ động cao, kết quả cụ thể.)
Ví dụ: - Nó
giống như ‘dòng điện’, tạo lực đẩy ‘cánh quạt’. Thì ở đây dùng Ca (HpV), tạo lực đẩy cho Ca (HpT).
Nhiều lần Ca (HpT) mạnh lên, nhờ cộng dồn của nhiều ‘việc V chuyển thành việc T’ hoàn
thành. Khi Ca (HpT) mạnh dần lên, sẽ
tạo lực đẩy đủ mạnh, để phát triển Ca tiến về đích chân lý.
– Giống như đá
banh, nếu cổ vũ mạnh ‘niềm vui chiến thắng’, thì cầu thủ dễ đá thắng lợi.
)
·
. Sau đây tóm
tắt, quy trình sửa đổi việc V (Cab-K’’)
đầu tiên,
sang thành việc
T (Ca-HpT) – đang bị yếu niềm
vui:
- Bước đầu là sửa lý/sửa định nghĩa (cho
đạt logic T) – ‘lý ích kỷ’ sang ‘lý chia
sẻ’)
- Kế là sửa cảm .
. Bằng cách dùng ‘Ca-HpV’ mạnh [của việc
V (tốt) như thi đậu, tiền nhiều, ..],
. để áp lên ‘Ca’ - (Ca-HpT) của việc T bị vô cảm [vừa sửa lý xong ở trên].
Kết quả:
- Ca-HpT (việc T) có niềm
vui ‘tình người’ (hết vô cảm).
- Thay cho Cab-K’’ (việc V) vô cảm trước đây.
- Hay biểu hiện thành công thức:
Việc V (logic V) + Việc T (logic T) = Ca-HpT (sau khi sửa thành công)
(Việc V
+ ý nghĩa thỏa logic T = niềm vui T)
Một logic
T mới vừa hoàn thành tại việc T (ý nghĩa của việc V).
(trước là
logic V hay logic B – nay đã chuyển sang logic T)
·
Kế là sửa
các việc T tiếp theo:
- Những lần sau thì dùng Ca (HpT) vừa thành công, áp
lên các ‘việc T’ kế sau. Lần này dễ hơn, vì ‘tình người’ đã hình thành, nên sẽ
tự động phát triển theo – khi phát hiện một logic T mới xuất hiện.
Kết quả, ‘Ca-HpT’ tiếp theo hình
thành.
Cứ thế lần
lượt các ‘việc V’ (Sai) - đổi thành các ‘việc T’ (Đúng), cho đến hết mọi vấn đề
của bài toán sự sống – trong khả năng của mỗi đời người.
. Kết quả, một
chuỗi Ca phát triển mới, tạo thành liền mạch về lý và cảm, về mọi hiện tượng sự sống (con người/xã
hội/thế giới) nói chung. Nếu làm đúng hết đến tận cùng, thì sẽ ngộ ra ‘chân lý toàn diện’ của sự sống.
Có thể so sánh,
- Ca là động lực vô thức, thúc đẩy sự sống
phát triển từ nhận thức ‘SAI’ đến nhận thức ‘ĐÚNG-toàn diện’.
- Nó giống như
chất ‘dinh dưỡng’ nuôi cây trồng, từ
‘RỄ’ đến ‘NGỌN’ vậy.
5/
Sự sống là hệ
lý luận liền mạch, từ ‘sai lầm cơ bản’ ban đầu có thể chứng minh liền mạch nhất
quán logic, đến ‘chân lý – đúng đắn
toàn diện’ cuối cùng.
- Do đó, từ
‘sai lầm cơ bản’ đến ‘chân lý toàn diện’, là một ‘hệ thống giá trị’ có tính trật tự phát
triển logic chặt chẽ. Nhìn một hiện tượng, có thể định vị nó thuộc cấp thứ tự
nào trong toàn hệ thống.
- Cũng như vậy,
nhìn một con người có thể xét đoán, thuộc mức giá trị nào trong tổng giá trị cần
có ‘của một đời người’ (chuẩn H).
- Từ ‘hệ thống giá trị’ (sự sống) trên có thể
quy đổi thành ‘hệ lý KH’ thống nhất.
Mà ở đây gọi là hệ lý HTNT (ĐẠO ĐỜI) như đang giới thiệu.
. Bản chất sự
sống là một hệ thống logic T liền mạch.
. Suy ra, Ca có tính tiến hóa liền mạch, từ
‘SAI - cơ bản’ đến ‘ĐÚNG – toàn diện’ (chân lý).
Vì vậy mọi
rèn luyện nhân cách, không đúng trật tự, đều cho kết quả thất bại.
- Ví dụ Ca có mười trật tự thứ bậc, nếu chủ thể
đang ở bậc ‘Ca 2’ –
nhưng muốn rèn lên ‘Ca 5’, là sẽ bị
thất bại. Mà phải đúng thứ tự ‘Ca 3’,
thì sẽ thành công.
- Nhưng thực
tế, loài người chưa ý thức về quy định trật tự phát triển này.
Nên mạnh ai
tự do xưng danh vỗ ngực ‘đạo đức, nhân cách’. Nó có đúng trật tự trình phát triển
hay không – sự thật không ai biết. Như thế là phát triển thất bại.
Để cuối
cùng, ‘Mức sống T’ của xã hội không phát triển đâu vào đâu. Dẫn đến, bất ổn xã
hội (quốc gia, thế giới) tăng lên.
Suy ra:
- Ca là một hệ tư duy logic T (cảm xúc) liền mạch chặt chẽ, là
cơ sở tạo ra trí tuệ T (nhân cách) của
mỗi con người – nói riêng. (Tổng trí tuệ, V+T - nói chung)
- Đọc được cấu
trúc Ca, sẽ hiểu được con người,
hiểu được xã hội loài người (quốc gia, thế giới), và biết được tương lai đi về
đâu.
Ví dụ,
- Nếu định
nghĩa Ca X = N = 10 (mười trình sống)
. thì mọi trí tuệ (T) cá nhân, đều nằm trong
giới hạn của ‘10’ trình trên.
- Ví dụ nếu
trí tuệ (T) đạt trình ‘Ca X=7’, thì
kém hơn trình ‘Ca X=8’.
. Cũng
vậy, nếu trình ‘Ca X=8’, thì kém hơn
trình ‘Ca X=N=10’ (CaN).
‘CaN’ là khả năng nhận thức toàn diện
thế giới hiện tượng ngoại vi (não). Từ đây suy ra ‘LÝ - toàn diện cơ bản’
– giúp miêu tả hình thức hiện tượng loài người.
(Chú
thích:
- Các lý giải
trên và tiếp theo, thuộc ‘Rèn Tâm trực tiếp’. Nên lý thuyết tương đối dài dòng,
hay lắm lúc phức tạp khó hiểu.
. Tuy nhiên nếu so sánh với lý thuyết chế bom
nguyên tử, sản xuất xe hơi/máy bay/tàu ngầm/ v.v … thì có lẽ còn ngắn hơn nhiều.
Cả hai lý
thuyết V và T đều khó hiểu, nếu muốn lý giải tận cùng - các chủ đề lớn và
toàn diện. Vì ‘khó hiểu’, nên chỉ dành cho những ai đủ khả năng (học cao,
nghiên cứu sâu), mới có thể hiểu.
Nhưng vấn đề
khác thường ở chỗ, hỏa tiễn/máy bay/xe hơi v.v … không phải ai cũng muốn làm những
nghề sản xuất này. Nên họ không quan tâm lý thuyết sản xuất khó hay dễ. Họ chỉ
quan tâm mua sản phẩm về dùng, nếu thích.
Ngược lại, mọi
con người đều phải tham gia “sản xuất - sự sống” mỗi ngày, cho dù họ thích
hay không thích.
Đây là vấn đề
nghịch lý của hiện tượng sự sống (con người).
- Về nguyên
tắc ‘đã tham gia-sản xuất-sự sống’, thì phải học/hiểu biết về ‘lý thuyết – sản xuất sự sống’.
Thì sản phẩm làm ra mới thành công. Nếu ai kém (không đủ khả năng), thì xin mời
không tham gia ... (tức là cho ‘xử … tử’).
- Nhưng thực
tế không được ‘xử …’, cho dù rất bất cập. – [Thế nhưng phải chăng, loài người
đang ứng xử nhau – ‘đúng như vậy’ … theo cách nào đó]
- Thế là ‘hiểu
hay không hiểu, biết hay không biết – lý
thuyết sự sống’ … Mọi người sinh ra đều hiển nhiên có quyền tham gia sự
sống.
- Hậu quả tất
yếu … ‘sản phẩm – sự sống’ bị sản xuất
ĐÚNG - SAI lộn xộn hên xui. Và việc đến phải đến … chúng va chạm nhau sống
còn. Bởi ‘sản xuất-ĐÚNG’ không thể
hòa nhịp với ‘sản xuất-SAI’.
- Trong khi thế
giới chưa có luật nào, đủ khả năng
quản lý hiện tượng này. Biết rằng, sản phẩm sự sống liên tục sản xuất tại mỗi phút giây, bởi trí não của gần chục
tỷ người toàn cầu. Và nhiều trí não có thể chưa biết, tiếp theo sẽ sản xuất loại
sự sống gì …
Nay chứng
minh sự sống có lý thuyết mang tính KHT.
Nó dễ lúc đầu,
nhưng càng khó về sau. – Đến phần ‘rất khó’, sẽ hiếm người hiểu.
Tuy nhiên,
tác giả vẫn giới thiệu đầy đủ cơ bản, để làm bằng chứng cho sự hình thành lý
thuyết KHT (ĐẠO ĐỜI, HTNT).
Tất cả được
nêu ra như trên, để độc giả tiện nhận thức và theo dõi vấn đề.
Mọi người
tùy nhu cầu, mà chọn ra cách tiếp cận các tác phẩm của HTNT.
Phần tác giả,
cố gắng trình bày cô đọng, dễ hiểu tối đa. Còn lại sẽ giải đáp thực tế, qua các
diễn đàn.
(Nếu viết ra
hết, e rằng người đọc sẽ khó tiếp thu. Tác giá thì mất rất nhiều công sức. – Trong
khi quỹ thời gian đời người có hạn. Tài chánh cũng yếu dần. Nhưng độc giả thì vẫn
muốn ‘cháo múc, tiền treo’ - tất cả miễn phí cho khỏe.)
Trong ‘Đề
Cương Xây dựng Thế giới mới, HHV’ (HTNT), những cốt lõi của ĐẠO ĐỜI (HTNT) sẽ
được trình bày chi tiết. – Nó sẽ sặc mùi lý thuyết … rất khó chơi.
)
‘LÝ – toàn diện cơ bản’, là thành quả của
quá trình sản xuất các Ca (HpT) thành công, - từ
góc độ quan sát mắt thấy tai nghe.
- Nó là
thành quả của quá trình rà soát, chỉnh sửa tất cả các nội dung tư duy ‘Chưa
Đúng’ thành ‘Đúng Đắn’ – đạt chuẩn logic
T.
- Mỗi chỉnh
sửa, là một ‘nôi dung, ý nghĩa’ (lý giải) mới sáng tạo thành công.
Tính ra tổng
số lượng công việc hoàn thành trên là rất nhiều.
- Muốn hoàn
thành nó phải biết cách tổng hợp, và tạo thành hệ thống nhất quán. Nếu không sẽ
dễ bị … bơi … trong rừng vấn đề lộn xộn, của cuộc sống thế gian.
Khi đáp án tổng
thể (chân lý toàn diện) đã rõ cơ bản,
- Thì cách mọi
người tiếp cận chân lý sẽ đơn giản
hơn rất nhiều.
- Cụ thể là dùng
‘Rèn Tâm gián tiếp’, thông qua các hoạt động Tổ Nhóm, kết hợp hệ thống tổ chức DIỄN ĐÀN, cộng tham vấn của ĐẠO ĐỜI.
Thì Ca nào cũng có thể chỉnh sửa, và
tiến về H – theo khả năng.
. ĐẠO ĐỜI chỉ đóng vai trò ‘tham vấn/gợi ý’,
mọi người nắm quyền kết luận sau cùng.
Về ‘Rèn Tâm
trực tiếp’,
- Là chỉnh sửa
Ca bằng các suy luận – nhận thức (KH) trực tiếp. Nó cho kết
quả nhanh, đủ thời gian tìm đến đích chân
lý (toàn diện) cuối cùng thành công.
Khác với
‘Rèn Tâm gián tiếp’, cho kết quả từ từ. Thì đời người không đủ quỹ thời gian, để
đích chân lý (toàn diện) cuối cùng.
- Từ thành
quả trên cho phép kết luận, rằng sự sống không do ‘cầu nguyện’ v.v…
Mà là do quy luật quyết định. Quy luật thì do (thay
đổi) nhận thức (Sai thành Đúng) để
tiếp cận. Từ đó sẽ tìm ra đường đến H
và HHV.
Có thể tổng
kết sự sống con người tiến hóa như sau:
- Lúc đầu H
= V (ăn mặc ở).
- Hiện tại H
= V (tiền nhiều).
- Tương lai H
= V + T (tiền + Ca phát triển).
Với Ca = ‘Việc làm + Logic T’.
Nếu gọi ‘Ca 1’ là đầu tiên, thì chuỗi thứ tự
phát triển Ca sẽ là:
- ‘Ca 1’, ‘Ca 2’, ‘Ca 3’, v.v… ‘CaN’ (cuối cùng).
(Ghi chú: - Can dùng trong ‘Vùng 1’, CaN dùng trong ‘Vùng 2’)
‘CaN’ = ‘Vấn đề N + Logic T’
‘CaN’ đánh dấu kết thúc giai đoạn 1
– của quá trình ‘Rèn tâm trực tiếp’, về các hiện tượng sự sống con người ‘bên
ngoài Não’.
(còn tiếp)
Mọi sự trợ giúp ngân phí cho xin vui lòng gởi
về:
ASIA COMMERCIAL BANK
- SWIFTCODE: ASCBVNVX
Account: 9442057
Master: LO CONG HOAN
Branch: CN CHO LON
hoặc
Số tài khoản : 123 893 919
Chủ tài khoản: LO CONG HOAN
Nơi mở tài khoản: ACB PGD Bình Phú.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét