1 - CÁCH SỐNG MỚI -
(đã sửa ngày 5.5.2012)
(Chú thích:
- ‘Lương tâm A1’, hay ‘tâm A1’, nôm na là “lương tâm đã học thuyết hoá”. Với ý nghĩa, từ đây đủ để lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn loài người, một cách khách quan và khoa học. – Vì A1 là khởi nguồn của chân lý, là trung tâm cuối cùng điều hành sự sống, là QLTN của xã hội loài người.
- ‘Lương tâm A1’ là phương tiện định hướng quan hệ con người hợp tình hợp lý hợp logic khoa học, trên mọi mặt đời sống. Mà nếu công khai ra ai cũng có thể công nhận là đúng là tốt, là có lợi nhất cho cá nhân và xã hội – không phân biệt họ thuộc đối tượng nào trình độ sống ra sao, miễn là sau khi đã được nghe những lý giải phù hợp khả năng.)
PHẦN I
NHẬP ĐỀ MỘT : THỜI
GIAN
… …Trên Có
“Trời” … … Dưới Có “Đất” … …
… … Ngược … Thời gian … …
… “Trống không” … …
“Tất cả” …
… “Sự Chuyển động” … …
“Một Khái niệm” …
… “Không Thời Gian” … …
“Sự Tồn tại” …
… … … ““ …
… “Cõi vô hạn” … “Cõi hữu hạn”
…
… “Thời gian” …
“Không gian” …
…
“Tinh thần” … “Vật chất” …
… “Vô thức” … “Ý
thức” …
…
“Cảm” … “Ý” …
… “Động” … “Tĩnh” …
… "Dương" … "Âm" …
… …
…
“Qui luật” … “Tự phát” …
… “Phát triển” … “Suy thoái”
…
… “Nội dung” … “Hình thức” …
… “Bản chất” … “Hiện tượng” …
… “Nguyên nhân” … “Kết quả” …
… “Khả năng” … “Thực tiễn” …
… “Giá trị” … “Tồn tại” …
… “Giống cái” … “Giống đực” …
… “Đông y” … “Tây y” …
… “Sự sống” … “Cái chết” …
… v.v… …
… “Hạnh phúc tinh thần” … “Hạnh phúc vật chất” …
… “Cái tâm nghĩa tình ” … “Quyền tiền danh
lợi” …
… “Sự bình
yên” … “Sự bất an” …
… “Tính thiện”
… “Tính ác” …
… “Sự giác ngộ”
… “Sự mù quáng” …
…
“Hoà bình” … “Chiến tranh”
…
…
“Người tốt” … “Người xấu” …
…
“Sung sướng” … “Đau khổ” …
… “'Tu tâm'” … “'Kẻ mạnh'” …
… “'Tu tâm'” … “'Kẻ mạnh'” …
”” … … …
… “Thời gian
- Vận động - Vĩnh cữu”
… …
… “Không gian - Vũ trụ - Vô
cùng” … …
… “Không Thời gian – Tồn tại
– TƯ DUY” … …
… … …
… “Ngôi sao”, “Dãy Ngân hà”,
“Đĩa Vũ tru”, “Lỗ đen”, “Sao chổi”, “Hành tinh”, “Phân tử”, “Nguyên tử”, “Hạt
cơ bản”, “quark”, v.v… … … “Hệ Mặt
trời”, “Trái đất”, “Mặt trăng”, “Vạn vật”, “Loài người”, “Cá nhân”, “Ý tưởng”,
v.v …
… “Trái đất” -“Vạn vật” :
- “Biển”, “Núi”, “Sông”, “Rừng”, “Thực vật”,
“Động vật”, “Sinh vật Đơn bào” “Sinh vật Đa bào”, “Hiện tượng Chuyển hóa Thấp
Cao”, “Không Có”, “Xấu Đẹp”, “Tiêu cực Tích cực”, “Bất ổn Bình ổn”, “Thụ động
Năng động”, “Lạc hậu Phát triển”, “Phát triển Suy thoái”, “Mong manh Bền vững”,
“Bền vững Tiêu vong”, “Chu kỳ Vô định”, v.v …
-
“Tồn tại - Giá
trị”,
-
“Vật chất
(Tồn tại - Cụ thể – Hữu hình) - Tinh thần (Vận động - Trừu tượng
– Vô hình)”.
- “Tồn tại Để Vận
động”, “Vận động Để Tồn tại”.
- “Tồn tại Giải thích
Vận động” , “Vận động Giải thích Tồn tại” .
-
“Giá trị Vật chất
Là Tinh thần” , “Giá trị Tinh thần Là Vật chất”.
-
“Vật chất Quyết
định Tinh thần”, “Tinh thần Quyết định Vật chất”.
-
“Ý thức”, “Hình
thức – Vật chất, Của Nội dung - Tinh thần”.
-
“Vô thức”, “Nội
dung - Tinh thần, Của Hình thức – Vật chất”.
- “Khám phá Ý thức” là “Khám
phá Tinh thần, Khám phá Giá trị Nhân cách, Khám phá Bản chất Con người”.
Đặc điểm của “Ý thức” là “Phát
triển” từ “Thấp đến Cao”, “Đơn giản đến Phức tạp”, “Nong đến Sâu”, “Dễ
đến Khó”. “Số lượng đến Chất lượng”, “Hình thức đến Nội dung”, “Hiện tượng đến
Bản chất”, “Cấu trúc Vật thể đến Kỹ năng Tồn tại”, “Vật thể đến Phi Vật thể”,
“Hữu hình đến Vô hình”, “Vật chất đến Tinh thần”, v.v ... và “Truyền”
từ “Người Sang Người”.
-
“Trong Ý thức Có
Cảm giác”, “Trong Cảm giác Có Ý thức”.
-
“Ý thức Là Động
lực Của Cảm giác”, “Cảm giác Là Động lực Của Ý thức”.
-
“Nếu Ý thức Mang
Tính Vật chất”, “Cảm giác Mang Tính Tinh thần”.
-
“Hay Ý thức Thuộc
Vật chất”, “Vô thức Thuộc Tinh thần”.
-
“Cảm Đại
diện Cho Thế giới Vô thức (Trừu tượng) Trươc Ý thức”, “Ý thức
Đại diện Cho Thế giới Tồn tại (Hữu hình) Trước Vô thức”.
-
“V.v … …”.
“Biện chứng luận”,
một phương pháp luận giúp tư duy lý giải các hiện tượng “động” trong xã hội loài người. Nó phát triển dựa
trên các cặp biện chứng luận lúc đầu đơn giản, sau tổng hợp thành nhiều cặp
biện chứng phức tạp mang ý nghĩa rộng đa chiều đa lĩnh vực chồng chéo nhiều tầng lớp lên nhau. Chúng tạo
cho con người những cảm giác nhận thức ẩn hiện rõ mờ như dễ hiểu như khó hiểu
nên không phải ai cũng đủ khả năng lý giải tận cùng nguyên nhân của mọi hiện
tượng về tư duy con người và xã hội.
Chỉ khi ý thức có một định
hướng tư duy hợp lý nào đó, thì khả năng lý giải trên nhiều hi vọng khả thi.
Lý giải để “Hiểu” để “Nhận thức” thế giới xung quanh.
“Sự Sống, Sự Phát triển, Hạnh
phúc, sự Bình an, v.v …” là những tiêu điểm của lý giải.
Tất cả vì một lợi ích … “Hòa
bình Hạnh phúc Phát triển Thịnh vượng
Cho Loài người”.
“Loài người” ... …
“Đỉnh Cao Tồn tại” … … “Đỉnh
Cao Giá trị” … … … … “Đỉnh cao Hư hỏng” … !
- “Tự nhiên”… … “Không Loài
người” … … “Thế giới Vô nghĩa” … “(!?)”
- “Loài người” … … “Thế gian Dậy sóng” … “!”
… “Để Làm Gì” … …
“Không Ai Biết” … … “Mãi mãi Không Thể Biết” … …
… “Bởi Quyền Của Tự nhiên” …
…
… “ … Song Nó Lại Là Cứu cánh
Bình yên Tuyệt đối Cho Ý thức Loài người Trên Thế gian Này ! …” …
“Sự sống,”
“Thiếu Chân lý”
“Lạc lối!”
… “Nhơn Chi Sơ” … … “Có Ý
thức” …
Nhưng
… “Ý thức, Con dao Hai lưỡi”, “Tiêu cực” “Tích cực”, “Dại dột” “Thông minh”, “Bất ổn” “Bình an” ,
“Bất nhân” “Lương tâm”, “Xấu” “Tốt”,
“Ác” “Thiện”, “Lạc lối” “Niềm tin”, “Gian dối” “Ngay thật”, “Che giấu” “Công
khai”, “Xảo quyệt” “Thẳng thắng”, “Hận thù” “Thận thiện”, v.v …
…
“Loài người”, … “Tinh hoa Vật chất Tinh thần” … “Song Đang “SAY”” … “Lạc Lối”
… “Trong Quá trình Tiến hóa” … “Vì Thiếu
Niềm tin Chân lý” … “!?”
…
“Tại sao ?” …
…
“Lối Thoát ?” …
…
“ Lời giải …” …
“Chân
lý Và Hạnh phúc” … “Cứu cánh Của Sự sống” …
“Có
Chân lý Ắt Có Hạnh phúc, có Hạnh phúc Ắt Có Chân lý” …
“Tìm ra Chân lý Sẽ Tìm ra Lối Thoát Khỏi Cơn
mê …” …
“Lịch
sử …” …
“Muốn
Giải đáp” … “Ta Hãy Quan sát Sự sống”
… “Một cách Đơn giản” … “Nó Bắt đầu” …
“Từ Ý thức” …
“Cảnh giác” … “Ý thức” … “Tội đồ Giấu Mặt” … “Khi Nó
Che Mất Ánh sáng Chân lý ”…
“Ý
thức”, “Một Ưu thế Đặc trưng” … … “Một Sai lầm Đặc trưng” …
…
“Ý thức cộng Quyền lực Tuyệt đối” … “Thảm họa Khó Tránh” … “!!!”
“Bởi
Thế gian Không Do Loài người Tạo ra” … “Nên Ý thức Cũng Không Hoàn toàn Thuộc
Con người” … “Nó thuộc Mọi người Kiểm soát Và Cùng Chịu Trách nhiệm Hành động”!
…
“Vì
Vậy Khi” …“Ý thức Mắc Sai lầm” … “Quyền lực Tự nhiên Sẽ Lên Tiếng” … “Thảm họa
Trừng phạt Xảy Đến” … “!!”
“Ai
Hơn Ai” … “Ai Thiệt Hơn Ai” … “ ??!!”
“Kim
chỉ nam Sự sống Tốt nhất” ... “Loài người Chung sức Đoàn kết Trước Quyền lực Tự
nhiên Để Khám phá Chân lý” …
“Sai Một Li Đi Một Dặm” …
…
“Li nào Sai” … “Ai Sai ” … “Ai Phải Chịu
Trách nhiệm Chính” … “?”
…
“Chứng minh … Có Đúng Mới Có Sai …” ...
Do “Tự tôn” … … “Con người Tin rằng” … …
… “Khoa học Vật chất” … “Quyền
lực” … “Vũ khí” … “Bộ máy Quản lý” … “Sự
Lừa dối” … “Mưu kế” … “Sự Vô tâm” … v.v …
… “ Có Thể Điều khiển Thế gian
Theo Ý thức Chủ quan” … …
… “… Dù …
Gương Thất bại Không Thiếu …” …
… “Suy Ra” … “Sự Sai lầm Lớn
nhất Của Loài người Nếu Có” … “Là Sự Ngộ nhận Giữa” … “Quyền lực Con người”
… “Với” … “Quyền lực Tự nhiên” ….
“Có Hay Không Quyền lực Tự
nhiên” ?
- “Qui luật Tự nhiên ?”
- “Không Sai” !
Vì
“Có Qui luật Tự nhiên” “Có Trật tự Vận động”
“Có Trật tự Vận động” “Có Thế
gian Tồn tại”
“Có Thế gian Tồn tại” “Có Cá
thể”
“Có Cá thể” “Có Cái Tôi”
“Có Cái Tôi” “Có … Sự
sống Thế gian … !”.
“Mọi Tồn tại Muốn Là Chính Mình”
“Cần Phải Có Qui luật Tự nhiên
Vạch đường Dẫn Lối”
“LOÀI NGƯỜI KHÔNG KHÁC”.
“… Nhưng Phải Chứng minh … !”
“ Thế nào Là Qui luật Tự nhiên
Giành Cho Loài người” …
“Loài người “Phát minh” Ra” …
“KHOA HỌC VẬT CHẤT” … “Thiếu” … “KHOA HỌC TINH THẦN” … “Là Thiếu Một Phương
tiện Chứng minh … ” …
… “Bệnh Ác Vô cảm Vô Trách
nhiệm … Bệnh Chiến tranh, Quyền lực, Độc tài, Tham vọng, v.v … … Là Những Hệ
quả Của Sự Thiếu hụt Đó … ” …
“Có Khoa học Tinh thần, Khả năng Chứng minh Sự
sống Sẽ Mạch lạc Hơn” ...
“Có Khoa học Tinh thần, Tư duy
Hóa Thiện Và Thông tuệ” …
“Khoa học Vật chất Đơn thuần, Quan hệ Con người Thành Thảm họa” …
“Kết hợp Khoa học Tinh thần,
Sự sống Sẽ Hợp lý Như Đất Cần Có Trời” ...
“Ý thức Giá trị Tinh Thần
Không Mới, Song Nó Mới Nếu Đạt Tầm Khoa học hoá” …
“Phải chăng Điều kiện Nâng Tầm Khoa học Cho
Tinh thần Đã Hội Đủ ?” …
… “Muốn Nâng Tầm Khoa học …
-
Chắc chắn Không
Phải Do Tự Phong …
-
Cũng Không Do
Quyền lực Quyết định …”
… “Mà Do Loài người Thừa nhận Mọi Nơi Mọi Lục … ” …
NHẬP
ĐỀ HAI : KHÔNG GIAN
… nguyên lý tự nhiên … mọi tồn tại ứng với một qui luật tự nhiên (vận
động) phù hợp. Xã hội loài người đến mỗi đời người cũng là
một trong số những tồn tại tự nhiên ấy.
Tuy nhiên làm sao biết qui
luật tự nhiên nào dành cho loài người đến mỗi đời người ?
Nghiệm từ thực tế cuộc sống ta cảm nhận, “ý
thức” có nguồn gốc từ “tư duy vô thức” và “tư duy ý thức”. Cả hai tư duy này
một phần do tự có, phần quan trọng khác do môi trường tác động
nên.
Do vậy ý thức và vô
thức có thể là đối tượng để qui luật tự nhiên dùng làm phương tiện tác động
vào sự sống con người, nhằm đảm bảo tính trật tự của tự nhiên.
Suy ra qui luật tự nhiên có kỹ
năng đứng trên “lý trí” con người. Hay loài người, sản phẩm của tự nhiên, có trí
khôn sai khiến bởi tự nhiên ngay từ thuở “lập địa”.
Loài người khác với muôn loài,
qui luật tự nhiên tác động vào loài người tất yếu cũng phải khác, hay khác rất
nhiều. Suy ra phương thức ghiên cứu khám phá qui luật cho nó cũng phải thuộc
loại có một không hai.
Sự khác thường ấy được qui đổi
thành … một học thuyết.
Ví dụ loài người có “y thức”
loài vật thì “không”. Do vậy với loài người, qui luật tự nhiên biết cách
ẩn trong “ý thức” để sai khiến ý chí và trí tuệ con người phải
chuyển động theo quỹ đạo (của tự nhiên). Nếu không qui luật tự nhiên sẽ biết
cách, cũng thông qua “Ý thức - trí khôn – trí tuệ”, trừng phạt loài người.
Như thế nghiên cứu qui luật tự nhiên dành cho loài
người, là nghiên cứu cái dốt ẩn sau cái
khôn của lý trí. Và con người cũng chỉ có thể thực hiện điều đó thông qua con
đường ý thức, bởi ngoài ý thức ra khó có thể tìm ra một phương
tiện sẵn có nào khác đủ hoàn hão hơn và sát thực hơn để trị liệu cho phạm trù trí
tuệ (con người).
Đối với loài vật chỉ có
bản năng, nên qui luật tự nhiên tác động bằng con đường duy nhất ấy.
Đối với loài người,
ngoài bản năng còn có ý thức (quyền năng chủ quan thuộc phạm vi
con người). Vì vậy đối với qui luật tự nhiên con người có thể phủ quyết
bất kỳ nếu muốn.
Do thực tế qui luật tự
nhiên dành cho loài người thường xuyên bị phủ quyết, nên cuối cùng hình dáng
thực của qui luật luôn bị méo mó hư ảo, thành vô tình con người tự gây khó cho
mình trong nghiên cứu nhận diện.
Nếu thực tế đúng như
những gì chúng ta vừa nêu, thì “quan điểm sống” sẽ là đối tượng tiếp
theo gây cản trở con người tìm ra qui luật tự nhiên. Vì trong “quan
điểm sống” thông thường “tính chủ quan sai lầm” của con người chiếm
phần quyết định cuối cùng (ngoại trừ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học tự nhiên
– vật chất, con người thoát được cạm bẫy chủ quan).
Nếu với muôn loài sự tuân thủ
qui luật tự nhiên là một hiển nhiên tất yếu (thích thú), thì ngược lại với loài
người điều ấy là cả một thách thức khó vượt qua, vì nhiều khi nó liên
quan đến tính sinh tử của một lối sống đã nhập tâm.
Vấn đề có thể được hiều và
giải thích như sau, nó bắt đầu từ thời tổ tiên loài người … kém ý thức mà ra.
Vào các thời kỳ ban sơ ấy, “các trí tuệ mơ hồ” đã ngẫu nhiên tạo cho các thế hệ
loài người sau những thói quen chủ quan phóng túng tình cờ trong tư duy,
hơn là tính ý thức tự giác sống trong khuôn khổ qui định (khi các
khuôn khổ hợp lý chưa được minh chứng và
hình thành). Điều ấy nếu được cộng thêm với tài năng - sự giàu sang - quyền
lực, thì sự sai lầm chủ quan của con người trong lối sống càng được khoét rộng
hơn và sâu hơn.
Lịch sử chứng minh rằng loài
người chỉ chấp nhận sống trong khuôn khổ (tổ chức) khi bị bắt buộc bởi sự áp
đặt của một quyền lực chủ quan nào đó. Và bao giờ các cơ chế tổ chức như thế
đều ít nhiều không đúng hoặc sai so với chuẩn tự nhiên.
Vấn nạn trên hi vọng có thể
thay đổi khi loài người tiến hóa theo thời gian. Khi ấy ý chí và trí tuệ con
người phát triển đủ mạnh để đủ khả năng vượt qua những trở ngại do sai lầm chủ
quan gây ra, và thay bằng một mô hình sống hợp tự nhiên hợp với lẽ phải hơn.
Khi điều kiện khả năng
cho phép, một là, con người sẽ tiến hành chứng minh đâu là qui
luật tự nhiên dành cho loài người và thế nào là sức mạnh của nó. Hai là,
cần có quỹ thời gian để mọi người tái học tập rèn luyện kỹ năng ý thức sống
tự giác trước qui luật tự nhiên. Ba là, hòan thiện lại mô hình tổ
chức xã hội (khuôn khổ) để sao cho quyền năng của qui luật tự nhiên luôn là kim
chỉ nam sống cho mọi người và cho xã hội.
Kinh nghiệm dân gian cho thấy
nếu con người sống hòa hợp với qui luật tự nhiên (lẽ tự nhiên) thì “thiên thời
địa lợi nhân hòa”, còn ngược lại là “gieo gió gặt bão”.
Giả thiết rằng nếu qui luật
tự nhiên dành cho loài người đã được minh chứng thành công, việc tiếp là
thực hiện bước hai như đã nêu trên. Ta gọi đây là giai đoạn xây dựng cách sống
mới “Cách Sống Khách Quan” thay cho “Cách Sống Chủ Quan”.
“Cách Sống Khách Quan” nếu
theo định nghĩa từ minh chứng, nó có giá trị ưu việt hơn “Cách Sống Chủ Quan”.
Nó giúp loài người hiện thức hóa thành công những giá trị tinh thần kinh điển
như “chân, thiện, mỹ, công bằng, ấm no, hạnh phúc, hòa bình v.v...” mà loài
người đã mong ước từ lâu.
Giả thiết trên đúng hay sai
chúng ta cần những chuổi lý giải hợp lý sau đấy để minh chứng...
Ngược dòng
lịch sử ta suy luận. Cách sống loài người lúc đầu hiển nhiên chỉ là những phản
xạ sinh tồn. Những phản xạ ấy mang nặng tính bản năng vô thức.
Sau thời gian dài phát triển con người tiến lên có ý thức và hình thành
các nhận thức. Nhận thức về sự sống, về thế giới xung quanh v.v… Thời
gian đi qua, nhận thức con người tăng lên và tích lũy dần thành các kinh nghiệm
sống. Những kinh nghiệm sống tăng dần và được truyền lại cho các thế hệ đời sau
một cách ngẫu nhiên tự phát và kéo dài gần như vô tận.
Kinh nghiệm
sống tăng đồng nghĩa mức sống con người cũng tăng. Mức sống tăng trí tuệ con
người tăng theo. Sự gia tăng ấy đến một lúc (thời đại ngày nay) trí tuệ trở
thành trọng tâm của phát triển.
Trí tuệ
phát triển, nhận thức mở rộng, thì con người càng có nhu cầu khám phá tìm hiểu
về thế giới xung quanh cũng như về sự sống chính mình, thế giới loài người. Tức
là loài người giờ đã trở thành đối tượng để con người nghiên cứu chứng minh về
thế nào là bản chất sinh tồn, và vì sao luôn xuất hiện những bất an những bi
kịch đi kèm.
Tóm lược
lại, ta thấy trí tuệ của loài người lúc đầu chỉ là các “vô thức bản năng”
sau tiến lên thành “ý thức phát triển”. Có ý thức, loài người trở
nên chủ động hơn trong ý chí và hành động có chủ đích của mình.
Song dù ý
thức phát triển thế nào “nhu cầu sinh tồn bản năng” vẫn là kim chỉ nam cơ bản
nhất để loài người định hướng thành hành vì và cách sống cơ bản của mình. Từ
“nhu cầu sinh tồn bản năng” ấy con người phát triển lên thành “nhu cầu sinh tồn
trí tuệ”.
Tất cả đều
cần có “nhận thức” để đạt thành quả, cái sau cao hơn tốt hơn cái trước.
Để có nhận thức loài người cần
phải có lao động chân tay đến trí óc, trên cơ sở của các tư duy lý
luận. Tư duy lý luận phát triển tương ứng với nó là “trình độ sống”
được xác lập. Tương ứng với trình độ sống là “cách sống”, và thường nó
mang tính đại diện cho một cộng đồng một thời đại.
Nói một
cách nôm na, “Cách sống nào thì quan điểm sống ấy” (về nhân sinh
quan và thế giới quan).
Quan
điểm sống là thành quả của quá trình
con người “quan sát”, “cảm nhận”, “mong muốn”, “tìm hiểu”, “lý giải”, “thực
hành”, “rút kinh nghiệm”, “sửa chữa”, “tranh luận”, “lý lẽ”, “tái nhận thức”,
“tái điều chỉnh”, “tái rút kiểm nghiệm”, v.v … về nhận thức sự sống nói chung.
Nhận thức
lúc đầu giản đơn sau phức tạp dần trên mọi vấn đề mọi lĩnh vực đời sống có thể.
Nhìn chung loài người đã gặt hái rất nhiều thành quả trong quá trình tiến hóa.
Song bên cạnh những “thành quả” là những “hậu quả” ngoài mong muốn như ta đã
biết. Và ngày nay người ta hay gọi chúng là những cái ác, những sai
lầm chủ quan đáng sợ.
Khi quan
điểm sống không ngừng được nâng cao, thì vấn đề nhận thức mang tính hệ
thống luận được đặt ra, nếu nó thêm tính khoa học vào thì giá
trị quan điểm sống ấy càng mang tính thực tiễn cao.
Cách sống
ngày nay đã thay đổi nhiều so với thời tiền sử. Nhưng nếu ta quan sát tinh
tường hơn sẽ thấy nó mới khác chủ yếu về bề nỗi hình thức (tính vật chất), còn
bản chất bên trong gần như vẫn còn giữ nguyên tính hoang sơ tinh thần, cho dù
mọi sự tiến bộ của loài người đến nay đều có dấu ấn của tinh thần trí tuệ phát
triển.
Ví dụ, loài
người đến nay chủ yếu vẫn thích cách sống của “kẻ mạnh” làm chủ đạo, cho dù
trên lý thuyết nó là một sai lầm của phẩm chất tinh thần.
Đối với
loài người mục đích lớn nhất là “sống để hạnh phúc”. Tức là sự sống cần có một
mô hình cách sống sao cho có thể tạo ra thành quả hạnh phúc cho mọi người. Nếu
mô hình cách sống ấy có thật, người ta tin rằng nó phải thuộc về cái “Thiện”,
cái “Lẽ phải”, cái “Hợp tình Hợp lý Văn minh Tiến bộ”.
Ở góc độ
chứng minh ta giả định rằng, cách sống “Kẻ mạnh” (vật chất – quyền lực) là sai
trái, là ác, là chủ quan duy ý chí, là trái qui luật tự nhiên, nên sẽ bị
diệt vong. Ngược lại, cách sống “Lẽ phải” (chân lý, lương tâm) là đúng đắn, là
thiện, là khách quan trí tuệ, là hợp qui luật tự nhiên, nên sẽ phát triển
trường tồn và độc tôn.
Nó đúng hay
sai cần phải được chứng minh công khai, chứ không đơn giản chỉ bằng một phán
quyết (của ai đó) là xong mọi việc.
Cách chứng
minh hiệu quả nhất là ta giới thiệu một mô hình cách sống mới, mang tên “Lẽ phải”,
để tiện việc đối chiếu so sánh minh chứng những hư hỏng trong các cách sống
hiện thời, đồng thời chỉ ra cái mới thay thế cho nó.
Quan sát
lịch sử loài người, ta thấy cách sống “Kẻ Mạnh” phần lớn chiếm ưu thế mặc dù
lúc này lúc khác nó có thể bị suy yếu hay bị diệt trừ nhất thời, nhưng sau nó
vẫn lại hồi sinh và sự hồi sinh ấy có khi còn mạnh hơn trước ...
Tuy nhiên
bên cạnh lối sống “Kẻ Mạnh” là sự tồn tại những lối sống khác tuy chưa hoàn
toàn “Lẽ phải” nhưng ít nhiều nó mang thuộc tính đó. Ví dụ lối sống “Tình
người”, lối sống “Tín ngưỡng”, lối sống “Lương thiện”, v.v….
Những lối
sống này có thể do chưa hội đủ điều kiện lý giải thấu đáo tính lẽ phải của nó,
nên chưa đủ mạnh để “hạ thủ” lối sống của “Kẻ mạnh”. Song “Những lối sống khác”
đã ít nhiều cho thấy, loài người từ lâu đã ý thức niềm tin về những giá trị
sống khác cao quý hơn những gì “Kẻ Mạnh” đem lại.
Sự khác
biệt khách quan trên là một phương thức hóa giải phần nào những sức ép bất lợi
trong tâm lý gây ra bởi lối sống “Kẻ Mạnh”. Đồng thời nó cũng dự báo về một
phạm trù giá trị sống khác trong tương lai, tốt đẹp hơn hiệu quả hơn sẽ xuất
hiện.
Nhìn chung xã hội thời đại nào cũng có hai khuynh
hướng cách sống cơ bản cùng tồn tại trái
chiều nhau và đấu tranh nhau. Cả hai xuất hiện một cách ngẫu nhiên tình cờ. Tuy
nhiên dù không do ai muốn, nhưng trong thực tế nó được diễn giải thành bên ác
bên thiện, người đúng người sai khá rõ ràng. Và tất cả được qui thành “có vai
có trả”.
Vì trái chiều nhau nên phải triệt tiêu nhau, hậu quả
là xảy ra những cuộc chiến nhiều đau thương giữa loài người với nhau, cá nhân
với nội tâm, niềm tin với niềm tin, v.v… trong suốt chiều dài lịch sử tiến hóa.
Những cuộc chiến ấy thường mang danh nghĩa, “thiện” chống “ác”, “đúng” chống
“sai”, “tốt” chống “xấu”, “hợp lý” chống “vô
lý” … “lề phải” chống “lề trái”,
“khách quan” chống “chủ quan”, “lương tâm” chống “thất nhân tâm”, “tự nhiên”
chống “trái tự nhiên”, “chân lý” chống “phi lý”, “tình thương” chống “hận thù”,
v.v…
Trong tự nhiên qui định, mỗi vật thể chỉ tương ứng với
một qui luật phát triển (tồn tại) mà thôi. Loài người cũng nằm trong số ấy. Nên
khi có hai qui luật trái chiều cùng tồn tại, thì nhất định một trong hai phải
bị loại trừ khỏi đời sống cộng đồng.
Nếu đúng như thế thì cách sống khách quan phải
thay thế cách sống chủ quan, “Lẽ phải” của cái thiện phải thắng
lẽ trái của “kẻ mạnh” do trái tự nhiên.
Tuy nhiên trong mỗi con người cụ thể do ngẫu nhiên môi
trường tác động, bao giờ cũng có sự pha trộn của hai qui luật song hành trái
chiều trên. Vì thế cuộc đấu tranh loại trừ một trong hai luôn là một nan giải trong mọi người và trong mọi
thời đại.
Muốn vượt qua giới hạn thách thức trên, vấn đề đòi hỏi
con người phải nghiên cứu và xây dựng chính xác và cụ thể hơn nữa về thế nào là
kỹ năng sống đúng (lẽ phải) và thế nào là kỹ năng sống sai (kẻ
mạnh), để mỗi con người biết cách phân biệt ranh giới đúng sai, thiện ác đồng
thời tự giác ra sức rèn luyện loại trừ.
Cuộc chiến cần bắt đầu từ mỗi cá nhân trước khi nói
đến sự thành công trên phạm vi toàn xã hội, và rộng hơn là phạm vi thế giới.
Giờ đây vấn đề vô tình trở thành những bài toán cần
được giải bao gồm như, “bản chất sự sống con người là gì?”, “định nghĩa sự sống ?”, “khái niệm hạnh phúc
đời người ra sao ?”, “giáo dục kỹ năng sống chuẩn thế nào ?”, v.v…
Trên đây thật sự là những bài toàn cơ bản nhất của sự
sống mà loài người trước sau cũng phải trực diện giải quyết có căn cơ, no không
thế bị né tránh mãi, nếu con người muốn
sự sống này trở nên thật sự hoàn thiện trong thực tế.
Khi những bế tắc trên còn chưa tìm ra đáp án thống
nhất, được mọi người công nhận, thì mọi tuyên ngôn nếu có vẫn chỉ ở mức tương
đối giá trị, thậm chí nó thành sai lầm trầm trọng nếu quá cường điệu để biến
thành cực đoan.
Từ một hướng tìm tòi chọn lọc, con đường hóa giải
những bế tắc trên dần được hé mở như sau
…
NHẬP
ĐỀ BA : THỰC TẠI
Mọi con
người sinh ra đều sở hữu cho mình một lối sống, một cách sống.
Cách sống
là một hiện tượng tự nhiên của mỗi đời người. Do nó tồn tại hiển nhiên,
như dạng một cá tính, nên con người
thường tin rằng nó khó sửa nó bất di bất dịch với đời người. Buôn xuôi chấp
nhận, lâu dần thành không quan tâm đến nó nữa. Cách sống vì thế khi này khi
khác, nơi này nơi khác, người này người khác, xã hội này xã hội khác, v.v…
thành bị xuống cấp (về đạo đức) một cách đáng lo ngại … và báo động.
“Một con
sâu làm rầu nồi canh”. Vấn đề của mọi thời đại chính là vấn đề “con sâu”.
Ai cũng có
thể là … con sâu, chỉ có điều sâu to hay sâu bé tí mà thôi. Tất cả tùy ở “cách
sống” của con người quyết định.
Có người
tin rằng do thần thánh, do kiếp trước, do quyền lực chưa được trang bị đủ, v.v…
. Nay con người có thêm một cách tin khác giúp rộng đường hơn trong lựa chọn.
Viết bao
nhiêu học thuyết, nghiên cứu bao nhiêu nguyên nhân, nhưng không làm chủ được
cách sống thì không khéo … mọi sự sẽ “vũ y như cẫn” ...
- - “Điều
chỉnh cách sống” ư, một công việc nan giải nhưng không phải không làm được nếu
có quyết tâm và có phương pháp hợp lý. Tùy theo khả năng mỗi đời người đạt
thành quả tương ứng, song nó là tiền đề cho các thế hệ sau với thành quả nhất
định nhiều lần to lợi hơn … - -
Bởi cách
sống là nền tảng có một không hai trong mỗi đời người. Nếu nó sai mọi cái sẽ
sai, nó đúng tất cả sẽ đúng, khi đã đúng con người muốn sai cũng rất khó. Đó là
tính ưu việt của lợi ích rèn luyện cách sống.
Cách Sống
là một tồn tại đôc lập trước ý thức. Nó vận hành có nguyên tắc. Nguyên
tắc ấy một phần do bản năng, một phần do hoàn cảnh tạo ra nó quyết định và một
phần do ý chí cá nhân chịu trách nhiệm.
Từ thực tế cuộc sống cho ta
giả định rằng, cách sống của con người lúc đầu do tự nhiên tạo tiền đề
hình thành từ bản năng tự nhiên. Nhưng sau, nó lệ thuộc chủ yếu vào kết quả
nhận thức của mỗi người để phát triển chặng đường tiếp theo, tạo
thành cách sống hoàn chỉnh của cá nhân.
Như thế nhận thức đóng vai trò rất to lớn trong quá trình
hình thành cách sống, thông qua lẽ sống, quan điểm sống mà mỗi con người
chọn lựa trong quá trình sống dưới tác động của môi trường.
Nó sẽ xấu nếu con người nhận thức kém
hay sai, nó sẽ tốt nếu con người nhận thức đúng đắn hay chân
lý.
Nếu nhận thức bị sai ngay từ
đầu (lúc trẻ) và được lặp đi lặp lại nhiều lần thành nhập tâm lúc trưởng
thành, thì con người sẽ có quan điểm sống sai một cách vô
thức. Và nó giờ đây đã nằm ngoài tầm kiểm soát của ý thức (tức ý thức
đang bị điều khiển bởi cách sống).
Khi lẽ sống sai lầm đã hình
thành, sẽ lôi kéo tư duy con người trở thành nô lệ của nó, cuối cùng là các
quyết định trong hành xử thuộc về nhân cách. Nó đã tạo thành quán tính sai
lầm trong thói quen gắn liền với sự sống hơi thở và trái tim khi sự tồn tại
chưa có một thay đổi quyết định.
Tóm lại cách sống là nguyên
nhân gây nhiễu chức năng của trí tuệ, trung tâm chi phối mọi tư duy và hành
động của con người cho dù ý thức tự chủ cá nhân vẫn còn đó.
Từ lời ăn tiếng nói đến hành
động đến đạo đức phong tục tập quán, từ thói quen quan hệ đến các sinh hoạt,
giải trí, vui chơi, đến việc làm, v.v… tất cả đều tiềm ẩn vì mục đích của lẽ
sống hay Cách Sống đã vạch.
Trong cuộc sống các quán tính
thói quen sẽ là động lực chính thúc đẩy con người tiến về phía mục đích
của Cách Sống, mặc cho ý chí con người có muốn hay không. Vì sẽ rất khó để ý
chí con người làm khác đi. Và con người tiến mãi như thế gần như bằng tất cả sự
… mù quáng trước sự xơ cứng của lý trí mà thực tế vẫn không thể giải thích tại
sao.
Quá trình sống như trên sẽ tạo
nên “Qui luật Của Một Cách sống” hay “Qui luật Sống Cá nhân”. Cũng như thế
chúng ta có “Qui luật Sống Xã hội” tương ứng với triết lý phát triển mà xã hội
đó theo đuổi.
Mọi qui luật phát triển đều có
thể đúng hay sai.
Nhưng do qui luật phát
triển tự nhiên cho mỗi đối tượng tồn tại chỉ có một, và khi con người chưa
có đủ ý thức phát hiện ra nó, thì chắc chăn sự vận hành của đối tượng ấy phải
thuộc về Qui Luật Phát Triển Trái Tự nhiên tức đã mắc sai lầm trong vận hành.
Hay nếu nó có đúng thì cái
đúng ấy không toàn diện, hoặc gần đúng, nên cuối cùng cộng chung lại ta nói nó
đang sai về bản chất.
Như thế theo giả định,
SỰ SỐNG TRONG THẾ GIỚI CON
NGƯỜI CHỦ YẾU DO QUI LUẬT CÁCH SỐNG QUYẾT ĐỊNH.
Chọn qui luật sống đúng, sự
sống con người sẽ thuận lợi và hạnh phúc. Chọn hay không, vấn đề ở đây thuộc về
niềm tin của mỗi người sau khi đã được giới thiệu một số lý giải như đã nêu
trên.
Như thế bài toán của sự sống
loài người cuối cùng thuộc về đức tin. Con người cần được chứng minh để
tạo niềm tin, thay gì dùng quyền lực để áp đặt niềm tin. Đó là sự khác biệt cơ
bản giữa “Lẽ phải” và “Kẻ mạnh”.
Chọn lựa niềm tin sao mới gọi
là đúng hay sao mới là sai, và thiên nhiên đã dành
cho loài người quyền tự quyết định lấy. Đó là một ân huệ song nó cũng là một
khó khăn không nhỏ,
Để sự chọn lựa trên được chắc
đúng, nhất định con người sẽ phải dùng tất cả khả năng sẵn có của mình để khám
phá qui luật tự nhiên là gì và sẽ ra sức chỉnh sữa lại quan điểm sống
của mình nếu nhận thấy việc ấy là có ích.
Qui luật tự nhiên nếu có, ắt
đã có từ rất lâu và ở ngay trong mỗi con người chúng ta. Vấn đề chỉ là làm sao
nhận diện ra nó. Chúng ta biết nó có bởi “Tự nhiên”. Nay nếu ta muốn sống TỐT,
đơn giản chỉ là đừng sống trái với tự nhiên hay qui luật tự nhiên. Hay
ta hãy chọn CÁCH SỐNG ĐÚNG khi sinh ra
đã LÀM NGƯỜI.
Biết rằng qui luật tự nhiên
cho loài người là duy nhất, vì CHÂN LÝ nếu có cũng chỉ DUY NHẤT mà thôi.
Chân lý không có nhiều màu sắc
như nhiều người nghĩ. Nó luôn luôn chỉ có một dù ở bất kỳ đâu ở bất kỳ thời
gian nào.
Biết rằng mỗi cách sống tương
ứng một quan điểm sống, một mục đích sống.
Muốn chỉnh sữa cách
sống con người chỉ cần thay đổi mục đích sống là đủ.
Đời người như chiếc xe luôn cố
gắng tăng tốc về đích. Sự tăng tốc ấy sẽ tạo nên lực quán tính rất lớn, nên mỗi
lần xe muốn chuyển đổi hướng (mục đích) chắc chắn phải đối diện với nhiều khó
khăn nguy hiểm.
Trong cuộc sống quán tính tăng
tốc ấy là thói quen, là phong tục tập quán, là cá tính, là quyền lợi, là quyền
lực, là niềm tin, v.v… tất cả tạo thành sức ỳ trong sức sống mỗi khi con người
muốn thay đổi nó.
Xã hội nơi tập hợp của các
luồng xe lao về đích, nó không phải chỉ có một chiếc mà rất nhiều chiếc, nên
bản thân sự kết cấu của luồng cũng đã gây khó khăn không nhỏ trong ý đồ chuyển
hướng của mỗi người.
Tuy nhiên nếu do yêu cầu khách
quan buộc phải chuyển hướng mục đích sống bằng mọi giá, thì mọi thách thức dù
nguy hiểm đến đâu cũng phải tìm cách vượt qua vì lợi ích bản thân và xã hội, vì
lợi ích trước mắt và tương lai lâu dài về sau.
Và lịch sử đã từng chứng minh
nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra, có thất bại có chiến thắng, song cuối cùng phải
chăng chiến thắng đa phần nghiêng về các giá trị chân chính.
Giả sử yêu cầu trên nay tiếp
tục được đặt ra, vấn đề còn lại là phải chọn con đường cách mạng nào ít gây tổn
hại nhất.
Lời giải cho bài toán trên
không gì bằng dùng các minh chứng khoa học để thuyết phục nhau đến thành công
cuối cùng. Vấn đề sẽ nhất định dành thắng lợi nếu thật sự tạo hóa đã dành loài
người con đường hóa hòa bình ấy.
Và chúng ta hãy cố gắng bắt
đầu nó từ nơi đây …
A. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁCH SỐNG
1. MỘT SỐ KHÁI
NIỆM
Sự sống con người trước
hết do tự nhiên mà có. Suy ra mỗi con người là một thành viên hiển nhiên của tự
nhiên, một tế bào hữu cơ trong tổng thể không gian vũ trụ bao la.
Tuy cùng là thành viên của tự
nhiên nhưng con người sinh ra không ai giống ai, càng không giống với biết bao
đơn thể tồn tại khác. Mỗi con người là một thế giới riêng biệt. Sự không giống
nhau trên là một phần nguyên nhân của hiện tượng khó hiểu giữa con người với
nhau.
Như chúng ta đã biết sự sống
loài người trở nên văn minh nhờ có ý thức, thiếu ý thức tất cả trở thành
vô nghĩa. Tìm hiểu ý thức cẩn thận con người có khả năng tìm thấy chìa khóa của
tương lai con người và xã hôi.
Trước khi chúng ta truy nguyên
lai lịch của ý thức, chúng ta hãy quan sát xem con người đã và đang quen
dùng ý thức ra sao.
Chúng ta biết rằng, “ý thức”
là thành quả tự nhiên do tạo hóa ban tặng cho sinh vật người trong quá trình
tiến hóa.
Do tự nhiên có, nên ý thức cũng
theo đà tự nhiên mà tư duy và nhận thức như trời sinh voi sinh cỏ
vậy.
Cứ như thế quan điểm sống và
cách sống hình thành dần, trong khi chưa qua một lần kiểm tra tính CHÍNH DANH
HỢP LÝ của nó.
Từ lối sống cá nhân đến xã
hội, từ địa phương đến toàn cầu, đều tương đồng một phương thức sống và phương
thức phát triển như trên.
Thời gian trôi qua xã hội loài
người đông lên, đến một ngày kia mọi người bắt đầu nhận ra rằng cuộc sống ngày
càng khó khăn phức tạp hơn, và sự sống đang bị đe dọa. Khi ấy người ta mới bắt
đầu ngộ ra, cần phải đi tìm một con đường sống mới, một thay đổi mới về nhận
thức chẳng hạn.
Nhận thức đầu tiên muốn thay
đổi là vấn đề tổ chức lại sự sống sao cho hợp lý hơn để sống dễ hơn.
Muốn thế sự sống cần có hướng
nhìn mới, cách lý giải mới, hợp lý hơn, hiệu quả hơn, v.v… . Nguyên tắc đi tìm
cái mới là phải dựa trên thực tiễn khách quan để suy luận, để nhận thức và đúc
kết thành kinh nghiệm, thành tư liệu kiến thức, cuối cùng là những đáp án có
ích cho cuộc sống.
Bằng phương thức như trên xã
hội loài người đã tiến lên văn minh hiện đại.
Trước con người còn ở mức sống
bộ tộc đơn giản, sau tiến lên xã hội nô lệ, rồi phong kiến phồn vinh, đến cộng
hòa tư bản hiện đại, v.v… Đồng thời với nó là sự phát triển các ý thức về
quyền tự do cá nhân, quyền mưu cầu hạnh
phúc, quyền công bằng bình đẳng, v.v…
Song những tiến bộ trên vẫn
chưa đủ để giải đáp những bất ổn đời sống mà con người và xã hội hiện đại đang
đối diện Thực tiễn tiếp tục đòi hỏi một lời giải hoàn thiện hơn, căn bản hơn cho
hiện tại và tương lai.
Kế thừa kinh nghiệm của các
bậc tiền nhân, con người tiếp tục đi tìm lời giải mới cho cuộc sống, trong số
ấy có “Cách sống”.
Theo hướng đã chọn, công trình
nghiên cứu đòi hỏi phải tiếp cận càng nhiều đối tượng “người” càng tốt, nhằm
thu lượm thông tin, hội đủ tỉ lệ xác suất, tạo cơ sở đúc kết hướng lý giải hiện
tượng một cách đáng tin cậy nhất.
Mọi con người đều có thể là
đối tượng để nghiện cứu. Mỗi người là một đáp án cho một hoàn cảnh sống nhất
định. Tôi và các bạn cũng là những con người, nên cũng là những đối tượng rất
tốt để chúng ta tiếp xúc khám phá và nghiên cứu.
Bên cạnh những đối tượng cụ
thể trên, tổng thể loài người là một đối tượng nghiên cứu đặc biệt hữu ích, vì
nơi ấy thể hiện đầy đủ nhất mọi hiện tượng về bản chất con người. Loài người có
hoàn cảnh sống chung khách quan toàn diện cụ thể, mà ai cũng thấy nên rất thuận
lợi cho việc so sánh thu lượm thông tin.
Nói loài người là nói đến lịch
sử mỗi dân tộc, đặc biệt là các dân tộc có hoàn cảnh lịch sử phát triển đặc thù,
bao gồm những thành tích hay dở nổi bật. Trong số ấy có thể kể dân tộc
Việt-nam, dân tộc của các quốc gia có nền kinh tế hàng đầu thế giới, v.v… .
Trong tổng thể các dân tộc của
nhiều quốc gia khác nhau, chúng ta so sánh sẽ phát hiện ra được những hiện tượng
giống và khác nhau về cách sống. Từ những điểm giống và khác nhau ấy, ta có thể
suy đoán bản chất nào là đại diện cho nhân cách loài người.
Từ các suy đoán trên chúng ta
kiểm tra và đúc kết lại thành một chuổi các lý luận một cách hợp lý nhất có
thể.
Kết quả cho
thấy rằng, mọi sinh vật đều có cách sống của riêng nó và loài người
chúng ta cũng vậy. Đây có thể là điểm nhận xét cơ bản đầu tiên mà nhà
nghiên cứu cần rút ra để hình thành nên quan điểm nghiên cứu xuyên suốt sau
này.
Cụ thể hơn ta thấy loài người khác loài vật vì
có quyền tự chọn cách sống tùy theo ý muốn (ý thích, ý chí). Có điều, ý muốn
của con người rất đa dạng phong phú đến mênh mang nên cách sống con người là
một hiện tượng đa phức tạp không dễ để nghiên cứu.
Nhìn về quá khứ, chúng ta nhận thấy cách sống ngày nay
khác rất nhiều so với ngày xưa và xưa hơn nữa. Nó khác tùy theo sự phát triển
nhận thức của con người, trong khi cùng thời gian ấy cách sống của muôn loài
tiến hóa chậm hơn nhiều.
Sự khác biệt lớn
lao trên là nguyên nhân chính dẫn đến cách sống của loài người đến nay gần như
nằm ngoài tầm với của khoa học.
Và ngoài ra sự khó khăn ấy còn vì nó xảy ra giữa con
người với con người, giữa ta với ta, giữa tư duy với tư duy, giữa nhân cách với
nhân cách, giữa quyền năng với quyền năng, v.v ... giữa lý trí với bản năng,
giữa quyền lợi với đạo đức, giữa thói quen với ý chí, giữa môi trường với cá
nhân, v.v…
Song dù sao nó là bài toán rất cần có đáp án dù sớm
hay muộn, vì loài người thế gian không thể mãi tiến hóa trong mò mẫm và hối
tiếc ...
2. CÁCH SỐNG VÀ
THÓI QUEN
“Cách sống”
của mỗi vật thề là cách để nó tồn tại.
Cách sống
của con người rất đa dạng. Nhưng trong mỗi đời người thường chỉ có một cách
sống chính để thể hiện.
Mỗi cách
sống ấy tương ứng với một mục đích sống chính trong đời. Mỗi mục đích
sống ấy lại tương ứng với cách nghĩ cách làm cách hiểu cách sinh hoạt
v.v… của riêng nó.
Nhìn chung
mọi hoạt động sinh tồn của một cá nhân đều mang thuộc tính “Cách Sống”
của cá nhân đó. Nhiều con người kết hợp lại thành một xã hội, một cộng đồng,
thì xã hội ấy cộng đồng ấy cũng có “Cách Sống” (chung) như của một cá nhân độc
lập.
Cho dù loài người phát triển ra sao, tư duy ra
được bao nhiêu ý tưởng đạo đức phong tục tập quán, tổ chức bộ máy xã hội, v.v…
, song tất cả chúng đều mang thuộc tính “Cách Sống” từ ý chí của con người, của cộng đồng hay của
xã hội nói chung.
Cá tính và năng lực ban đầu của con người có phần do
bẩm sinh. Nhưng thói quen sống (năng lực phát triển) thì chủ yếu do nhận
thức và ý chí của con người tạo ra (với sự tác động của môi trường).
Biết rằng
cá tính và năng lực chưa đủ để tạo ra kết luận sai hay đúng
trong tư duy, nhưng thói quen sống thì có thể.
Vì vậy ta
có thể kết luận, nếu nhận thức thay đổi cộng với một ý chí quyết đoán (với môi
trường tác đông thuận lợi), thì con người hoàn toàn có thể làm thay đổi chất
lượng Đúng – Sai trong tư duy và hành động của mình. Tức là có thể làm thay đổi
cuộc sống do mình làm tác giả. Nói cách khác “Cách Sống” là một nhân tố có thể
đổi thay nếu con người muốn (quyết tâm).
Để “cách
sống” thay đổi, con ngươi phải thay đổi cách hiểu, cách nhận thức, cách tư
duy về cuộc sống.
Thay đổi
“cách sống” cũng là dịp để mỗi con người nhìn lại chính mình, và nhìn cho rõ
hơn để phát hiện ra cái hay (tốt, phải, thiện) cái dở (xấu, trái, ác) của
bản thân, cuối cùng là học cách hoàn thiện nó. Mỗi cá nhân, mỗi xã hội, mỗi dân
tộc, hay loài người nói chung đều cần
nhìn lại mình để sống có trách nhiệm hơn.
Bản chất sự
sống do Tự nhiên tạo ra, nhưng chất lượng sống thì do thói quen nhận thức của con
người tạo ra. Thay đổi thói quen, thay đổi cách sống cho hợp với bản chất tự
nhiên luôn là sự lựa chọn tối ưu của loài người của mỗi con người.
Nếu con
người làm như trên thì cuộc sống không còn hận thù để thay bằng sự thân thiện
tình người trong phát triển.
Vấn đề là
bằng cách nào chúng ta đạt đến thành quả trên.
3. CÁCH SỐNG VÀ
MỤC ĐÍCH SỐNG
Con người ta khi lớn lên muốn
sống ắt phải có mục đích sống để phấn đấu. Nếu ai sống mà không có mục
đích thì tự thân sự sống sẽ chọn thay cho ta.
Ví dụ, “không muốn chết” là
một mục đích sống.
“Không muốn chết”, “muốn
sống”, “kiếm tiền”, “làm giàu”, “làm từ thiện”, “tu thân”, v.v… đều là những
mục đích sống. Con người (cá nhân) tùy theo hoàn cảnh sẽ chọn cho mình nhiều
mục đích sống khác nhau, nhưng trong số ấy có một mục đích sống
chính chi phối xuyên suốt đời người.
Khi sự sống đã có mục đích,
con người sẽ cố gắng đạt mục đích bằng mọi khả năng và ý chí. Có thể vì nó con
người sẵn sàng hi sinh tính mạng.
Trong cuộc sống ít ai tin
rằng, mỗi mục đích chọn lựa như trên ít nhiều mang tính chủ quan cá
nhân. Dù rằng khi chọn con người luôn cố gắng sáng suốt, khách quan, hợp lý
nhất có thể v.v...
Song kết quả vẫn chủ quan vì
sao? Vì mỗi chọn lựa đều tương thích với một không thời gian hữu hạn, nhận thức
hữu hạn. Trong khi qui luật tự nhiên thuộc phạm trù vô hạn về không thời gian.
Sự chênh lệch rất lớn giữa thực tế khả năng con người và thực tế yêu
cầu của tự nhiên, là nguyên nhân gây nên sự chủ quan ngoài mong đợi (ngoại
trừ một số trường hợp nhằm khắc phục các hậu quả gây ra bởi các chủ quan trước
đó).
Sự chủ quan của con người được
biểu hiện qua các dạng như tính cao đạo tự tôn, tính tham lam quyền lợi, quyền
lực, tính đề cao sức mạnh vật chất, v.v… Ngoài ra những ức chế tâm lý về nhu
cầu sinh tồn, sự lôi kéo của môi trường, những ràng buột về phong tục tập quán,
v.v… cũng góp phần làm nặng thêm tính chủ quan trong cuộc sống.
Do đó vấn đề sự thật cho
cuộc sống, luôn là một thách thức lớn lao đối với mọi thế hệ loài người.
Lời giải căn cơ cho vấn đề
thuộc về mục đích sống ?
Theo tác giả con người cần
thay đổi mục đích sống thì khả năng lý giải sự thật mới hình thành. Còn mục
đích sống sai thì tính chủ quan mãi là rào cảng khó vượt qua của lý trí.
Mục đích sai, cách sống sai,
là nguyên nhân cơ bản (phạm vi ý thức trực tiếp được) tạo nên tâm thức chủ quan
quán tính nơi con người. Nó làm cho ai đó thích xa rời sự thật, xa rời chân lý,
xa rời lẽ phải, xa rời cái thiện, xa rời lương tâm, v.v … từ khi nào không biết
… (xem lý giải trong phần sau). Hay con người đang phạm tội ác một cách … vô
tư. Nhưng trong thực tế tội ác vẫn là tội ác, và dù ai gây ra với nguyên nhân
gì đều ít nhiều đáng bị kêt án và phải bị xử phạt tùy theo mức độ, bởi con
người hay bởi tạo hóa tự nhiên.
Trong giả định, ta cho rằng
mọi người nói chung đang sống theo “Cách Sống Chủ Quan” nên thành những
“Người Chủ Quan”. Đến đây luận điểm trên đã phần nào được minh
chứng.
“Người chủ quan” hiển nhiên là
NGƯỜI SAI TRÁI, là người khó nhìn ra chân lý và lẽ phải so với người ít
chủ quan hơn.
Nhìn chung họ bị mất phương
hướng cuộc sống, hay con đường HẠNH PHÚC ĐỜI NGƯỜI của họ đã bị lu mờ - (Hạnh
Phúc Từng Phần, Hạnh Phúc Nhất Thời hay Hạnh Phúc Tạm Chấp Nhận
thường bị ngộ nhận với Hạnh phúc Đời người).
Mất phương hướng đồng nghĩa
với dễ phạm sai lầm, dễ sống và làm việc thiếu trách nhiệm. Nếu điều ấy xảy ra
với những người đứng đầu xã hội, quyền lực tuyệt đối, thì hậu quả càng lớn càng
khó lường.
Đặc tính của chủ quan
là “không thấy” “không biết” về chính mình, càng không màng quan tâm đến lợi
ích đến nỗi khổ đau của người khác, chỉ đến khi hậu quả lớn xảy đến thì mới vỡ
lẽ ra … khi ấy đã quá trễ ...
Chọn mục đich sống sai đồng
nghĩa với nhân cách biến đổi, nhiều nhân cách sai góp phần làm xã hội biến đổi
loài người biến đổi. Vấn đề sẽ được khắc phục nếu con người sớm nhận ra hậu quả
và nguyên nhân của nó.
Nếu tất cả nhận định trên là
đúng thì thay đổi mục đích sống cho hợp với qui luật tự nhiên, là việc
nên làm ngay với mọi người mọi cá nhân. Được như thế niềm tin tương lai sẽ lạc
quan hơn, hòa bình hạnh phúc cho thế gian không phải là không thuốc chữa.
4. SỰ SAI LẦM ĐẦU
TIÊN
Trong xã hội những người của
công chúng là những tâm điểm để mọi người học noi theo về nhiều mặt của cuộc
sống.
Những người của công chúng
phải chăng là những đại diện ngẫu nhiên của cộng đồng. Họ đại diện về cách
sống, về thời trang, về phong tục tập quán, về sinh hoạt đời thường, về ý chí,
về trình độ dân trí, về quan điểm nhận thức, v.v...
Để tìm hiểu một cộng đồng có
khi ta chỉ cẩn săm soi chi li những người công chúng của cộng đồng đó, là ta có
thể tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức.
Kinh nghiệm cho thấy, nếu một
cá nhân có mục đích sống đời người sai, thì nhìn chung các thành quả tạo
ra trong đời họ sẽ bị qui vào phạm trù sai.
Suy rộng ra, nếu một cách sống
sai nhưng được mọi người (xã hội) công nhận là đúng, thì cộng
đồng ấy có nguy cơ nằm trong phạm trù sai. Suy rộng hơn nữa, cộng đồng
loài người có khả năng đang bị sai hệ thống khi nó không phát hiện ra
cái sai của một dân tộc hay của một quốc gia nào đó.
Tuy nhiên
nếu cái sai đã trở thành đại trà khắp nơi, thì vấn đề không còn thuộc trách
nhiệm một cá nhân hay một quốc gia nào, mà vấn đề sẽ thuộc về trình độ tiến
hóa chung của cộng đồng hay của loài người.
Nhìn về lịch sử chúng ta nhận
thấy, loài người tiến hóa theo nguyên tắc, không ngừng tiến lên phía trước theo
nghĩa văn minh hơn, tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn, tích cực hơn, năng động hơn,
nhân ái hơn, trí tuệ hơn, v.v….
Bởi nhận thức con người luôn
tiến hóa.
Nó tiến hóa từ không đến có,
từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ lạc hậu đến tiến bộ, từ
sai đến đúng, từ xấu đến đẹp, từ dỡ đến hay, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện,
từ thực tiễn đến lý luận, từ hình thức đến nội dung, từ số lượng đến chất
lượng, từ hiện tượng đến bản chất, từ ngộ nhận đến chân lý, từ đau khổ đến hạnh
phúc, từ vật chất đến tinh thần, v.v….
Dựa trên các nguyên tắc tiến
hóa như trên chúng ta suy ra, có những thời điểm trong lịch sử tiến hóa, nhận
thức loài người nhất định phải mắc những sai lầm tất yếu (tự nhiên)
ngoài khả năng dự kiến (chủ động) của lý trí.
Tuy nhiên sau đó, đến một thời
điểm thích hợp loài người sẽ biết nhìn lại mình để phát hiện ra các sai lầm nếu
có, và cùng nhau tìm cách khắc phục nguyên nhân.
Trong số các nguyên nhân thuộc
lịch sử tiến hóa, tác giả tin rằng nguyên nhân cách sống hay mục đích
sống có ý nghĩa cơ bản tận gốc. Đây là nguyên nhân có liên quan rất lớn đến
bản chất tồn tại, đến ý nghĩa và giá trị sự sống của loài người nói chung.
Thiện – ác, đúng – sai, chân
lý – không chân lý, lẽ phải - lẽ trái,
v.v… là những phạm trù gắn mật thiết với nguyên nhân cách sống khi nó được lý
giải đến tận cùng. Có nghĩa là khi nguyên nhân cách sống được sửa chữa hợp lý
thì các cặp phạm trù trên sẽ chuyển biến về chất một cách cơ bản.
Để mở đầu hành trình lý giải
luận điểm trên, chúng ta hãy tham khảo các minh chứng như sau:
Sau quá trình truy nguyên các
hiện tượng sống, tác giả đưa ra nhận
xét, loài người có khả năng đã mắc một sai lầm rất cơ bản từ giai đoạn sự sống
xuất hiện hiện tượng “CÓ Ý THỨC” trong tư duy con người. Một hiện tượng tự
nhiên khi loài người tiến hóa từ loài “vượn người” thành “con người”,
theo thuyết tiến hóa của các nhà sinh học.
Khi loài người “có ý thức”
cũng là lúc ”không ý thức” được rằng, “ý thức”
không phải là công cụ thuộc toàn quyền con người sử dụng, mà nó còn do
“Qui Luật Tự Nhiên” chi phối,
và hơn nữa “Nó” nắm quyền quyết định sau cùng so với quyền của con người.
Tức là ý thức ngay từ
đầu đã bị Qui Luật Tự Nhiên giám sát và chi phối toàn diện, trước khi loài
người biết sử dụng thành thạo kỹ năng ý thức của mình. Tuy về hình thức
con người là chủ sở hữu trực tiếp và “hợp pháp” của ý thức, nhưng về bản
chất bên trong thì “Qui Luật Tự Nhiên” mới là “người” chủ sở hữu thật sự.
Song tiếc rằng luận điểm trên
khoa học vật chất hiện đại đến nay còn chưa chấp nhận, kéo theo đại bộ phận
loài người bị ảnh hưởng theo.
Nhưng nếu sự thật đúng như
thế … thì cuối cùng con người cũng phải
chấp nhận, nếu không cái giá phải trả sẽ rất lớn và kéo dài mãi … .
Qui Luật Tự Nhiên (Tự nhiên)
chi phối và điều khiển “ý thức” con người theo nguyên tắc, “tư duy ý thức”
không được vượt ra ngoài quỹ đạo do Nó qui định. Khi con người vi phạm qui định
của Tự nhiên thì tùy theo mức độ sẽ phải bị trả giá hay bị trừng phạt trên
nguyên tắc, người gây ra và cộng đồng liên quan xung quanh phải cùng
chịu gánh hậu quả chung.
Kiểm tra
lại trong quá khứ và hiện tại, ta tìm xem loài người đã sử dụng “ý thức” theo
kiểu “vô tư” nào để phải bị trả giá đắt vì phạm tội trái Qui Luật Tự Nhiên.
Nếu kết quả
kiểm tra xác nhận loài người đã vi phạm, thì ta gọi đây là sai lầm đầu
tiên của loài người trên con đường tiến hóa.
Khiếm
khuyết ngẫu nhiên trên vô tình làm các thế hệ loài người đến sau đã ngẫu nhiên
càng dấn sâu vào nhận định sai về năng lực quyền hạn của mình trong cuộc sống,
tức là trong cách hành xử của mình (quan hệ) với đồng loại, dẫn đến những hậu
quả dây chuyền không dễ bị chặng đứng.
Các luận điểm vừa nêu có thể chưa phải là một
minh chứng đầy đủ và thuyết phục nhất, song cũng cho chúng ta một cánh báo phần
nào về nguồn gốc tính chủ quan đặc thù và đáng sợ loài người nếu có.
5. BẢN CHẤT CỦA
SỰ SAI LẦM ĐẦU TIÊN
Bản chất
của sai lầm đầu tiên (nguyên thủy) là do … chưa
hiểu rõ về mình và chưa hiểu rõ về qui luật tự nhiên.
Vì vậy phải
trải qua rất nhiều thất bại, mất rất nhiều thời gian của lịch sử, con người mới
dần dần … ngộ ra bài học quý giá, về sự sai lầm nguyên thủy.
Sự sai lầm
nguyên thủy trong tiến hóa có đặc điểm, rất khó phát hiện thành rất
khó để cảnh giác.
Bản chất
của nó là ẩn mình sâu trong ý thức, nên những ai chủ quan thiếu tỉnh táo
về lý trí rất dễ bị nó cho mắc lừa thảm hại.
Đặc biệt
khi ý thức là ‘ân nhân’ đem lại mức sống cao cho loài người, thì tránh
sao con người không hết mình ca tụng quá đáng sức mạnh tuyệt diệu của nó. Đến
khi phát hiện ý thức đã phạm sai lầm từ trong trứng nước, thì con người
… mỡi vở lẽ hỡi ôi … nào ta phải biết trách ai vào đây.
Trong khi
đó, cái sai cứ thế mà an toàn tung hoành với thời gian, với bao trí tuệ
như nửa mê nửa tỉnh … , chưa kể nó còn được quyết tâm bảo vệ bằng tất cả “sự
nhiệt tình và năng lực” sẵn có của con người …
Song nếu sự
thật nó sai thì vẫn sai, con người muốn hiểu khác hay bao che nó cũng bất
thành. Bản chất sự tiến hóa không cho phép con người dung dưỡng nó mãi …
Nôm na ta có thể kết luận, ý
thức vừa có ưu vừa có khuyết, vừa có công vừa có tội đối với loài người.
Nó là ưu điểm vì giúp con
người phát triển sự sống, v.v...
Nó là khuyết điểm vì gây nên
sự lầm lẩn hóa trong trí tuệ con người, giữa đúng và sai, phải và
trái, khách quan và chủ quan, chân lý và giả dối, thiện và ác, lương tâm và mù
quáng, nhân đạo và bất nhân, v.v... dẫn đến sự thoái hóa trong nhân cách làm người.
Hay nó làm cho tính “người” bị
đe dọa nghiệm trọng, trong khi tính “con” có cơ hội tung hoành ...
Vì suy cho cùng, bản chất của ý
thức là đi tìm chân lý. Nhưng khi chân lý của chính đang bị mất dấu, thì
đích thị ý thức đang có vấn đề lớn. Chủ sở hữu trực tiếp của nó (cá
nhân) đang bị oan lớn do bất ngờ (hoặc không biết), khi tự nhiên mình trở thành
là nạn nhân của chính mình.
Ví dụ, khi ý thức đã làm cho
con người thành sai, thì người sai có khuynh hướng bảo vệ cái lý sai
của mình thành lẽ phải, lẽ đúng một cách hết mình. Trong khi thực
tế chứng minh điều ngược lại. - Vì thế người sai có khuynh hướng cần đến quyền lực, sự gian dối, bí mật, che
giấu, sự tráo trở, không trung thực, tạo phe cánh, tăng cường sự tàn ác, v.v…
ngõ hầu bảo vệ bằng mọi giá “niềm tin tất thắng” của mình trong thời gian lâu
nhất có thể.
Diễn biến mắc sai lầm của “ý
thức” còn có thể được minh họa như sau:
Chúng ta đặt vấn đề, ý thức
đã phạm sai lầm từ khi loài người bắt đầu có ý thức.
Chúng ta biết rằng lịch sử
tiến hóa đã nâng “loài vượn người” lên thành “loài người”. Như vậy thủy tổ loài
người có xuất thân “chưa có ý thức”
sau mới “có ý thức”.
Từ khi “có ý thức” nhận thức con người mới phát triển theo trình
tự nguyên tắc:
Từ không đến có, từ có ít đến có nhiều, v.v… ,
từ không hạnh phúc đến hạnh phúc, v.v….
Ý thức con người bắt đầu từ
các nhu cầu “ăn, mặc, ở” đơn giản gọi chung là các nhu cầu thực tế mang tính vật chất sơ khai. Nếu thiếu chúng sự sống con người sẽ tức
thời bị đe dọa.
Nguyên lý sống lúc bấy giờ rất
đơn giản, nên con người gần như không khó để ý thức các sự thật đơn giản
mà đa phần sự sống chỉ bấy nhiêu là chính là đủ sống.
Song nhiều thời gian trôi qua,
nhân loại tiến lên sau một thời gian dài ...
Sự phát triển ấy được đánh dấu
bởi thước đo từ “số lượng vật chất” đến “chất lượng kỹ thuật” tạo ra chúng, để
cuối cùng hình thành nên cái gọi là “nền văn minh vật chất hiện đại”.
Trong thế giới văn minh vật
chất ấy mọi hàng hóa đều cần được trao đổi mua bán với số lượng lớn, nên khái
niệm “tiền” được phát minh và được biến thành công cụ thay thế gọn nhẹ hiệu quả
trong kinh doanh. Nó còn là vật trung gian để qui đổi tất cả các giá trị hàng
hóa khác nhau vào thành một thang giá trị hàng hóa thống nhất, để tiện việc so
sánh ngang giá dễ dàng thuận lợi.
Để sống trong xã hội văn minh,
con người cần phải “có tiền” để đạt được những hàng hóa mình có nhu cầu.
Nhưng vấn đề là làm sao kiếm
ra tiền, và thật nhiều tiền nếu có thể.
Trước hết con người phải tập “thói
quen tư duy tiền” thay cho “thói quen tư duy săn mồi, hái lượm …”
hay “thói quen tư duy vật phẩm”.
Vấn đề đến đây có sự khác biệt
rất cơ bản trong sự sống như sau, “Tiền” có thể tích lũy gần như vô
hạn, trong khi “vật phẩm” chỉ có thể tích lũy trong chừng mực.
Sự chênh lệch vô cùng to lớn
về khả năng tích lũy này, là nguyên nhân mở đầu làm thay đổi tư duy ,
cuối cùng là cách sống nơi con người và xã hội. Hay nó làm thay đổi
cản bản nhân cách con người văn minh.
Vì nó đã khơi dậy lòng tham vô
hạn nơi con người, đồng thời tính ác tính xấu cũng từ đây có cơ hội bùng phát
theo đà phát triển của xã hội.
Biết rằng sản phẩm xã hội sản
xuất ra chỉ có giới hạn, trong khi có một thiểu số
người do may mắn và tài năng đã kiếm
được nhiều tiền đến mức có thể mua hết số sản phẩm trên của xã hội nếu muốn.
Nếu họ làm đúng như thế thì
những người nghèo trong xã hội chắc chắn phải chết đói. Khi ấy vì sự sống,
người nghèo sẵn sàng trở thành nô lệ cho những người giàu vô điều kiện và dưới
mọi hình thức.
Lúc bấy giờ người giàu trở
thành kẻ có quyền lực, trong khi người nghèo bị tước mất hết quyền sống, quyền
làm người tối thiểu.
Quyền lực đến phiên nó, tự phát triển độc lập thành một thứ tài
sản mà con người có thể, đi tắt đón đầu, bằng cách cướp chính quyền, bằng
truyền cho nhau theo huyết thống, bằng mua bán, v.v… , thay vì phải đi theo con
đường truyền thống, kiếm giàu tiền bằng tài năng và may mắn.
Khi có quyền lực con người sẽ
quay lại kiếm tiền, nhằm hoàn thành tham vọng lý tưởng ở đời, quyền lực cộng
với phú quý.
Quá trình xảy ra hiện tượng “bất
thường” trên cũng là quá trình các thế hệ con người truyền cho nhau các
tính xấu hình thành ngẫu nhiên, như tính vô cảm, vô tâm, độc ác, ít kỷ, bạo
ngược, v.v… trong ứng xử với đồng
loại với những ai bị phụ thuộc họ. Đồng thời, với mức sống và quyền lợi đặc
thù, tất cả họ tạo thành (ngẫu nhiên) một giai cấp bên trên đầy quyền uy
và giàu có, nhưng … không được lòng xã hội.
Chúng ta có thể kể một số giai
cấp hình thành tự nhiên trong một xã hội thông thường, nếu xét trên góc độ
quyền lực và giàu có, như sau:
- Giai cấp người giàu so với
giai cấp người nghèo.
- Giai cấp quyền lực mạnh so
với giai cấp quyền lực yếu.
- Giai cấp cai trị so với giai cấp bị trị,
- v.v…
Trong số giai cấp trên tính ác
bao giờ cũng nghiêng nhiều về phía các giai cấp “giàu, quyền lực, cai trị”.
Biết rằng trong giới quyền lực
thì chính quyền là đại diện tiêu biểu nhất, nên tính ac tính bất công, tính vô
cảm, v.v… gần như lúc nào nơi đây cũng dễ phát sinh nhiều hơn so với các nơi
khác, khi vai trò kiểm tra của nhân dân không được chú trọng phát huy.
Từ thực tế cho người ta thấy
rằng, các tính xấu chủ yếu có ở giai cấp bên trên đã ngẫu nhiên lan truyền theo
nhiều cách nhiều đường để vào đời sống dân gian cũng như đời sống xã hội. Điều
này vô tình giúp cho cái ác cái xấu càng được duy trì tồn tại bền lâu hơn.
Khi cái xấu cái ác lan đến đâu
thì thuộc tính “tiền” trong cuộc sống càng có nhu cầu phát triển đến đấy, vì
chỉ có “tiền” mới cứu được kẻ xấu thoát khỏi nguy hiểm kể cả vượt lên trên mức
sống chung xã hội.
Tóm lại trong xã hội văn minh,
triều đại “Đồng tiền” chiếm lĩnh thế giới loài người. Nó tạo ra “Cách Sống
Tiền” trong mọi ứng xử, đồng thời cũng là nơi ẩn nấp tốt nhất cho mọi thói hư
tất xấu của con người.
Biết rằng “tiền” là một loại
vật chất. Nên “cách sống tiền” là cách sống lấy “vật chất” làm mục đích
sống chính của đời người.
Khi “cách sống vật chất” lan
tràn khắp nơi, cũng là lúc các giá trị tinh thần bị đẩy xuống hàng thứ
yếu. Hoặc nếu, giá trị tinh thần có thể qui đổi ra thành tiền thành vật chất,
thì con người cũng sẵn sàng qui đổi để bán nốt …. Và trong thực tế, con người
cũng đã, đang và còn tiếp tục làm như thế. Vì tất cả … tin rằng cần phải có
“tiền” có “vật chất”, còn “tinh thần” là cái không thật, cái vô bổ, cái không
cần thiết, cái viễn vong, giữa cái thế giới sống rất trần tục này.
Tuy nhiên, tiếc rằng sự sống
không phải tất cả do con người tính mà được. Nên “tinh thần” mãi còn đó giá
trị, chỉ chờ thời điểm quay trở lại vị trí thống trị của mình.
Vì tạo hóa sinh ra loài người
để tồn tại và phát triển trên đôi chân vật chất và tinh
thần, thiếu một trong hai khái niệm tồn tại sẽ biến mất.
Qui Luật Tự Nhiên là một khái
niệm thuộc giá trị tinh thần. Qui Luật Tự Nhiên không thể biến mất thì chức
năng “tinh thần” trong đời sống con người cũng không bao giờ có thể biến mất
hay vô nghĩa.
Không những thế, xã hội càng
văn minh hiện đại thì vai trò của giá trị tinh thần càng giữ vị trị nổi
bật hơn bao giờ hết. Trong khi giá trị vật chất dần dần quay về vị trí
của phương tiện đúng nghĩa, tạo đà cho giá trị tinh thần thăng
hoa.
Nên mọi vô lý rồi sẽ bị xóa sổ
để nhường vị trí cho sự hợp lý lên ngôi. Không sớm thì muộn việc ấy cũng xảy
ra. Chi bằng con người sớm ý thức ra vấn đề và tự thay đổi, để quá trình chuyển
đổi được nhẹ nhàn, hạn chế được hậu quả đau thương cho bản thân cho mọi người
cho xã hội ...
Cái giá
phải trả ít hay nhiều cho quá trình chuyển đổi này sẽ tùy vào sự lựa chọn của
con người, và lịch sử sẽ là người phán xét cuối cùng cho tất cả.
Cách đặt vấn đề như trên có
thể chỉ là một giả thiết, vì giá trị tinh thần là một khái niệm trừu
tượng, nên rất khó định hình cũng như rất khó để xác minh một cách thật chính
xác. Vì nó phụ thuộc chủ yếu vào sự cảm nhận của mỗi người, mà sự cảm
nhận ấy đa dạng vô cùng, nên không phải dễ để suy kết một vấn đề một cách chắc
chắn, nhất là từ góc độ khoa học.
Hơn nữa bản chất của giá trị
tinh thần đúng nghĩa là không thể áp đặt, cũng không thể bằng dụ dỗ mua
chuộc. Nó phải bằng con đường nhận thức tự nhiên tự nguyện thì kết quả mới đúng
nghĩa đúng giá trị.
Tuy nhiên thực tế và thời gian
sẽ giúp con người hóa giải mọi hoài nghi, bởi những chứng minh hợp lý hơn và
bằng sự tiến hóa tự nhiên của trí não trong mỗi cá nhân trong giai đoạn thế hệ.
Còn trước mắt, lịch sử và hiện tại có thể sẽ
là những minh chứng phần nào cho các giả thiết trên, là chân thật hay phi lý.
Ngoài ra mỗi người cũng có thể
tự tìm hiểu chi tiết hơn về nguồn gốc của “nhận thức” bản thân, từ khi có hiện tượng “ý thức” đến nay, ta có thế kết
luận gì về “giá trị vật chất” và “giá trị tinh thần”. Từ cơ sở đó mọi sự chứng
minh và sự thấu hiểu có thể dễ dàng hơn chăng.
6 . CƠ CHẾ VẬN ĐỘNG
NÃO
Như trong
phần mở đầu đã nêu, song song với sự hình thành “cách sống vật chất cùng với
quyền lực của nó”, xã hội loài người còn cảm nhận một sức mạnh quyền lực
khác mà bằng ý thức trực tiếp con người không thể định nghĩa cụ thể là gì.
Quyền lực
ấy sau nhiều thời gian trải nghiệm con người qui cho nó một khái niệm, “Quyền
lực Siêu nhiên” hay “Quyền Lực Tinh Thần”.
Trong mỗi
xã hội thường có các hoạt động văn hóa văn nghệ, đạo đức, tư tưởng, triết lý,
tôn giáo, v.v…. Những hoạt động ấy tạo
nên cái gọi là giá trị tinh thần của một xã hội. Chúng có nhiệm vụ đáp ứng các
nhu cầu đa dạng của đời sống tinh thần mọi người trong xã hội. Nhưng thực tế
cho thấy như thế vẫn chưa đủ so với yêu cầu. Vì xã hội vẫn còn đó những bất an
chưa thể khắc phục, loài người vẫn còn đó những nan giải về chiến tranh và hòa
bình, về môi trường, về những bất công thời đại, v.v… .
Những bất
an trên cho thấy đời sống tinh thần của con người còn nhiều vấn đề phải lý
giải, trong khi đời sống vật chất nhìn chung là không thiếu. Vì sao có sự mất
cân đối trên.
Nâng cao mức
sống tinh thần là xu hướng phát triển tất yếu, là đòi hỏi tự nhiên của thời
đại ngày nay.
Vậy tinh
thần là gì, bản chất nó là sao, đâu là nguồn gốc hình thành, đâu là vai trò của nó trong đời sống con người và xã
hội, v.v….
Và phải
chăng loài người đã hội đủ khả năng vâ điều kiện để phát triển tinh thần
đến hoàn thiện, hay cần phải có một sự trợ giúp từ một quyền lực siêu nhiên nào
khác nữa. Tất cả cần có một câu trả lời thỏa đáng.
Để tìm lời
giải, trước hết chúng ta lưu ý đặc điểm loài người là dùng tư duy ý thức
để sống và phát triển, và não là trung tâm phát triển của tập hợp các hệ thống tư
duy ý thức ấy.
Vậy phải
chăng não là nơi sinh ra mọi giá trị tinh thần của con người.
Nếu đúng
như thế thì cơ chế vận động của não người là gì, hoạt động ra sao ? Nguyên lý
vận hành thế nào? Hi vọng lần theo hướng này chúng ta có thể tìm ra lời giải
đáp đúng đắn.
Qua thời
gian thực nghiệm các vận hành của não, tác giả đúc kết ra mô hình vận động sau
đây.
A ■ KẾT CẤU CỦA TÂM.
Não người lúc
đầu chỉ tồn tại một tâm cơ bản (trung tâm xử lý) như mọi động vật
khác. Ta gọi là tâm A0
hay “tâm nguyên thủy” (tâm
bản năng).
Tâm A0
vận động theo vô thức bản năng (không ý
thức).
Sau thời
gian tiến hóa, con người tiến lên “Có Ý
Thức”.
Bấy giờ
các vận động trí tuệ trong não tự động tách ra thành hai tâm cơ bản,
gọi là “tâm (A)” (bao gồm Tâm A0) và “tâm (B)”.
Với (A) là
tâm tiềm thức (vô thức), và (B)
là tâm ý thức (ý chí).
Khi (B)
bắt đầu vận động, ta chú ý trong (A) một lần nữa tự tách đôi ra thành hai tâm
nhỏ khác gọi là “tâm nhỏ A1” (chú ý, trong có chứa A0) và “tâm
nhỏ A2”.
(ghi chú: A1 và A2
là hai “tâm nhỏ”, nhưng cũng gọi là “tâm” trong thực tế, cho hợp với
thói quen nhận thức.)
Sau đây
chúng ta theo dõi nguyên lý vận hành của các tâm (trung tâm) như sau.
1) TÂM Ý THỨC (B):
(B) là tâm tập hợp các ý thức (trực
tiếp). Nó bao gồm các ý thức, các nhận thức, các cảm giác, v.v…, tất cả ta gọi
chung là Ý THỨC. Mỗi ý thức đại diện cho một nội dung hay một giá trị,
gọi chung là giá trị ý thức.
(Ghi chú: trong ý thức
bao gồm ý thức về Ý và ý thức về CẢM XÚC, trong phần sau ta gọi
đơn giản là Ý và CẢM. Một lưu ý khác, bản chất của ý cũng là cảm, nhưng
cảm này cho ra “ý thức” chứ không phải “cảm xúc”)
Trong (B) đặc biệt có
ý chí (ý muốn, sở thích – một dạng sản phẩm chủ đạo của ý thức) giúp
con người phân loại các giá trị ý thức nào mình muốn chọn
thành hành động, và ưu tiên sắp xếp ở vị trí cao nhất điều gì cá nhân thích
nhất, trong THANG GIÁ TRị Ý THỨC.
Ta gọi cách sắp xếp này
là “cách sắp xếp 2”.
Ảnh minh họa:


(A) (B)
cách sắp xếp 1





![]() |


cách sắp xếp
2 cách sắp xếp 2
TÂM (A)
TÂM (B)
(TIỀM
THỨC)
(Ý THỨC)
hình 1
2) TÂM TIỀM THỨC (A) :
( Còn gọi Tâm Ý Thức Gián Tiếp, Tâm Cảm Giác, hay Tâm
VÔ THỨC)
i.) (A) là tâm tập hợp các tiềm thức (vô thức, ý
thức gián tiếp), là các ý thức do (B) phản ánh vào dưới dạng MÃ HÓA thành
các cảm giác vô thức. Đây là dạng ý thức mà con người không thể cảm nhận
trực tiếp sự tồn tại của nó, chỉ cảm nhận kết quả của nó khi (A) phản ánh ra
(B) thành dạng ý thức.
(chú thích: “tiềm thức”
cũng được gọi chung là “ý thức” để dễ diễn đạt trong lý luận phân tích, vì cả hai có cùng nội dung chỉ khác về hình
thức thể hiện – VÔ HÌNH và HỮU HÌNH).
Con người không thể
ý thức trực tiếp sự tồn tại của tâm (A). Nó thuộc về vô thức dưới
dạng tiềm thức. Tuy nhiên qua những tác động liên lạc trau đổi giữa các
tâm, cho phép chúng ta có thể hình dung hay suy diễn về sự tồn tại của tâm (A),
và cơ chế vận hành của nó như phần trình bày sau đây.
ii.) Khi não người phát triển có ý thức, thì (A) phân
thành 2 tâm nhỏ A1
và A2.
a - A2 có nhiệm vụ
sao chép lại “cách sắp xếp 2” do tâm (B) tạo ra,
-
để lưu trữ thành
dữ liệu, dưới dạng tiềm thức (tương tự với TRÍ NHỚ).
-
Sau đó từ tiếm
thức điều khiển ngược lại (B) bằng MỆNH LỆNH dưới dạng PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU
KIỆN, để được chuyển đổi thành Ý MUỐN của cá nhân. – Nếu “ý muốn” vì lý do gì
không chịu thi hành theo “mệnh lệnh” của A2 , thì tâm lý cảm thấy bất
an, khó chịu kéo dài (không chịu nổi). Cuối cùng nhìn chung ý
chí phải tuân theo mệnh lệnh của tâm A2 .
b - A1 có nhiệm vụ tiếp nhận “cách sắp xếp 2”
của (B), NHƯNG nó tiến hành Sắp Xếp Lại “cách sắp xếp 2” thành “cách
sắp xếp 1” theo qui định ưu tiên thứ tự của tâm A0.
- Đây là nguyên nhân mấu chốt bí ẩn quyết định bản chất phức tạp
trong các vấn đề liên quan đến nhân cách đạo đức con người.
-
sau khi đã hoàn
thành “cách sắp xếp 1”, A1 lưu trữ tất
cả thành dữ liệu tiềm thức (thường được hiểu dưới dạng lương tâm).
-
Từ lương tâm nó
điều khiển ngược lại (B) bằng MỆNH LỆNH dưới dạng YÊU CẦU CỦA BẢNG NĂNG, và
được chuyển đổi thành TIẾNG NÓI CỦA LƯƠNG TÂM, với mong muốn cá nhân phải THI
HÀNH nó cho hợp với qui luật tự nhiên..
LỜI BÀN:
- Do sự
xuất hiện của hai tâm nhỏ này mà trong tâm (B) luôn xảy ra sự mâu thuẩn giữa
hai luồn “ý muốn” đối trọng nhau cần chọn lựa. Một từ quyền lực của
A1 (do bản năng A0 là tác giả) và một từ quyền lực của A2
(do ý muốn cá nhân là tác giả).
- Biết
rằng A0 trong cuộc sống được hiểu là lương tâm
mang tính khách quan. Trong khi ý muốn cá nhân có thuộc tính chủ
quan, có khuynh hướng chống lại ý chí của lương tâm (xem phần lý giải sau).
Lý giải tóm lược: - Giữa hai “ý muốn”, ai thắng ai ? Kết quả lựa chọn
này tùy thuộc chính vào vốn cảm giác lương tâm và vốn cảm giác sở
thích của mỗi cá nhân, bên nào vốn sống mạnh hơn hay nhiều hơn thì chiến
thắng. Tức là cá nhân sẽ hướng “ý muốn” về phía bên mạnh hơn làm lẽ sống hay
mục đích sống ở đời.
Nhìn
chung trong xã hội hiện đại, con người thích chọn thiên về cách sống trái
lương tâm nhiều hơn là lương tâm A1
, mặc dù về nhận thức công khai thì ưu tiên lương tâm A1
hơn.
Nguyên nhần vì hướng
sống theo lương tâm A1 phức tạp hơn, hỏi
điều kiện giáo dục cao hơn mà điều này không phải ai cũng đạt.
Khi có
được điều kiện giáo dục tốt cá nhân sẽ không bị lôi kéo bởi các quyền lợi vật
chất hay quyền lực nếu bất hợp lý, cho dù tâm nhỏ A2 tích
cực chào mời. Họ sẵn sàng sống theo tâm nhỏ A1, như mục đích sống chính, cho dù thực
tế phải gặp nhiều khó khăn trắc trở.
Song bù lại họ ngộ ra rằng, các phúc lợi từ
giá trị tinh thần mang lại, có sức quyến rũ lạ kỳ, hơn bất kỳ giá trị vật chất
nào khác khi so sánh.
Tại sao ?
Hi vọng trong các phần
sao sẽ cho chúng ta những lý giải sáng tỏ hơn.
3) Ý NGHĨA VẬN HÀNH CỦA CÁC TÂM:
Các tâm vận hành như sau:
a- Tại (B),
Các ý thức được tạo
ra trong quá trình con người sống, giao tiếp, sinh hoạt, làm việc, v.v…. Mỗi
ý thức tương ứng với một cảm giác sống (giá trị ý thức) làm
đại diện, nó có gốc rễ từ tiềm thức làm nền.
- Khi các giá trị ý thức được phát ra, chúng đòi hỏi cá nhân phải
tuân theo cách sắp xếp của thang giá trị mà cá nhân đã quen lựa chọn và tuân
hành. Như thế cho tiện việc ưu tiên lựa chọn mỗi khi có nhu cầu ra quyết định ứng
phó cuộc sống.
- Tùy theo
chọn thang giá trị nào làm lẽ sống, thì giá
trị ý thức cao nhất trong đó sẽ là mục đích sống chính của cá nhân
suốt đời.
LỜI BÀN:
Chúng ta
lưu ý về luận điểm suy đoán như sau:
Do nhu cầu sinh tồn tự nhiên, thang giá
trị thời tổ tiên loài người phải bắt đầu từ các ưu tiên lựa chọn như ăn, mặc,
ở, … , gọi chung là những mục đích vật chất. Tức là MỤC ĐÍCH VẬT CHẤT
là mục đích sống chính của con người thời tiền sử. Vào thời ấy, sự lựa
chọn này là hợp lẽ tự nhiên, nó đem lại sự sống hiệu quả.
Tuy nhiên
khi loài người tiến lên văn minh, nhu cầu vật chất cơ bản không
còn mang tính quyết định nữa, đặc biệt đối
với giai cấp trung lưu và giàu có, nhất là sau khi yếu tố “đồng tiền”
xuất hiện.
Lúc này thang
giá trị thời tổ tiên loài người đã trở thành lạc hậu. Nó cần
một thang giá trị khác với mục đích sống chính hợp lý hơn.
Ngày nay đang
tiến lên thời đại của chất xám trí tuệ, mà trí tuệ thuộc GIÁ TRỊ TINH THẦN.
Như vậy
thang giá trị mới, phải ưu tiên MỤC ĐÍCH TINH THẦN, như mục đích sống chính của
đời người, cho số cá nhân đã vượt qua mức sống cơ bản (vật chất).
Đối với
số người còn mức sống dưới cơ bản vật chất, vẫn phải tiếp tục dùng thang giá
trị cũ (vật chất) để ưu tiên phấn đấu đảm bảo quyền sinh tồn tối thiểu. Tuy
nhiên cũng cần chú ý song song hướng về thang giá trị (tinh thần) tích cực toàn
diện, để hoàn thiện kỹ năng sống hạnh phúc như một cứu cạnh tối thượng của đời
người.
Kết luận
lại, trên thế giới ta thấy tại (B) đang có nhu cầu tái cơ cấu lại thang giá
trị sao cho hợp lý hiệu quả phù hợp.
Ví dụ: Do hệ quả tự
nhiên, con người thời đại văn minh vẫn quen xếp “hưởng thụ vật chất” (tiền) lên
vị trí cao nhất trong thang giá trị cách sống, mặc dù so với thời thế đã lạc
hậu. Vì thế vấn đề là làm sao từ bỏ thói quen cũ để tiến lên xây dựng kỹ năng
sống mới, nhắm đích “thụ hưởng giá trị tinh thần” làm lẽ sống chính đời người
trong điều kiện mức sống vật chất đã đảm bảo.
Sự phát triển của công
nghệ thông tin, là một trong các minh chứng cho sự chính mùi của sự tiến lên
mức sống tinh thần của thời đại.
b- Tại (A),
Sau khi tiếp
nhận số ý thức từ (B) chuyển sang, nó tức thời sao chép ra thành hai bộ ý thức
giống nhau để chia về cho A1 và A2
cùng xử lý, lưu trữ và làm nhiệm vụ tác động ngược lại cho (B).
i. Tại A2:
Mọi thứ tự giá trị ý
thức từ (B) chuyển giao vẫn được tôn trọng giữ nguyên. Tức là thang giá trị với
“cách sắp xếp 2” (thông thường giá trị ý thức được xếp cao nhất là “hưởng
thụ vật chất, tiền, quyền lực, …”) không bị thay đổi. Tiếp theo tất cả được
ghi vào lưu trữ tiềm thức, để cuối cùng được dùng làm mệnh lệnh gấy tác động
ngược lại cho (B) dưới dạng mệnh lệnh khó có thể chối từ.
Trong khi lưu trữ vào ký ức, các giá trị
ý thức được gia cố “cho đậm chất lên về cảm giác” mỗi khi số lần lưu trữ tăng
lên. Cảm giác càng đậm thì mệnh lệnh tác động đến (B) càng mạnh, làm cho ý chí cá
nhân càng khó thể cưỡng lại.
LỜI BÀN:
Chúng ta lưu ý phân biệt, tuy A2
do (B) tạo ra nhưng A2 lưu trữ giá trị ý
thức dưới dạng cảm giác và vô thức, trong khi tại (B) nó được thể
hiện thành ý thức và nhận thức
cụ thể.
A2 chịu trách nhiệm lưu trữ tất cả mọi giá trị ý thức
xảy ra tại (B), tính từ khi ý thức đầu tiên của cá nhân xuất hiện cho
đến cuối đời.
Trong khi tại (B) phải chịu sự chi phối
của của môi trường, cùng với những tư duy nhất thời để ứng phó, cộng với những
tác động mệnh lệnh từ A2 và A1
(tuổi càng lớn những tác động này càng rõ).
Tại (B) thường có ba loại mệnh lệnh tác
động để cá nhân lựa chọn, trước vấn đề đặt ra từ môi trường sống:
o Một, của ý chí (ý muốn) nhất thời của cá nhân
o Hai, của mệnh lệnh từ A2
o Ba, của mệnh lệnh từ A1
Giữa ba loại mệnh lệnh trên, thực chất
chỉ có hai mệnh lệnh sau là mang tính quyết định. Cuối cùng cái trau dồi thành thói
quen nhiều nhất, giữa hai mệnh lệnh này, sẽ trở thành ý muốn của cá
nhân.
- Như thế anh “số một” thường là phải chịu
thua. Vì không có nhiều thời gian tích lũy (rèn luyện) bằng hai anh kia. Nếu có
thắng thì chỉ ngắn hạng, nhất thời, không bền, có thể do bị tác động nhất thời
trức tiếp từ bên ngoài nên mạnh lên. Nhưng trong những vấn đề lớn, phải tính
toán kỹ, mang tính thời gian lâu dài, thì không bao giờ nó vượt qua được hai
anh tác động “số hai” và “số ba”.
- Anh hay thắng nhất là “số hai”. Vì
được rèn giũa bởi các ý thích cá nhân hằng ngày, tháng, năm, … đời người.
- Anh ít được chú ý nhất là “số ba”. Tuy
nhiên nó rất lợi hại trong khả năng cản trở anh “số hai”, bằng mệnh lệnh
lương tâm. “Số ba” do bẩm sinh (bản năng) nên không bao giờ bị triệt tiêu.
Nhưng vì con người chưa chú ý phát huy A1 hiệu quả, nên lực tác động đến (B) còn yếu. Song
với một thiểu số người nó vẫn mạnh, do nhiều nguyên nhân.
Tóm lại, thế giới loài người xưa nay chủ
yếu vẫn dùng A2 làm
thế chủ động, nhưng kỳ thực A1 vẫn giữ quyền
quyết định sau cùng. Vì
nó là xu thế phát triển tất yếu của loài người, mặc dù nó phải phát huy
trong thế thụ động, như sự bùng nổ của các cuộc cách mạng, những cuộc đầu tranh
của các tư tưởng tiến bộ, v.v….
Nhưng trong cuộc sống đời thường con
người dễ ngộ nhận, anh “số một” có quyền quyết định tất cả. Thực tế nó chỉ có
giá trị nhất thời, mang tính ảo tưởng, chỉ nói nhăng nói cuội cho “vui” …
Sự thật con người sống là do tiềm
thức quyết định là chính.
Ý chí tạo ra tiềm thức theo thời
gian, bởi nhiều lần lập lại thành thói quen, thành bản tính, thành nếp tư duy
suy nghĩ, thành tiềm thức ổn định. Riêng với ý chí nhất thời (“số một”)
về nguyên tắc là vô tội, là đại diện một phần của cá nhân, đôi khi bị oan ức
mỗi khi sai ra mắc sai lầm.
Nếu muốn tính có tội thì tiềm thức
mới là thủ phạm chính. Kế đến là tội của giáo dục, tội của xã hội, tội của
khoa học, tội của lịch sử văn minh … do chưa biết cách khai thác tâm A1
hiệu quả.
ii. Tại A1 :
Sau khi tiếp nhận “cách
sắp xếp 2” của (B), A1 rà soát và xếp nó
lại sao cho thành “cách sắp xếp 1” theo đúng chuẩn qui định của A0.
Theo A0 qui định giá trị ý thức nào “có
lợi cho hạnh phúc đời người nhất” (theo nghĩa thực chất) sẽ được xếp
lên vị trí thứ nhất.
Sau khi đã hoàn thành
việc sắp xếp, A1 ghi vào kho ký ức lưu trữ dưới dạng tiềm
thức, tiếp theo sẽ dùng làm mệnh lệnh tác động vào (B).
Trong khi lưu trữ vào ký ức, các giá trị
ý thức được gia cố “cho đậm chất lên về cảm giác” mỗi khi số lần lưu trữ tăng
lên. Cảm giác càng đậm thì mệnh lệnh tác động đến (B) càng cao, khiến cho ý chí
cá nhân khó cưỡng lại.
LỜI BÀN:
Nếu tại (B) ví dụ do tình cờ được thuận
lợi về nhiều mặt, ý chí cá nhân thích chọn cách sống ưu tiên hướng về lương
tâm A1 hơn. Vì lý do này nên tâm nhỏ A1
có điều kiện phát triển mạnh lên, đủ khả năng chiến thắng các mệnh lệnh từ A2
tác động. Lúc này lương tâm A1 xem như đã chiếm lĩnh
tâm (B), cá nhân xem đây như là lẽ sống là ý muốn là mục đich sống chính của
đời người.
Kỹ năng đánh bại A2
thành công, chủ yếu nhờ kỹ năng nhận thức và kỹ năng cảm giác lương tâm A1 ban
đầu mạnh, đồng thời cá nhân có chú ý trau dồi thường xuyên. - Trong phần sau
chúng ta sẽ bàn về nội dung này chi tiết hơn.
4) MỘT SỐ NHẬN
XÉT VÀ KẾT LUẬN.
Sự khác nhau về cách sắp xếp thứ tự giá trị của hai tâm nhỏ A1
và A2, là nguyên nhân chính, làm
cho sự sống cá nhân và xã hội thành phức tạp khó hiểu, từ suốt quá trình lịch
sử phát triển đến nay.
Sự sống luôn có hai lực tác động nghịch chiều nhau,
nên con người luôn bị khó xử trong lựa chọn. Chọn đàng nào cũng dỡ, vì không
hiểu tại sao phải chọn bên này mà bỏ bên kia, bên nào có lợi hơn.
Cuối
cùng thường người ta (có quyền lực, có ưu thế …) chọn bỏ lương tâm để
chiều theo cám dỗ vật chất trước
mắt và lợi ích quyền lực hơn người, để cuối cùng tạo thành ý chí,
tư tưởng, học thuyết, chủ nghĩa, v.v…
Lâu dần thành bệnh chủ quan duy ý
chí.
Chúng ta hãy phân tích xem khi ý thức vận động thì nội tâm
con người diễn biến ra sao:
·
Với “cách sắp
xếp 2” tại (B) cho thấy, con người thích chọn cách sống theo sự chủ quan
của mình, hơn là chịu lắng nghe tiếng nói của tự nhiên đang kêu gọi từ lương
tâm
A1.
·
Tiếp theo, sau
mỗi thành công hay thất bại con người đều rút ra những bài học kinh nghiệm nhất
định, ngoại trừ bài học biết lắng nghe A1.
Vì vậy khi mục đích ưu
tiên “hưởng thụ vật chất” vẫn không thay đổi, thì bao nhiêu công sức rút
kinh nghiệm cuối cùng cũng không thoát được những hiện tượng vô lý khó hiểu cứ
mãi tồn tại.
Chỉ có cách con người
cần bắt đầu thay đổi từ mục đích chính (cơ bản), thì mới may ra ánh sáng thành
quả mới phủ khắp.
Ví du 1:
Lúc đầu con người chọn giá trị ý thức ưu tiên “ăn uống” (vật
chất) lên trên, theo tiêu chí thích gì ăn đó. Nhưng sau nhận thấy rằng, ăn uống
bừa bãi gây mất vệ sinh sẽ có hại cho sức khỏe. Rút kinh nghiệm, con người phải
ăn uống ưu tiên chọn giá trị ý thức “hợp
vệ sinh” (trí tuệ - tinh thần). Kết quả là loại trừ được nhiều bệnh tật.
-
Như thế ưu tiên xếp
giá trị ý thức “hợp vệ sinh” lên trên, kế mới giá trị ý thức “ăn
uống”, là làm một cuộc cách mạng về tư duy cách sống.
Ví du 2:
Trong kinh doanh có
người chọn giá trị ý thức
“hiệu quả kinh tế” (cách sắp xếp 2) trên hết, nhưng người khác chọn giá trị ý thức “kinh doanh đạo đức” làm tiêu chí hàng đầu. Người đầu
mau lời, người sau dễ lỗ.
Rút kinh nghiệm, “đạo
đức” và “hiệu quả kinh tế” phải song hành thì kinh doanh sẽ bền, miễn không
phạm luật (cách sắp xếp 1).
-
“Đạo đức” là hàng
hóa kinh doanh có chất lượng, cạnh tranh lành mạnh, không phạm luật, đảm bảo uy
tín thời gian, v.v…
“Hiệu quả kinh tế” là tăng năng suất, áp dụng khoa học
kỹ thuật, biết thích nghi hoàn cành, kinh doanh
có uy tín có đạo đức, v.v…
- “Đạo đức” và “hiệu quả kinh
tế” hợp lý như trên đều thuộc tâm A1, nên nằm trong cách
sắp xếp 1. Vậy sẽ dễ thành công.
Ví dụ 3:
Trong gia đình, tình
người thường được chọn ưu tiên trong quan hệ ứng xử (cách sắp xếp 1).
Trong quan hệ kinh doanh thì khách hàng là “thượng đế”.
Nhưng trong quan hệ
đời thường, con người lại dễ bỏ qua nguyên tắc tôn trọng và quý nhau như trên,
nhất là khi có mâu thuẩn. Vậy là “cách sắp xếp 1” không được tôn trọng,
để thay bằng quan hệ so sánh, ai là “kẻ
mạnh” (về vật chất, quyền lực) sẽ dành ưu thế thắng ,“cách sắp xếp 2”.
Trong một quốc gia cũng
vậy, chính quyền không dùng “đối thoại hợp tình hợp lý” với nhân dân, mà
dùng ưu thế “kẻ mạnh” để thắng, là rơi vào “cách sắp xếp 2”.
- Môi trường sống như
trên là thất bại.
Trong ví dụ 1 và 2, cho
thấy con đường quay về với “cách sắp xếp 1” luôn là sự hợp lý, cho kết
quả tốt đẹp.
Trong ví dụ 3, con
người chưa tìm ra con đường tiến lên “cách sắp xếp 1” vẫn còn loay hoay
với “cách sắp xếp 2”.
Vấn đề đặt ra là đi tìm
con đường (học thuyết) nào để cách sắp xếp 1” thay thế được “cách sắp
xếp 2” trong toàn môi trường sống
xã hội nói chung. Chỉ như thế con đường tiến lên của xã hội mới bình ổn lâu
bền.
Đặc biệt trong quan hệ
chính quyền với nhân dân, yếu tố đầu tàu của mọi sai trái hay của mọi đúng đắn,
cần được ưu tiên lý giải minh bạch.
** “Cách
sắp xếp 1” của A1 thực chất là do A0
(bản năng “lương tâm”) qui định, phương tiện để Qui Luật Tự Nhiên tác động quản
lý con người.
Trong cách sắp xếp này
bản năng qui định, “hạnh phúc đời người” phải là sự lựa chọn chính trong
định hướng phát triển đời người. Đây là nguyên tắc qui định của tạo hóa tự
nhiên. Nó khác với nguyên tắc ưu tiên chọn “quyền và tiền” làm mục đích sống
chính.
Vấn đề được lý giải như
sau:
° Ưu tiên hạnh
phúc đời người, có nghĩa là mọi con người sinh ra lớn lên đều có quyền sống
bình yên, tự do, bình đẳng và hạnh phúc hợp tình hợp lý.
Tức là mọi cá nhân sinh ra đều phải cố gắng hoàn thành tốt nhất
chức năng sinh tồn của mình, sao cho bản thân có lợi nhất, đồng thời phải hài
hòa với lợi ích chung của mọi người, của
xã hội.
° Ưu tiên hạnh phúc đời người,
có nghĩa trong nhận thức lý luận phải tôn trọng tính hợp tình hợp lý (hợp
lôgíc) trong mọi vấn đề lý giải sự sống. Nó phải được thực thi nhất quán từ
tiềm thức đến tư duy, ý chí, lời nói, hành động v.v… , được xem như là mục
tiêu phấn đấu của mỗi đời người.
Ví dụ, khi (B) chấp nhận kết quả 2+2=3 là đúng, thì A2
có thể chấp nhận do nhiều nguyên nhân, nhưng với A1
đáp án chỉ có thể là 4 (phép tính thông thường). Vậy (B) phải chọn sao cho
giống với kết quả của A1, thì sự sống sẽ đạt hiệu quả.
° Ưu tiên hạnh
phúc đời người, còn có nghĩa mọi con người sinh ra đều có ý thức tự giác
phấn đấu học tập rèn luyện bản thân, để có đủ khả năng hoàn thành tốt nhất mục
đích hạnh phúc của đời mình (theo nghĩa
rộng).
Trên đây chúng ta vừa tham khảo các điều kiện cơ bản khi con người
muốn xây dựng lối sống theo “cách sắp xếp 1”.
Tóm lại sự sống con người đang
bị chi phối bởi hai qui luật. Một là Qui Luật Sống Chủ Quan do tổ tiên
phát sinh ngẫu nhiên từ lâu đời, và hai là Qui Luật Sống Khách Quan do
Qui Luật Tự Nhiên qui định.
Giữa hai qui luật trên, “ai
thắng ai”, bên nào thắng bên nào, có lẽ mọi người đã rõ và biết nên ưu tiên
chọn đứng về phía nào.
Tuy nhiên quán tính A2
đã tồn tại từ nhiều ngàn năm, nên con người không dễ vượt qua chính
mình, nếu không tìm ra phương cách thích hợp.
B ■ VAI TRÒ CỦA TÂM TRONG CUỘC SỐNG.
a – SỰ SỐNG VÀ KHÓ KHĂN
Trong hai cách sắp xếp trên,
theo qui định của tự nhiên, “cách sắp xếp 1” phải là sự chọn lựa của loài
người. Song thực tế như chúng ta nó chưa được như vậy.
Vạn sự khởi đầu nan, tổ tiên
loài người do tình cờ chọn “cách sắp xếp 2” làm lẽ sống, để đến nay nhìn chung đa
số người vẫn duy trì.
Trong “cách sắp xếp 2”,
con người thời đại đã đồng hóa nó với ưu tiên “tiền” hay “giá trị vật chất”,
làm lẽ sống, thay gì phải chọn “hạnh phúc đời người”. Sự sống vì thế bất ổn
luôn.
Làm người mà không hạnh
phúc thì vô nghĩa.
Vì thế “đấu tranh” luôn
xảy ra, để làm yên lòng tâm A1 .
Con người luôn đi tìm
cái đúng thuộc “lương tâm (A1)”, trong khi cái xấu thuộc
“lợi ích vật chất (A2)” ngược lại luôn tích cực cản trở.
Sự mâu thuẩn có thể bắt
đầu từ những vấn đề nhỏ trong quan hệ, sau lớn hơn và trầm trọng dần. Lúc đầu
là công việc sau thành mâu thuẩn trong nhận thức. Lúc đầu chỉ với
vài cá nhân sau mở rộng ra toàn xã hội, đến thế giới. Trước còn tranh lý lẽ
nhưng bất thành, sau phải dùng đến quyền
lực, v.v …. Và cuối cùng là phải giao đấu bằng học thuyết …
Xem ra con đường giao
đấu bằng học thuyết là hiệu quả nhất, và triệt để nhất. Học thuyết giúp con
người nhìn rõ vấn đề, khi nó tiến đến tạo điều kiện cho mọi người công khai hóa
mọi lý lẽ.
Chân lý có thể được tìm
thấy theo thời gian, để cuối cùng đánh bại sự thống trị của A2
.
Song trước mắt A2
đang là một thế lực đáng sợ cho mọi ý đồ tiến hóa hướng về A1.
b – TIỂU SỬ A2
Quá trình tạo nên A2
ta có thể tóm lược như
sau:
A2 là do ý thức tích lũy từ nhiều năm, nhiều tuổi
đời, để trở thành tiềm thức.
A2 khác
với ý chí. A2 điều khiển được ý chí vì ý chí
chỉ là một ý thức nhất thời, trong khi A2 là ý
thức nhiều tuổi đời.
A2 được hiểu như một khuyết tật của loài người văn minh.
Nó bắt đầu hình thành
ngay từ khi con người còn rất trẻ, bắt đầu từ lúc ý thức hình thành và phát
triển.
Môi trường vật chất
xung quanh đã ngẫu nhiên tác động vào
ý thức để tạo nên cái A2 như đang có đến hiện tại.
Lý do ý thức có bản
chất ưu tiên hướng ngoại (“cách sắp xếp 2”) trước – do nhìn thấy môi
trường toàn vật chất cụ thể.
Sau thời gian ý thức mới có điều kiện hướng nội
(“cách sắp xếp 1”) – do đối diện trước những nỗi buồn thất bại trong cuộc sống.
Ví dụ: trẻ thích vui
đùa với đồ vật trước (“cách sắp xếp 2”), sau mới biết vui với trí tuệ
học tập, tiếp theo là vui với sự trưởng thành nội tâm, v.v…
Thường khi trẻ trưởng
thành thì tiềm thức về “cách sắp xếp 2” (A2) đã hướng trẻ
ưu tiên chọn nó làm mục đích sống chính trong đời (một cách vô thức).
Trong số ấy có một số
ít khác do được tác động môi trường quan hệ tích cực, nên có điều kiện vượt qua
sự lôi kéo của tiềm thức A2
để tiến về A1 tức “cách sắp xếp 1” (mặc dù
chưa ý thức rõ), và chọn nó làm lẽ sống đời người.
Khi con người đến tuổi
trưởng thành, cũng là lúc tiềm thức đã bén rễ sâu vào nội tâm. Lúc bấy giờ cái
gì đã sai hay đúng, đều rất khó sửa lại.
Khi sai lầm đã xảy ra
tự nhiên như trên con người không thể trách ai ngoài … tạo hóa tự nhiên. Nhưng
thực tế sự sống cần phải có người chịu trách nhiệm khi đã phạm sai lầm, nên cuối
cùng cá nhân phải chịu trách nhiệm, cho dù không từ trong bản chất (A1)
không ai cố ý như thế.
c – TRÁCH NHIỆM SAI LẦM
Thói quen là đối tượng có thể qui trách nhiềm cụ thể, vì nó dễ
hiểu dễ thấy.
Nhẹ là các thói quen
hành động có nhận thức đơn giản, nặng là khi nhận thức đã phạm sai lầm mang
tính hệ thống có giai đoạn mưu tính lâu dài rõ ràng, và đã két thành lập trường
quan điểm nhất quán. Nặng hơn nữa là biến thành lối sống vô tâm, vô cảm, độc
ác, mất tính người, v.v… một cách tự nhiên – A1 gần như đã biến
mất hoàn toàn.
Lúc này cá nhân đã bị
mất phương hướng hướng thiện, bản tính trở nên khác thường, tinh thần bất an, …
con người trở nên gian dối, che giấu, hung dữ, mất niềm tin, v.v...
Khi ấy nhân cách tốt
đẹp tích cực sẽ chỉ quay trở lại, khi A1 của cá nhân
được đánh thức bởi một biến cố lớn và phù hợp.
Sự sống đến với con
người một cách ngẫu nhiên, không ai biết trước tương lai sẽ thế nào.
Tuổi nhỏ sống theo mệnh
lệnh giáo dục của người lớn. Đến khi trưởng thành áp lực cuộc sống tăng lên,
mấy ai còn có thời gian tìm lại những nguyên nhân ban đầu của nhân cách mình.
Đặc biệt nếu nó liên quan đến truyền thống tập quán lâu đời từ nhiều thế hệ
trước, thì càng khó để truy nguyên.
Sự sống cứ thế chồng
chất theo thời gian, đường đi lối về càng lúc thêm khó tìm manh mối ban đầu của
một hiện tượng sai lầm.
Khi chân lý còn chưa
sáng tỏ, thì các tiêu cực sẵn có trong lối sống khi có cơ hội sẽ như “đục nước
béo cò”, sự sống vì thế mà thêm rối thêm phức tạp.
Khi định hướng xã hội
(chính trị) không trong sáng, con đường tìm đến A1 càng khó
tìm thấy lối ra, trong khi lỗ hổng sai lầm vẫn tiếp tục được nới rộng hơn v.v…
Trách nhiệm này theo
nguyên tắc phải thuộc về khoa học lý giải. Ngoài ra không cá nhân xuất chúng
nào có thể đảm đương.
Biết rằng khoa học đã thành
công trong nghiên cứu ‘vật chất’, nay đã đến lúc nó phải tiến quân vào lĩnh vực
‘tinh thần’, hoàn thành nốt phần khiếm khuyết mang tính trọng tâm, có lẽ duy
nhất còn sót lại trong phạm trù sự sống loài người.
Tìm đâu ra đầu mối lý
giải bài toán cốt yếu này, may thay tất cả nguyên nhân sai lầm của loài người phải
chăng đã được lưu trữ tất cả trong tiềm thức con người, qua sự truyền lại từ
bao nhiêu thế hệ.
Chúng ta hãy nhìn vào
tâm tin rằng sẽ nhìn thấy mọi lời giải.
Nó không nằm ở hướng nhìn
về A2 , nó chỉ được thấy khi con người hướng về A1.
Tuổi trẻ là sự mở đầu của
người lớn. Tuổi trẻ sai người lớn sẽ thành hư, tuổi trẻ tốt nhân cách người lớn
sẽ đảm bảo vững vàn.
Khi còn trẻ không ai thoát
được vai trò ảnh hưởng của người lớn. Nếu người lớn đi trước sai
(không đúng), trẻ sẽ sai theo. Đến khi trẻ thành người lớn, các sai lầm
quá khứ đã dần biến thành cá tính (khó sửa), cuối cùng là dễ bị mắc sai lầm và
phải bị xử phạt. Thế là oan ức và bất công.
Sự bất công xảy ra ngay
từ cơ chế sinh tồn tự nhiên mà tạo hóa tự nhiên đã an bày.
Trách nhiệm thoát ra
này phải thuộc về giáo dục, và trước hết thuộc về chức năng của khoa học.
Trở về với câu chuyện
người lớn phải chịu trách nhiêm đối với trẻ. Nhưng người lớn là ai, là
ông bà, cha mẹ, nhà trường, chính quyền, v.v…. Nhưng chớ quên tất cả họ cũng
một thời là một đứa trẻ, được lớn lên … từ thủy tổ loài người, đến vượn người …
Nên cũng không hiểu gì để gánh chịu mọi trách nhiệm.
Ai biết đúng ai biết sai,
ai chịu trách nhiệm sửa sai lại tất cả. Xưa nay không ai cả.
Chưa có câu trả lời cơ
bản cho sự sống. Nhưng con người vẫn tự tin mình đang sống và hành động đúng
đắn. Sao biết ?
Xã hội đúng ra cần có
câu trả lời cho tất cả, cũng như cần có ai đó chịu trách nhiệm giải đáp hiệu
quả, mỗi khi sự sống vận
hành có vấn đề.
Người ta nói phải …
“cầu nguyện” … “Trời”. Nhưng “Trời” đã cho loài người “Khoa học”, Vậy chỉ còn
con đường khai thác nó hiệu quả, đáp án ắt sẽ đến.
d – NHIỆM VỤ KHOA HỌC
Khoa học là một phương
pháp lý giải tổng thể về lý thuyết và hành động, nhằm giúp con người nhận chân
ra chân lý của vấn đề cần nghiên cứu.
Khoa học vận động theo
phương thức, phải có đối tượng làm mục đích nghiên cứu lý giải, kế là chứng
minh nó theo yêu cầu, cuối cùng là thực nghiệm để đánh giá sự thành công của
thành quả nghiên cứu.
Đối tượng ở đây là sự
sống con người.
Yêu cầu chứng minh
nguyên nhân của tính bất ổn trong sự sống từ con người đến xã hội.
Một là nguyên nhân có
thể do thời thế đã thay đổi, hoàn cảnh và môi trường sống đã thay đổi, nhưng cơ
chế tư duy con người chưa kịp thay đổi. Như thế là sai lầm…
Sự sai lầm ấy đã lan
truyền từ nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Con người đã ra sức khắc phục nó bằng
các cơ chế xã hội khác nhau, song kết quả vẫn chưa đạt yêu cầu.
Mọi sự bắt đầu từ con
người, vậy nguyên nhân trước hết phải thuộc về con người.
Biết rằng mỗi con người
là một thành viên của xã hội, là một phần của lịch sử tiến hóa, có nhiệm vụ kế
thừa và phát huy các kinh nghiệm sống khác nhau từ các thế hệ đi trước truyền
lại. Quá trình chuyển giao như thế cũng là quá trình mỗi thành viên có trách
nhiệm tái tạo, chỉnh sửa, hoàn thiện hóa kho tàng kiến thức của loài người.
Song mỗi lần chỉnh sửa
là mỗi lần con người … ngộ nhận … “nó đã là chân lý vĩnh cữu”. Nhưng nếu không
may nó không đúng như thế, thì khi con người ra sức bảo vệ nó bằng mọi giá, là
hết sức chủ quan và nguy hiểm.
Khi sự sai lầm càng lớn
con người càng ra dùng quyền lực áp đặt để khắc phục. Đây là những hiện tượng
chủ quan thường thấy, nó biểu hiện lý trí con người đã bất lực.
Bản chất chân lý là
không dùng quyền lực, khi đối phương không dùng quyền lực.
Trong khi chờ tìm thấy
chân lý đúng nghĩa, con người vẫn phải tiếp tục sống chung với “chân lý tương
đối”. Nên cần cảnh giác trước mọi kết luận chủ quan.
Nếu “chân lý tuyệt đối”
được tìm thấy, sự sống sẽ trở nên đơn giản dễ hiểu, và con người không còn cần dùng
đến quyền lực để minh chưng giá trị của lẽ phải.
Mọi ngộ nhân chân lý
tuyệt đối, tin rằng cuối cùng sẽ tìm về với giá trị thật của nó.
Song tất cả mới là
những phát họa, chúng ta hi vọng tiếp tục lần theo con đường khoa học sẽ tìm
thấy kết quả xứng đáng.
7.
TƯ DUY Ý THỨC
Tâm là động lực gốc, ý thức là phương tiện truyền đạt của tâm,
tư duy là môi trường vận động của ý thức, ý chí là bánh lái của ý
thức, hành động là hệ quả của ý thức, cảm xúc là thông tin thành
quả, v.v...
Muốn hiểu
tâm ta có thể quan sát ý thức, theo dõi chuyển động của tư duy, xác
minh hành động, nhận xét cảm xúc, v.v…
Trong thực
tế tư duy và ý thức (tổng quát) có thể xem như một, vì khi ta tư
duy là ta ý thức. Như thể không dễ tách chúng ra để khảo sát nghiên cứu. Vì thế
kết hợp chúng thành tư duy ý thức để nghiên cứu, chỉ khi cần ta sẽ tách
riêng ra sau.
Tư duy có khả năng làm thay đổi giá trị của ý thức,
ý thức có khả năng làm thay đổi giá
trị của tư duy.
Tư duy ý
thức là sản phẩm do (A) và (B) tác
động nhau tạo thành.
(A) và (B)
lúc đầu là một khối thống nhất, sau tách thành hai trung tâm độc lập. (B) có
chức năng phản ánh thế giới bên ngoài, (A) có chức năng quản lý thế giới nội
tâm bên trong. (B) tạo thông tin ghi nhớ vào (A), (A) lưu trữ thông tin chủ động điều khiển (B).
Giữa (A) và
(B) cái nào quyết định hơn cái nào.
(Chú
thích:
- chúng ta
lưu ý giữa ngôn ngữ trong sách và thực tế có sự chênh lệch về ý nghĩa trước một
vấn đề, vì thế chúng ta cần thống nhất một vài nội dung để tránh bị nhầm lẫn.
Ví dụ,
thông thường trong dân gian khi nói chữ tâm là hiểu theo nghĩa tích cực,
tức là muốn nói đến tâm (A) với tâm nhỏ A1 làm
đại diện, nó không tính đến tâm nhỏ A2.
Trong lý
luận khi nói tâm A1 là ta chỉ nghĩ
đến tâm (A), vì (B) đã dành cho tâm A2 làm đại diện.)
Như vậy để
so sánh (A) và (B), thực chất là ta so sánh giữa A1
với A2, xem “ai hơn ai ”.
Quan sát
thực tế cho thấy, nếu là những vấn đề thông thường, hay trong phạm vi nhỏ cục
bộ, hoặc mang tính giai đoạn lịch sử ngắn hạn so với chiều dài lịch sử, v.v…
thì A2 tạm thời có thể trội hơn A1.
Nhưng nếu xét trên phạm vi rộng về không gian và dài về không thời gian, thì A1
luôn thắng tuyệt đối trước A2
, cho dù con người có nhận
thức thế nào trong quan điểm sống.
Đời người
thuộc phạm trù lâu dài và toàn diện, nên chọn sống theo A1
sẽ được hưởng sự thắng lợi TÒAN DIỆN.
Nhưng thực
tế, con người thích chọn theo A2 để đạt thắng lợi nhất
thời để sau đó chịu đau khổ.
Kết luận, A1
thắng A2 theo nguyên lý tự nhiên, đồng nghĩa loài
người được sống trong hòa bình hạnh
phúc. A2
thắng A1 , do nhận thức giới hạn, nên ưu tiên
chọn hưởng thụ vật chất đơn thuần làm lẽ sống, hậu quả sự sống bất ổn và đau
khổ.
Trong sự
sống con người chọn sống theo A2 , nhưng vẫn muốn thắng A1
. Đây là một ý đồ, một quyết tâm bất khả thi, cuối cùng nó chỉ làm
cuộc sống thêm bi kịch.
Khi sự vô
lý đạt đến giới hạn (đỉnh điểm) sự tất thắng của A1 sẽ
đánh bại A2 (lật đổ).
(Chú
thích: bản chất con người tiềm tàng một phần tính ác (tiêu cực),
nó sẽ phát huy khi con người chọn sống theo A2.)
“Ai thắng
ai”, tất cả tùy ở sự lựa chọn của con người, của từng cá nhân. Nhưng với qui
luật tự nhiên trước sau chỉ một lời giải.
Muốn chọn
sống theo A1, con người cần được đào tạo thói quen
sống mới, thói quen nhận thức mới, thói quen tư duy mới, thói quen quan hệ mới,
thói quen làm việc mới, v.v… tại (B) sao cho thoả phương trình sau:
“Cách
sắp xếp 2” (A2) = |“Cách sắp xếp 1”| (A1)
|
PHƯƠNG
TRÌNH CƠ BẢN (ptcb 1)
(với |“cách
sắp xếp 1”| là hằng số (bản năng) và “cách sắp xếp 2” là biến
số (ý chí))
Lịch sử đã
tình cờ đưa sự sống loài người chạy về hướng “cách sắp xếp 2”, nên gặp bất ổn
chu kỳ. Nay vấn đề nên làm là đưa nó về với “cách sắp xếp 1”, do tạo hóa
tự nhiên đã cố định hóa.
8. ĐIỀU KIỆN THAY ĐỔI
CÁCH SỐNG
“Nói phải
đi đôi với làm”, “làm phải đi với tâm”, “tâm phải đi với nghĩ và nói”.
Nếu được
như trên thì sự sống còn gì bằng.
Muốn nói
phải có “ý”, “ý” sinh ra “lời”.
“Ý” do mỗi
người tự do suy nghĩ chọn lựa. Nếu khéo chọn “ý” trùng với “tâm” (A1)
thì sự sống tốt đẹp.
Nói “tâm” và “ý”
tức là ta nói đến A1 và A2 vậy.
Nay muốn cho chúng trùng với
nhau, thực tế là cả một nghệ thuật phức tạp.
Do khái niệm “tâm” trừu tượng nên việc truyền dạy chỉnh sửa nó không
phải dễ, xưa nay số thành công không nhiều.
Nhiệm vụ của khoa học là làm
sao công việc này trở nên đơn giản hóa, mọi người ai cũng có thể hiểu và thành
công một cách nhẹ nhàn và hiệu quả.
Kinh nghiệm dân gian cho thấy
người sống có tâm dễ bị thiệt thòi lận đận. Vì thế mọi người nhìn vào
thấy ái ngại sinh nghi và mất niềm tin. Cuối cùng phần đông người ta thích chọn
con đường sống làm giàu nhanh để mau hưởng thụ cụ thể.
Song thực tế cũng cho thấy, khi
đã thành đạt giàu tiền giàu vật chất, thì đồng thời chất lượng sống tâm hồn
cũng giảm dần. Niềm vui nỗi buồn nó luôn chập chờn như nước phải trôi nhanh qua
cầu. Để đọng lại từ trong sâu thẳm một nỗi trống vắng vô nghĩa … mà ai đã chạm
rồi cũng khó tả lại cho người sau.
Bởi thế dù lịch sử đã bao nhiêu lần chứng minh,
nhưng những khuyết tật ấy vẫn khó sửa.
Ngược lại những người sống có lòng có tâm (A1), trước
mắt như phải chịu nhiều thiệt thòi (ví dụ: các thầy tu), nhưng càng về lâu dài
từ trong sâu nội tâm họ vẫn luôn có những niềm vui bình an mãn nguyện.
Họ “chấp nhận”
hay nhìn ra và chọn con đường sống như trên, có thể do bẩm sinh, do giáo dục,
do hoàn cảnh, do số phận, v.v… “phù hộ”.
Nhưng muốn tìm câu kết cho rõ ràng thì thường mỗi
người mỗi ý, nhiều nhất là qui cho số phận may rủi, cho mạng trời đã định, v.v
…
Vậy đâu là lời giải thích hợp lý nhất ?
Có phải ngẫu nhiên do số phận hay may rủi …
Theo góc độ nghiên cứu, tất cả là do điều kiện nhận
thức ban đầu tạo nên, cộng với hoàn cảnh tác động khách quan của xã hội.
Thỏa được mấy yếu tố trên, con người sẽ làm chủ được
khả năng chọn lựa con đường sống của mình, cho dù ở hoàn cảnh nào, bản chất bẩm
sinh ra sao.
Hay ta nói nguyên nhân trọng tâm nhất của vấn đề, là
do con người chưa nhận thức về tâm A1 là gì, đâu là sự
lợi hại của nó.
A1 hay A2 là tùy mỗi cá nhận chọn, chứ không chỉ là số
phận chịu trách nhiệm.
Tuy nhiên cái khó là vấn đề
chọn lựa, cho dù đã được giới mọi điều đúng đắn, song con người vẫn có thể chấp
nhận chọn sống theo A2 với bao nhiêu hậu quả đã dự báo
trước.
Đây là một bài toán khó. Nó không
đơn giản như người ta chọn thịt cá cho một bữa ăn.
Vấn đề này sẽ có lời giải tốt
khi con người có sự chuẩn bị hệ thống giáo dục hợp lý và hiệu quả ngay từ đầu.
Đây là một trong yếu tố quyết định giúp con người phát huy kỹ năng chọn lựa con
đường sống hợp lý được thuận lợi trong tương lai.
Quá trình giáo dục ấy cần có
hệ thống liên hoàn đồng bộ, thống nhất, … đến suốt đời.
Phối hợp với nó là môi trường
tổ chức xã hội phải hợp lý đồng bộ theo, từ bộ máy chính quyền, dư luận xã hội,
trách nhiệm gia đình, v.v…. Tất cả được thiết kế hợp lý và khoa học trên nền
tảng của một phương án, đúc kết thành học thuyết. Trong đó đã qui hoạch hay
vạch sẵn, mọi đường đi nước bước cho từng con người một trong xã hội, nhưng ở
góc độ tổng thể.
Muốn trị bệnh người bác sĩ
phải dùng thuốc, dùng phẩu thuật, v.v… , thì bệnh mới khỏi. Muốn làm được như
thế người thấy thuốc phải có trình độ chuyên môn, phải qua đào tạo trường lớp,
v.v…
Ác hay thiện nó cũng là một dạng bệnh khác của con người. Bệnh về
cách sống, bệnh về đạo đức, bệnh về trách nhiệm làm người với đồng loại, bệnh
về phẩm giá tinh thần, v.v… . Muốn chửa lành bệnh tất yếu nó cũng đòi hỏi phải
có những nhà chuyên môn thích hợp.
Vậy vấn đề là, ai sẽ là nhà
chuyên môn trong lĩnh vực tổng thể sự sống con người và xã hội. Họ cần được đào
tạo theo quan điểm nào, học thuyết ra sao. Từ đây mới có cơ sở định hướng qui
hoạch môi trường giáo dục trên phạm vi toàn diện và tổng thê, đạt hiệu quả tối
ưu.
Thế giới ngày nay còn nhiều
nhân cách sống bất bình thường, nhiều nhà lãnh đạo quan hệ với nhân dân còn độc
đoán chủ quan thiếu tôn trọng, sự sống còn nhiều đau khổ bất công, v.v… . Bấy
nhiêu đủ để kết luận, những nhà chuyên môn trong lĩnh vực này đang có vấn đề. Hoặc
đúng hơn nó chưa có.
Hoặc đã có nhưng nhắm sai
trọng tâm của vấn đề.
Nếu chúng ta tin rằng sự sống
là do loài người tự quyết định, thì con đường hoàn thiện học thuyết sẽ là cứu
cánh của thời đại.
Đúc kết lại xã hội loài người
đang cần một học thuyêt mới, chính xác hơn, hợp lý hơn. Có học thuyết đúng đắn,
tất yếu sẽ có những nhà chuyên môn đúng nghĩa cho căn bệnh của sự sống, của xã
hội, của cá nhân, với trọng tâm là bài toán quan hệ con người.
Thế giới ngày nay đang thiếu
các nhà chuyên môn như thế, những nhà tâm học, nhà nhân cách học, nhà đạo
đức… theo nghĩa được đào tạo đúng
chuyên ngành.
Vì thiếu … nên mọi người gần
như ai cũng có thể trở thành những nhà chuyên môn bất đắc dĩ, để tự do lý giải
mọi hiện tượng tồn sinh tồn theo cách họ cảm thấy vừa ý nhất.
Thế là căn bệnh có khả năng
càng được đục khoét sâu hơn, khó chữa trị hơn.
Đành rằng bản chất con người ai
cũng bản năng tích cực, ít nhiều hướng thiện (A1),
nhưng “ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, cũng thành vô dùng, cũng hoài ngọc đi”.
Vấn đề là phải có “dũa” thì tâm kia mới hữu dụng, mới phát huy.
Đây là vấn đề khoa học phải
tìm ra câu trả lời.
Tâm nếu “dũa” kém, tất yếu sẽ thành
mờ, xấu và ác.
Trong trường hợp tâm đã ác,
con đường trị liệu sẽ khó nhiều lần hơn, gần như … “bít cửa” (cần có một biến
cố mạnh hỗ trợ, họa may).
Vì thế tốt nhất là giáo dục
“tâm chất lượng” ngay từ đầu, tuổi trẻ tinh mơ.
Giáo dục ngày ngày nay chưa có
môn khoa học này. Nên đa phần xã hội phải nhờ đến tín ngưỡng hỗ trợ ...
Phải chăng khoa học mãi chấp
nhận đứng ngoài cuộc …
B. KỸ NĂNG LÀM CHỦ CÁCH SỐNG
1- SÓNG GIÓ TUỔI THƠ.
Làm chủ cách sống là làm chủ
tư duy, sao cho tâm và ý phấn đấu trùng nhau, trên nguyên tắc
chọn A1 làm gốc,
ý (ý chí, ý muốn) làm công cụ định hướng chỉnh sửa tâm, và A2
là đối tượng cần được thuần hóa theo
A1 .
Nhiệm vụ của “chỉnh sửa” là
dùng ý chí định hướng xây dựng
thói quen mới cho tâm , sao cho A1 phát triển có lợi nhất. Tất yếu để thành
công, ý chí phải thường xuyên chú ý
theo dõi những gợi ý từ tâm gốc A1 (cảm nhận lương tâm) để
đảm bảo quá trình hình thành nhân cách không sai mục tiêu.
Ví dụ:
Mọi trẻ nhỏ
khi mới chào đời đều có tâm thế tốt nhất, tâm và ý trùng nhau.
Song đến khôn lớn do tác động môi trường, nội dụng của ý (B) dần tách khỏi
nội dung của tâm A0 để bắt đầu đi vào sai trái, nhằm thỏa
lòng chạy các “hấp dẫn vật chất ĐƠN THUầN”.
Tức là trẻ đang
hình thành tâm A2, và tập quên dần tâm A0
tức A1 (A1 do A0 tạo ra để ứng phó đối xứng với A2)
một cách vô thức.
Vậy chỉnh
sửa tâm tức là dùng ý chí để điều chỉnh lại thói quen sống từ tâm A2
quay về với tâm A1 hay A0 (tâm
bản năng), cho đúng với nguyên lý sinh tồn tự nhiên (qui luật tự nhiên).
Sự lệch tâm
trên xảy ra ngoài khả năng chủ động của mọi trẻ, và mang theo nó đến suốt đời
nếu không đặt mục đích chỉnh sữa.
Sự sai lệch
trên càng in sâu hơn khi con người càng cố dùng ý chí để ức chế các lực phản khán từ A1, có
thể do đòi hỏi từ môi trường. Đối với trẻ là do người lớn tác động đòi hỏi sai
tự nhiên.
Lẽ đương
nhiên mọi trẻ nhỏ đều không đủ khả năng phân biệt mọi lẽ đúng sai ở đời khi bị
tác động (giáo dục sai), nên phải chấp nhận mà không ý thức phản khán tự vệ. –
Hơn nữa người lớn và môi trường xã hội cũng không ý thức nốt huống gì trẻ.
Hậu quả là trẻ
đã trở thành nạn nhân oan nghiệt của sự sống nói chung.
Theo thời
gian sự sai lầm của trẻ càng nặng hơn, đến một ngày … thành tội phạm và trả giá.
Cơ chế đạo
tạo người như trên đang được áp dụng trên khắp thế giới loài người, không có
ngoại lệ.
Loài người
là một tập hợp từ các thế hệ trẻ tiến lên, sau quá trình đã bị sự sống sai phạm
hóa trong nhân cách một cách ngẫu nhiên. Cứ thế thế hệ này đến thế hệ khác.
Người sai
ít người sai nhiều, người chủ quan ít người chủ quan nhiều, tùy theo ý thức đề
kháng của A1 nhiều hay ít, do tự thân cá nhân hay từ môi
trường giáo dục của xã hội.
Để cuối
cùng tất cả cộng lại thành một tổng thể mang tính “sai trái tổng hợp”, khi vấn
đề chưa được minh chứng đúng trọng tâm và xác thực.
Trong môi
trường sai lầm ấy tất yếu niềm tin giữa con người với nhau không có. Đây là lý
do “kẻ mạnh – bạo lực” xuất hiện, thay gì “kẻ mạnh – chân lý” phải thế chỗ.
Môi trường
sai tất yếu phải thiếu lý đúng dẫn đường, nên buộc ‘PHẢI CÓ QUYềN LỰC CHỦ QUAN
ÁP ĐẶT’ thì các mâu thuẩn mới tìm thấy lối ra.
Hệ quả của quyền
lực (chủ quan) đã làm nhân
cách con người một lần nữa thêm biến dạng, hiện tượng ‘không thật’ càng gia
tăng để đối phó nhau dưới nhiều hình thức, đồng thời ‘cái ác’ cũng xuất hiện
nhiều lên.
Ai mạnh, ai khôn, ai may mắn, … được dành vị
trí cao trong xã hội. Ai yếu, ai dại, ai kém may mắn, … bị xếp xuống thấp. Lâu
dần sự sống sinh vô cảm vì không biết cách nào làm thay đổi sự chệch lệch lớn
về mức sống.
Đồng thời
sự tranh giành quyền lực, quyền lợi (vị trí cao) càng góp phần phân hóa
con người thành đối thủ của nhau, và lôi kéo cả xã hội và mọi người dấn xâu vào
không chỉ vô cảm, mà tiến lên hận thù nhau cố gắng triệt tiêu nhau (không
thương tiếc).
Mọi người lớn khi vào đời đều nhận lấy những
trọng trách trước xã hội. Sau nhiều năm tháng thử thách, ít nhiều họ nhận thấy ra
sự sống (cá nhân, xã hội) còn nhiều điều chưa ổn, cần được chỉnh sửa.
Sai lầm mỗi
nơi một chút, từng vấn đề đơn lẽ, con người dễ bỏ qua và chấp nhận nó để sự
sống bình thường tiến lên. Nhưng nhiều nguyên nhỏ cộng hưởng lại tạo thành hậu
quả lớn ở nơi này nơi khác, người này người khác, trường hợp này trường hợp
khác, lúc này lúc khác, vấn đề này vấn đề khác, v.v… khi ấy mới thấy hết cái khó cái khổ mà người
trong hoàn cảnh không bao giờ chấp nhận nó.
Nếu cái bế
tắc kia tiếp tục kéo dài ra nữa, thì hậu quả đến sẽ không còn dành cho riêng
ai, tất cả cuối cùng sẽ là nạn nhân (ví dụ: chiến tranh thế giới).
Do vậy sự
bình yên đang dành cho vô số ai đó hôm nay, nếu kịp nhìn ra sẽ thấy cần phải có
trách nhiệm vụ tích cực toan tính cho cái ngày mai tương lai, cho bao nhiều vấn
đề tiêu cực xung quanh đang rình rập. Có làm tốt chúng, tương lai sự sống mới
an toàn, hoặc tốt hơn nữa.
Lịch sử
loài người tuy có thăng có trầm, song nó cũng kịp chỉ dấu cho con người thấy đâu
là lối thoát muốn tìm. Trước hết là tính lạc quan ở con người. Nó là kim chỉ
nam đưa con người tìm đến đích.
Người trước,
người sau kế thừa nhau tiến đến lời giải.
Sự lạc quan
từ đâu có, chính là từ tâm A1. Nó luôn tồn tại với sự
sống, cho dù lúc này lúc khác con người muốn quên nó, chống lại nó, tiêu diệt
nó. Có thể ở người này người kia tư duy ý thức xem như đã đứt đường liên lạc đến
tâm A1, nhưng trên phạm vi toàn xã hội thì không bao
giờ.
Con đường tương lai sẽ thông
thoáng hơn, nếu môi trường xã hội, những người lớn, tạo điều kiện con đường đến
tâm A1 của trẻ được bảo đảm thông suốt trọn đời.
Muốn như thế môi trường xã hội
cùng với kiến trúc thượng từng phải hợp lý.
Nó đồng nghĩa với quyền tự do
thông tin, tự do ngôn luận của mọi người trong xã hội phải được tôn trọng. Có
như thế những khuyết tất và hướng khắc mới có cơ hội gặp nhau trong hiệu quả
tối ưu, bởi có sự hợp lực toàn diện.
Khi tâm A1
được tạo điều kiện tăng trưởng không ngừng, sẽ góp phần đầy lùi dần các hiện
tượng tiêu cực xã hội tiến đến mức sống hạnh phúc bình ổn lâu dài.
Con đường phát huy tâm A1,
đơn giản là tránh sai làm đúng, tránh ác làm thiện,
tránh chủ quan để chọn khách quan, tránh vô cảm bằng sống có
lương tâm, v.v… . Nếu tiến hành như thế từ mỗi cá nhân lâu dần tâm A2
sẽ nhập vào tâm A1 , là thành công.
Trong ví dụ trên, mọi trẻ sinh ra lớn lên đều
mắc sai lầm ngẫu nhiên. Do vậy mọi con người cho đến lúc trưởng thành, theo
nguyên tắc, đều cần thiết phải trải qua giai đoạn hoàn thiện hóa nhân cách, hay
khắc phục những bội nhiễm do khách quan môi trường.
Vậy là một
thế hệ “CON NGƯỜI MỚI” bắt đầu hình thành. Kéo theo nó là một xã hội mới, một
tương lai, một sức sống mới, một thế giới mới, một thời đại mới ra đời.
Đối với môi
trường sư phạm, ngoài việc đào tạo kiến thức về khoa học tự nhiên, thì nay phải
gánh thêm nhiệm vụ chăm lo hoàn thiện nhân cách cho trẻ, bằng cách tái cấu trúc lại tâm cho hợp với tự nhiên.
Đối với
người lớn và xã hội, quan điểm sống cũ ít nhiều đã ăn sâu, nay vì lợi ích chung
và vì hạnh phúc tương lai thế hệ trẻ, phải ra sức làm tốt nhất những gì có thể
để làm gương dẫn đường.
Trẻ lúc nhỏ
nếu được giáo dục đúng đắn bao nhiêu, thì tương lai sống bình an hạnh phúc càng
được mở rộng.
Người lớn
ngày nay tuy đã trễ, nhưng nếu giác ngộ nhận thức, thì vẫn kịp để có những thay
đổi có ít cho sự sống còn lại.
Trong sự sống tất yếu phải có
đúng có sai, nhưng sai vô lý hay đúng giả đều cần sớm được dọn dẹp. Vì thế xã
hội cần sớm có một trung tâm lý giải hay chỉ dẫn kịp thời, thế nào là hợp lý
nhất cho tất cả mọi vấn đề trong xã hội.
Nếu không mọi việc sẽ tiếp tục
mâu thuẩn, rồi mù, không tìm thấy câu trả lời đúng đắn.
Biết rằng
trong sự sống nếu chỉ dùng lý trí không chưa đủ, mà cần phải kết hợp lý của tâm
A1 nữa thì mới đạt.
Song tiếc
rằng đến nay khái niệm “tâm A1” vẫn chưa được khoa học
công nhận, nên trước mắt còn nhiều việc phía trước phải làm.
Thế nào là
sống có lương tâm.
Dựa vào
kinh nghiệm thực tiễn, khoa học cần nghiên cứu để đúc kết thành công thức,
thành nguyên lý để mọi người cùng hiểu.
Trong dân gian cùng với các
tôn giáo, bằng cách này cách khác khái niêm “tâm” đã được khai thức sử dụng
hiệu quả từ lâu. Nhờ vậy mà con người và xã hội đã có những mặt tích cực như
ngày nay.
Có ‘tâm’ (A1) con
người mới tìm thấy và hiểu ra lẽ phải là gì, nó như thế nào.
Vậy đâu là con đường chuẩn hóa
nó các kinh nghiệm dân gian kia ? để mọi người ai ai cũng dễ hiểu, dễ biết, dễ
dùng, dễ vận dụng.
Khi ấy con người sẽ biết tự vệ
tốt cho bản thân cũng như có khả năng bảo vệ người khác. Từ xã hội đến quốc gia
và thế giới, nếu ai cũng như thế thì mâu thuẩn hận thù ganh ghét sẽ không còn.
Đấy phải chăng là điều cơ bản
thiết yếu nhất của sự sống. Nó quý hơn mọi giá trị vật chất của cải phú quý giàu
sang nhưng phải sống trong bất an vô định.
Điều mơ ước lạc quan trên, giờ
đây tất cả trông mong vào bệ phóng ‘Khoa học’ để hi vọng tìm thấy bệ phóng cho
kết quả tốt nhất có thể.
2 - CHỈNH TÂM
Thế nào là kết cấu và nguyên
lý vận hành của tâm, đến đây chúng ta
xem như đã có câu trả lời.
Chúng ta nhận thấy về lý
thuyết, kết cấu và sự vận hành của tâm
khá đơn giản. Tuy nhiên để hiểu tâm trong
thực tế, lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Nó phải đối diện với nhiều thử thách
lớn lao vô cùng.
Biết rằng sự sống mỗi người là
một cơ chế vận hành tâm riêng, cho
kết quả nhận thức và cảm xúc riêng, v.v… . Cuối cùng không dễ để con người hiểu
nhau và cảm thông nhau, mà cụ thể là vấn đề ‘tâm’ chúng ta đang bàn.
Đây là nút thắt của vấn đề sự
sống.
Giải bài toán sự sống chính là
đi tìm lời giải căn nguyên của những mâu thuẩn triền miền trong thế giới con
người.
Nó là một thách thức mà loài
người đã ra sức giải đáp trong suốt chiều dài lịch sử đến nay.
Vấn đề có thể bắt đầu từ nhận
thức.
Qua nghiên cứu biết rằng ‘bản
chất sinh tồn cơ bản’ của con người là giống nhau, vì mục đích chính của mỗi đời
người đều giống nhau, là sống để ‘HẠNH PHÚC’ (sung sướng).
Nhưng do nhận thức còn giới
hạn, nên cuối cùng con người sinh mâu thuẩn với nhau, DO HIỂU LẦM VỀ HAI CHỮ ‘HẠNH
PHÚC’, DẪN ĐẾN KHÁC NHAU VỀ MỤC ĐÍCH SỐNG.
Nhìn chung con người định
nghĩa hạnh hạnh phúc là “hưởng thụ vật chất”.
Thế nhưng, con người không
biết rằng sự sống là do TÂM quyết
định. Tâm có sung sướng hạnh phúc thì mọi nhu cầu còn lại mới thỏa sung sướng
hạnh phúc đúng nghĩa.
Vì vậy vấn đề là phải chứng
minh được tâm, thì các mâu thuẩn sự sống mới tìm lại sự hợp lý của nó.
Tâm trước hết là một khái niệm trừu tượng, nên khả năng nghiên
cứu làm chủ được nó là rất thấp. Đại khái như muốn hiểu tâm thì phải giữ
nó ổn định tương đối, hai là môi trường xung quanh phải thuận lợi, ba là phải
có ý chí, khả năng, sự may mắn, v.v…
Người đầu tiên khai phá tâm
ắt phải đạt đủ các điều kiện nêu trên, thì mới có nhiều hi vọng.
Song cuối cùng theo cách này
hay cách khác, kết quả nghiên cứu ‘tâm’ tạm gọi đã thành công. Phần còn lại sẽ
do mọi người kết luận.
Trước mắt chúng ta ghi nhận thành
quả trên để theo dõi xem nó sẽ cho ta đáp án thế nào.
Khi vấn đề nhận thức về ‘tâm’
đã xác định, việc còn lại là tìm phương thức chỉnh sửa tâm, nếu cho rằng nó
chưa ổn như yêu cầu.
Để chỉnh sửa tâm, trước tiên
chúng ta cần nhận thức vấn đề sau.
- Khi ý (ý chí) thay
đổi thì cảm (cảm giác) thay đổi, suy ra tâm thay đổi. Và ngược
lại cũng đúng.
Muốn ý đổi trước hết ta
phải hiểu tâm, để hướng ý đổi không bị sai mục tiêu (A1).
Trong tâm
có ý, có nội dung tư duy, v.v… tất cả đều tồn tại dưới dạng
tiềm thức (vô thức), và mang tính cảm (cảm giác, khi thể hiện ra ngoài).
Sửa ý tại tâm ý thức (B) không khó, nhưng sửa cảm thì rất khó, vì
nó trong tiềm thức.
Cảm cũng là đại
diện cho bản chất nhân cách của mỗi cá nhân, nên nó liên quan đến
toàn bộ sự sống một con người.
Vì thế sửa cảm
rất khó, vì đồng nghĩa sửa bản chất của một con người.
“Cha mẹ
sinh con, trời sinh tính”, “giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời” là những kinh
nghiệm về tính khó dời của cảm.
Tuy nhiên
nếu có bước đi thích hợp, điều kiện thích hợp, thì kết quả vẫn có thể đạt ở mức
có thể chấp nhận được. Đủ để cá nhân sống đời hạnh phúc tốt đẹp.
Biết rằng ý
thức nào thì cảm giác đó, nếu xét tại (B) – nếu tại (A) sẽ tương ứng
với ý tương ứng với cảm. Giữa hai tồn tại này có sự chênh
lệch lớn trong tốc độ thay đổi. Đối với ý
thức (ý) thì rất nhanh, ngược lại với cảm
giác (cảm) thì rất chậm.
Muốn chỉnh
sửa tâm, thì cả hai tồn tại trên phải thay đổi đồng bộ mới đạt giá trị hay kết
quả thực tế.
Ví dụ: nó
giống như, chỉ học thuộc như vẹt là chưa đủ (ý thức), mà phải biến thành hiểu và thực hành thành thạo (cảm giác),
thì mới đạt yếu cầu.
Vì thế nếu
sửa ý mà không sửa cảm, thì ý kia chỉ mới sửa trên giấy
trên miệng, còn thực chất bên trong tâm vẫn chưa thay đổi. Chỉ cảm cũng
thay đổi thành công, thì ý mới thật sự có giá trị, vì đã bám rễ vào cảm,
Cảm đổi thì tâm đổi. Khi tâm đổi nhân cách
thay đổi.
Quá trình
đấu tranh thay đổi tâm có thể được tóm tắt như sau:
a) - Sửa cảm giác (cảm).
Đặc điểm
của cảm là cần có thời gian để thay đổi, không thể nóng vội. Vì vậy khi
giáo dục trẻ người lớn cần từ tốn chờ cho tâm đủ thời gian tiếp nhận cái mới,
hấp tấp sẽ thất bại.
Ý và cảm luôn đi đôi với nhau.
Khi cảm
đã đổi thì ý sẽ đổi rất dễ. Nhưng chiều ngược lại sẽ khó hơn nhiều, vì
chậm. Ý và cảm là cặp biện chứng cơ bản tạo nên nhân cách con người.
Giữa cảm
và ý nhất thời có sự độc lập tương đối với nhau, khi cá nhân muốn.
Do đó giữa chúng thỉnh thoảng có đối lập nhau.
Ví dụ: khi tình cớ ý chí cá nhân muốn chuyển hướng theo tác động hoàn cảnh. Nhưng cảm giác (hay cái tình), chưa theo kịp
nên nảy sinh mâu thuận nội tâm.
Nhất thời nếu
quyết tâm ý thức có thể chuyển hướng
thành công, nhưng về lâu dài cảm giác,
nếu không tích cực giúp thay đổi theo, thì nó trở thành nguyên nhân “cắn xé”
lương tâm.
Sửa cảm, thực chất là sửa cả hệ vận động cơ thể, từ nhịp đập
trái tim đến hơi thở đến các cơ bắp toàn thân, đến các cơ nơ-rôn thần kinh,
v.v… . Vì trong một cơ thể thống nhất, tâm là trung tâm điều tiết tất cả. Vai trò của ý chí chỉ
là nhất thời.
Ví dụ:
- Khi cơ thể bị tổn thương một
chỗ, tức thì tâm cũng bị ảnh hưởng. Ngược
lai khi tâm bị tổn thương, toàn thân bị suy yếu.
Trong các vận động của
não như, cảm, ý, tư duy, lệnh hành động, v.v… , thì cảm là sát với tâm
nhất, trung thực nhất.
Nếu tâm bị tác động
mạnh, toàn thân sẽ mất sức,
ý chí suy kiệt, tim đập nhanh, hơi thở dồn, sức khỏe kém, v.v… . Khi tâm
lạc quan trở lại, toàn cơ thể khỏe lại.
Mỗi lần chỉnh sửa cảm là mỗi lần động
đến tâm, tức động đến tổng thể sức sống của cá nhân. Vấn đề thành quan
trọng. Vì thế khi rèn tâm cần chú ý đến lượng thời gian đủ rộng để cơ thể và tâm kịp thích nghi.
Thông
thường từ tiêu cực (xấu) tiến lên tích cực (tốt), đòi hỏi nhiều
công sức và thời gian, còn chiều ngược lại không khó để làm sai. Song khi tâm A1
đã vững mạnh thì điều ngược lại cũng không dễ làm.
Hành
động là thành quả vận động của toàn
cơ thể đến não. Nó là tập hợp của rất nhiều thói quen liên kết lại,
mà mỗi thói quen là một tiểu sử hình thành công phu.
Các
thói quen lâu dần đã biến thành các phản xạ tự nhiên (vừa có điều kiện
vừa không điều kiện) nhằm tạo thế ổn định sinh tồn cho cá nhân. Nó vừa thích
nghi cho hướng nội, vừa thích nghi cho hướng ngoại (quan hệ xã hội). Thế
vững chắc ấy không dễ cho phép một ý chí nhất thời nào làm thay đổi nó.
Trừ
phi bị áp đặt ví dụ bởi bạo lực, nhưng bù lại chỉ là kết quả giả tạo nên sẽ
không bền.
Bình
thường nhiều người chủ quan cho rằng, có thể làm thay đổi nhân cách bản thân
trong thời gian ngắn nếu muốn. Thực tế không thể làm được điều này. Vì bản chất
của mỗi nhân cách là rất bền vững, không cách gì thay đổi trong sớm chiều.
Tuy
nhiên một cá nhân do hoàn cảnh có thể có đa nhân cách. Nhưng trong ấy luôn có
một nhân cách chính, nó chắc chắn bềnh vững không dễ thay đổi.
Mỗi
cách sống là một tập hợp của rất nhiều các thói quen, đa dạng chức năng và hình
thức trong ứng phó sinh tồn. Nhưng chung qui tất cả nằm trong hai nhóm thói
quen cơ bản, vô thức và ý thức.
Để
thay đổi một thói quen đã khó, thay đổi một tổng thể các thói quen càng khó
hơn. Muốn thay đổi một cách sống hoàn toàn mới, rõ ràng phải tốn công sức và
thời gian rất nhiều, nếu tuổi đời càng lớn.
Thế
những khi cuộc sống đòi hỏi, mỗi người sẽ tùy khả năng và hoàn cảnh sẽ biết
cách thay đổi cho phù hợp.
Trong các thói quen, có một
thói quen rất hay dùng đến, tên nó là “tâm trạng”.
Đây thực chất cũng là một mục
đích phần đấu trọng tâm của đời người, hay nó thực chất là mục tiêu chính trong
rèn luyện tâm (đổi mới cách sống).
Thay đổi cách sống cũng là
nhằm thay đổi tâm trạng sống thường
ngày, từ bất an không vui chuyển thành bình an dễ chịu hạnh phúc.
Con người sống hưởng thụ,
nhưng quên rằng tâm trạng mới là đối tượng hưởng thụ gần gũi và thiết
thực nhất. Nó chiếm phần lớn thời gian của đời người.
Nếu con người làm chủ được tâm
trạng, đồng nghĩa với làm chủ được bản thân, làm chủ được sự sống.
Một tâm trạng tốt sẽ tạo nên
một cá nhân tốt, một cách sống hạnh phúc, hay ngược lại.
Tâm trạng bình yên khi nội tâm bình yên. Nội tâm sẽ bình yên
khi phương trình cơ bản (ptcb 1) được thỏa. Tức A2 thuần với A1.
Đời người được như thế là đạt mục đích, là hoàn thành ý nghĩa sống đời người.
Khi tuổi con người càng lớn,
vai trò tâm trạng càng mang ý nghĩa quyết định. Vì thời gian rỗi rãi sẽ
dài và nhiều. Muốn có tâm trạng vững chắc phải có thời gian dài đầu tư
(lúc trẻ), trước khi quá trễ (lúc già).
Tâm trạng không có chuẩn mực cụ thể để so sánh, vì nó thuộc cảm
nhận riêng tư. Về hình thức tâm trạng có thể được đóng kịch do yêu cầu,
do hoàn cảnh, v.v… , nhưng chỉ nhất thời vì không ai sống bằng dối lòng mãi được.
Có nhiều trường hợp con người
có thể ngộ nhận về tâm trạng của
mình, có thể do thiếu hiểu biết, thiếu khả năng tự lý giải, hay do thói quen
sống ảo tưởng, v.v… . Tức là giữa tâm trạng và lời lẽ diễn đạt (hay một số biểu
hiện về phong cách, hành động, v.v…) không thống nhất nhau. Đây là một biểu
hiện bất thường về tầm sinh lý, nên không dễ để nhận thức. - Song tất cả đều có thể rèn luyện trở lại bình
thường, nếu có hướng dẫn phù hợp.
Đặc điểm của tâm trạng
là dù thế nào cũng được phản ánh qua hành động, cảm xúc, lời nói, cử chỉ, phong
cách, việc làm, v.v… hoặc cá nhân dùng thời gian lắng đọng để cảm nhận nó. Dựa
trên các yếu tố này cá nhân điều chỉnh tâm trạng (hoặc nhờ người hướng dẫn).
Trên đây chúng ta đã giới
thiệu một số vấn đề về chỉnh tâm. Nó có thể không khó để hiểu nhưng rất khó
trong thực hành.
Nhưng vẫn có nhiều người đã thực
hành thành công, tâm trạng thư giãn chủ động, theo một cách riêng nào đó.
Nay nếu có thêm phương pháp chứng
minh lý giải hợp lý, thì tin rằng kỹ năng sống bình an như trên có thể nhơn
rộng đến mọi người không khó.
Ví dụ: mỗi ngày mỗi người bỏ
ra một ít thời gian để tự quan sát tâm trạng (những lúc rãnh), đồng thời học
hỏi tham khảo mọi người cách lý giải v.v…, tiếp theo là ta cố gắng chỉnh sửa nó.
Lúc đầu những khuyết tật nhỏ, sau khắc phục những khuyết lớn và nhiều dần.
Các khuyết tất sẽ do một trung
tâm chỉ dẫn phụ trách, nhận giải đáp mọi vấn đề sự sống, để mọi người biết
chỉnh sửa không sai.
Nhiều cái khuyết được khắc
phục sẽ cho kết quả to dần, cuối cùng trở thành một nhân cách hoàn thiện.
b) - Sửa ý thức hay ý chí (ý).
Trong thực
tế phải sửa ý trước thì cảm mới chuyển theo. Suy ra giới thiệu ý
trước là hợp lý hơn. Tuy nhiên vì nội dung sửa ý tuy dễ về thời gian, nhưng nó nhiều và phức tạp nên sẽ trình bày
sau.
Sửa ý
phức tạp về nội dung, nhưng sẽ dễ sửa khi đã hiểu. Phần còn lại là học
thuộc nhập tâm và thực hành nhiều lần cho quen.
Học nhập
tâm là học để hiểu và thực hành được. Tức là thông về lý và ngấm về tình (cảm giác).
Nó gọi là
thành công, khi kiếm ra thấy từ suy nghĩ, lời nói, hành động được vận dụng
thành thạo và đạt hiệu quả trong cuộc sống.
Như thế gọi
là học thật. Nó khác với học vẹt, học để đối phó, học để che mắt, học
cho có, học để ăn lương, học nhưng không có mục đích vận dụng để sống thành
công, v.v…
Như đã trình bày, sửa ý
phải gắn với sửa cảm , thì mới hiệu quả, tâm và cách sống mới thật sự
thay đổi.
Sửa ý
lúc đầu ta thấy đơn giản, nhưng về sau sẽ khó dần, vì quan điểm sống của con người
càng đi sâu vào, mới té ra nhiều phức tạp khó vượt qua về lý và cả về tình (cảm).
- Sửa ý
là sửa ý nghĩa của mỗi công việc đang làm, mỗi mục đích ta đang phấn
đấu. Lý giải xem ý nghĩa thật của nó là gì, đem lợi cho ai, tại sao,
v.v… .
Tùy theo kết
quả của các giải đáp trên sẽ cho ta biết hành động, công việc đang
làm, đúng hay sai. Từ đây sẽ suy ra được cái tâm hay con người của ta là ai, đang
ở đâu trong thế giới thiện và ác.
Trong giao
tiếp người ta có thể nhận xét đánh giá một phần về đối tượng mình đang giao
tiếp, thông qua các biểu hiện bên ngoài của họ.
Ví dụ:
Nhìn người
bán hàng có thể đoán người ấy trọng nhân nghĩa hơn hay trọng đồng tiền hơn. Nếu
trọng nhân nghĩa tức tâm A1 của người bán phát triển
tốt, ngược lại là nặng sống theo tâm A2.
- Sửa ý còn
là sửa cách hiểu, cách lý giải
trước một vấn đề. Sửa sao cho mỗi hành động, mỗi tư duy đều phù hợp theo nguyên
tắc của tâm A1 .
Trong cuộc
sống thường người ta đi làm kiếm tiền, để vì lợi ích bản thân và gia đình. Tuy
nó chưa phải đúng hoàn toàn, song có thể tạm chấp nhận được, với điều kiện tình
hình xã hội nhìn chung đang phát triển bình thường ổn định. Nhưng nếu xã hội
đang bất ổn, thì quan điểm sống vo tròn như trên là bất hợp lý, là sai trái,
cục bộ, ích kỹ, v.v...
Vì thế khi
khả năng và điều kiện cho phép, con người cần nâng cao ý nghĩa hành động của
mình lên, để phòng khi có những biến đổi trong cuộc sống ta mới kịp thời thích
nghi. Quan điểm nhận thức càng rộng thì sự sống con người càng dễ chủ động và
thành công hơn.
Chúng ta
biết rằng ngày nay thế giới đã trở nên phẳng. Do vậy sửa ý không chỉ sửa
cách hiểu, cách hành xử trong phạm vi hẹp, mà còn tính đến ý nghĩa toàn cầu nếu
muốn đạt giá trị lâu bền.
Quá khứ và
hiện tại, khả năng và thực tế, cá nhân và xã hội, địa phương và thế giới, tư
duy và hành đồng, v.v… là những mặt cần
được cân phân hợp lý trong quá trình lý giải một vấn đề.
Khi các lý
giải đã hợp lý xuyên suốt, thì ta liên kết chúng lại thành một hệ luận thống
nhất. Nếu may mắn và có chủ đích cho nó đạt tính khoa học, thì khả năng đạt đến
hay tìm thấy chân lý cuối cùng sẽ rất cao.
Tức là bằng
con đường này nhiều khả năng sẽ tìm ra một lý thuyết về sự sống, trên cơ sở
chân lý tìm thấy.
Nếu lý
thuyết trên thỏa nguyên tắc sắp xếp của tâm A1, đồng thời
minh chứng được bằng phương thức nào xã hội loài người có thể tiến lên sống hòa
bình hạnh phúc vĩnh cữu mà không dùng đến quyền lực chủ quan, thì khả năng
thành công trong hiện thức sẽ rất cao.
Để thành
công hoàn toàn, nó phải đủ khả năng để mọi người rộng đường phê phán và trở thành
đồng tác giả từ biên soạn cho đến thực hành trong thực tiễn.
Nếu tiếp
tục thành công, thì đồng nghĩa với một học thuyết khoa học về sự sống sẽ ra
đời.
Như trên đã
giới thiệu, tâm A1 là nơi có khả năng cao nhất để con
người tìm ra hệ lý giải trên.
Một học
thuyết toàn diện có thể bắt đầu từ những lý giải đơn giản nhỏ lẽ song rất hợp
lý. Sau, các lý giải nhiều dần, và cần được tập hợp lại thành các mảng, các
nhóm chủ đề, đến các phạm trù, của các mặt đời sống con người và xã hội.
Tiếp tục
nữa chúng được tập hợp thành những phạm trù bao trùm hơn, để cuối cùng thu tóm về
còn một đầu mối phạm trù duy nhất trong nhận thức, là chân lý.
Thế là về
lý học thuyết sự sống đã được thông.
Thành quả
trên phải chăng chỉ có thể tìm thấy bằng con đường khoa học hóa. Bắt đầu từ kho
tàng kiến thức dân gian, sau kết hợp với kinh nghiệm kiến thức khoa học chính
thống, để cuối cùng đạt kết quả như mong đợi.
Như thế phạm
trù sự sống phải chăng từ nay đã có chìa khóa ánh sáng, tạo đà cho sự
nghiệp tiến hóa của loài người được thuận lợi.
Từ những lý
giải phát họa cơ bản trên, chúng ta hãy phân tích vấn đề cụ thế hơn.
Ý là gì, là tất cả những gì loài người có thể nhận
thức, hay ý thức từ sự sống.
Loài người đang sở hữu bao
nhiêu lý thì trong ý phải có bấy nhiêu nội dung, nếu như muốn lý
giải sự sống đến nơi đến chốn. Từ các lý giải ta mới tổng hợp lại thành một hệ
lý thống nhất, sau cho có lôgíc, mạch
lạc và khoa học – bao gồm vận dụng một phần phương pháp luận của học thuyết
Mác-Lê.
Mỗi con người là một thế giới
tư duy độc lập, nên cảm nhận sự sống của họ luôn khác nhau.
Tuy nhiên dựa trên các minh
chứng cho thấy, tạo hóa tự nhiên ban cho loài người chỉ một CHÂN LÝ SỐNG
duy nhất.
Ứng với chân lý ấy là cái qui
luật tự nhiên dành riêng cho loài người. Nếu thực tế còn một qui luật tự nhiên
thứ hai, thì bản chất con người đã có khuynh hướng nghịch nhau, tức đã triệt
tiêu nhau từ lâu chứ không còn tồn tại đến nay.
Suy ra bản chất loài người thế
gian, được tạo ra để sống hạnh phúc chứ không để mâu thuẩn đối đầu nhau.
Chính vì thế, chúng ta tin rằng
cho dù lịch sử đã xảy ra nhiều biến cố thăng trầm, nhưng do bản chất cơ bản
giống nhau nên loài người cuối cùng cũng sẽ tìm thấy tiếng nói chung, vì một cuộc
sống hòa bình và hạnh phúc bền vững.
Con người có thể khác nhau về
sở thích trước mắt, nhưng luôn giống nhau về mục đích sống lâu dài.
Vì giống nhau trên một hướng
đi, nên con người thật ra không khó để hiểu nhau. Đây là cơ sở để định hướng
các lý giải đi đến đích cuối cùng thành công.
Song con đường độc đạo ấy cụ
thể bao gồm những gì.
Để xác định nó chúng ta có thể
dùng cách, tạo sự liên thông giữa
tâm và lý trên mọi mặt mọi vấn đề của sự sống con người và xã hội.
Ví như,
bản chất của ý thức là tồn tại và phát triển,
đã phát
triển thì không diệt vong,
muốn không diệt vong thì phải
có điểm hội tụ cho lý trí,
tâm A1 chính là điểm hội tụ nguyên thủy,
cũng là tâm điểm sản sinh ra chân lý sự sống.
Trong cuộc sống, lẽ phải và
chân lý không phải là thứ có thể mua bằng tiền, hay bằng sự cầu xin và ban cho,
mà phải trả giá bằng công sức học tập rèn luyện, cộng với sự trải nghiệm thực
tế sống của cá nhân, cùng với một nền tảng định hướng phát triển ý thức đúng
đắn.
Nhưng con đường trải nghiệm
sống của mỗi người khác nhau, nên quan điểm sống ít nhiều cũng khác. Suy ra cách
sống hay trình độ sống khác,
dẫn đến năng lực trí tuệ khác, để cuối cùng nhận thức và kết luận chân lý sống
có thể khác.
Vì thế nếu tại đây trình bày
về một con đừơng độc đạo tiến đến chân lý sống, e rằng do “mười người mười một
ý” sẽ bác bỏ ngay nó ngay.
Vậy để giải thích vấn đề,
chúng ta nói rằng sự sống có nhiều cấp chân lý, nhưng chung qui đều giống nhau
về bản chất. Bản chất ấy được minh chứng ở tâm trạng hoàn thiện của những người
đã làm chủ thành công sự sống (tương đối hay tuyệt đối) của họ.
Một tâm trạng hoàn thiện là nó
bình yên an vui. Điều này được minh chứng thông qua các biểu hiện hình thức đa
dạng bên ngoài, từ giao tiếp, phong cách, hành động, lời ăn, tiếng nói, chữ
viết (nội dung), công việc, quan hệ, v.v…
Tùy theo kết quả kia đạt trong
phạm vi rộng hay hẹp, mà khả năng cảm nhận chân lý của cá nhân ấy đạt ở cấp độ
nào, cao hay thấp, hẹp hay rộng toàn diện.
Ta gọi những người đã đạt mức
sống tâm trạng thành công như trên, là những người đã đạt LÝ ĐÚNG trong nhận
thức, đã thông từ ý thức đến tâm như phương trình cơ bản (ptcb 1) đã nêu.
Suy ra họ là những người có khả
năng lý giải sự sống một cách khách quan và hiệu quả, nhưng thường chỉ
trong phạm vi họ quan tâm hay quen sống thành thạo với nó, chủ động với nó (ví dụ, nghề nghiệp, các mối quan hệ, phạm vi
công việc thường ngày, v.v…).
Như thế là xã hội đã tìm ra không
ít ‘người sống khách quan’, phù hợp
với con đường phát triển của chân lý sống hay qui luật tự nhiên. Cho dù thực tế
họ có thể chưa ý thức hết về những giá trị mình đã đạt, nếu xét ở góc độ học
thuyết mới này.
Người khách quan là người
sống, làm việc, quan hệ đều dựa trên những lý giải hợp tình hợp lý, nhằm
đem lại sự sống công bằng hợp lý hạnh phúc giữa cá nhân và cộng đồng, trên các
mặt quyền lợi vật chất và tinh thần nói chung.
Như trên chúng ta đã được thấy,
làm cách nào để kiểm chứng về một lý đúng trong sự sống, có nguồn gốc phát
triển tại tâm A1.
Ngoài phương cách trên, còn có
công cụ kiểm tra khác, là thông qua sự Ý
THỨC CHỦ ĐỘNG NHỊP THỞ trong suốt thời gian sinh tồn. Đây cũng là một nhân chứng khách quan về sự thống nhất giữa tâm
và ý. Nếu tâm và ý thật sự hợp nhất, thì nhịp thở sẽ hòa
nhịp ổn định, cùng ý thức và cảm giác sống trong mọi không thời gian kéo dài không giới hạn (đời
người).
Trong trường hợp cuối này, là
một minh chứng cho lý đúng có thể được mở rộng trên phạm vi toàn diện sự sống
con người và xã hội. Để từ đây lý đúng tìm ra cớ sở chân lý, nhằm giúp suy ra
học thuyết sự sống một cách hoàn chỉnh.
Đây cũng là con đường độc tiếp
cận chân lý sống, mà có lẽ khó tìm ra một con đường khác hợp lý và đúng đắn hơn.
Theo cách này, sự chỉnh tâm đã
cho thấy (ptcb 1) có thể được thỏa, ở nhiều cấp độ khác nhau. Có cấp từng phần,
có cấp toàn diện.
Cấp toàn diện cho lý đúng toàn
diện, cơ sở để hình thành học thuyết sự sống. - Trong các tác phẩm sau nó được
đặt tên là HỌC THUYẾT NHÂN TÂM.
3 - LÝ ĐÚNG
Nhiệm vụ
muôn thuở của loài người là đi tìm lý đúng để phát triển sự sống đạt kết quả tối
ưu.
Nếu đúng là
“Tự nhiên” muốn loài người trường tồn và hạnh phúc, thì khả năng tìm ra lý đúng toàn diện chỉ là vấn đề thời
gian.
Đến nay kiến
thức loài người đã có nhiều phương pháp luận có thể chỉ ra lý đúng hiệu quả. Trong số ấy có phương pháp luận Duy Vật Biện
Chứng của triết học Mác-Lê. Tuy nhiên trong này cần chú ý về quan điểm duy
vật, nó đang bị đặt thành vấn đề vì chưa sáng tỏ.
Nếu gọi thế
giới tồn tại tất cả là duy vật, thì mâu thuẩn ở, thế gian còn có một vật chất không
hoàn toàn là vật chất bình thường, đấy là “loài nguời”. Loài người ngoài vật
chất còn có tinh thần. Nhưng trong duy vật biện chứng pháp người ta chứa
có luận điểm đủ về “giá trị tinh thần”.
Đây là một
khiếm khuyết cơ bản, và là lý do chính để học thuyết M-L bị phá sản trong kiến
thiết xã hội hiện đại thời bình.
Nay nếu chúng
ta vá được chỗ khuyết quyết định này, thì duy vật biện chứng pháp sẽ trở
thành một phương pháp luận thật sự lợi hại vì nó rất hiệu quả và chính xác.
Loài người
đã sử dụng nhiều triết lý, nhiều hệ tư tưởng, nhiều luận điểm, nhiều học
thuyết, v.v… để lý giải sự sống. Nhưng đến
nay mọi sự vẫn còn bất như ý.
Giờ đây nếu
chúng ta xác định được bản chất của vấn đề thời đại, đâu là nguyên
nhân thất bại chính, và bằng
phương pháp luận nào để lý giải toàn diện vấn đề, thì khả năng xây dựng
học thuyết mới thành công rất cao.
Bản chất của thời đại là bài
toán về đạo đức làm người của loài người dưới góc độ khoa học.
Nguyên nhân của nó là do khái
niệm về tâm chưa được chứng minh sáng
tỏ. Phương pháp luận nhằm lý giải toàn bộ vấn đề sự sống loài người, thì đã có
phương pháp duy vật biện chứng luận cải tiến (bổ sung luận điểm “giá trị tinh
thần”) đảm nhận.
Cộng chung lại chúng ta có thể
từng bước lần mò ra học thuyết mới, nhiều khả năng hàm chứa tính chân lý đúng
đắn.
Và giấc mơ về một học thuyết
mới được bắt đầu …
Có người nói
rằng, thời đại văn minh không chấp nhận khái niệm “tâm” trong khoa học. Vì vậy
muốn quan điểm này thay đổi, phải có một chứng minh về tâm đúng làm
bằng, nếu không chỉ là ảo tưởng.
Muốn có tâm
đúng thì phải có người đúng (người có khả năng chỉ ra lý đúng toàn
diện – qui luật tự nhiên). Ngược lại muốn có người đúng thì phải có tâm đúng để suy ra lý đúng (toàn diện) v.v… . Thế là vấn đề xoay
vòng không lối thoát.
Song lời
giải cho vấn đề được bắt đầu như sau:
Tâm đúng (A1), làm người ai chẳng có.
Nay để tìm lý đúng toàn diện , ta chỉ cần khoét sâu vào tâm A1 thăm
dò và khai thác đến tấn đái của nó,
tất sẽ tìm thấy tất cả.
Thăm dò bằng
các phướng pháp luận, bằng thực tiễn cuộc sống, v.v… thông qua kiểm tra từng lý
lẽ, từng luận điểm, từng tư duy, từng hành động, từng sự việc, từng đối tác
quan hệ, v.v… như đã được giới thiệu ở các phần trên.
Nếu tiến
trình tìm kiếm, phân loại, so sánh, phân tích, kết luận, kiểm tra thực nghiệm, tích
lũy kiến thức, v.v… như trên hoàn thành tốt, thì tâm A1
từ giai đoạn bản năng và sai lầm giai đoàn đầu, sẽ trưởng thành và phát triển thành
tâm đúng (cãi hóa tâm A2 thành công).
Lúc đầu kết quả có thể đạt lý
đúng từng phần, tiếp tục kiên trì nữa sẽ tiến tới lý đúng toàn diện.
Có lý
đúng toàn diện, ắt có tâm
đúng toàn diện.
Có tâm
đúng toàn diện , ắt có con
người đúng toàn diện.
Đây cũng là
lúc có cơ hội tìm thấy chân lý sự sống và điều kiện để học thuyết mới ra
đời đã hội đủ.
Có chân lý sống, nhận thức sẽ có cơ sở củng cố tính khách
quan trong giao tiếp. Có quan
điểm khách quan, mọi vấn đề sẽ có khả năng đạt lý giải tình lý thống nhất
hợp lý, đồng nghĩa các mâu thuẩn giữa con người sẽ không còn là những vấn đề
nan giải (tối thiểu về lý trước, …).
Quan điểm khách quan trung thực là chìa khóa vạn năng để sự sống trở nên hiệu quả và tốt
đẹp.
Muốn sống con người cần có ý thức. Song ý thức mà chủ
quan, sẽ như người đi trong đêm thiếu ánh sáng soi đường.
Quan điểm khách quan là điều kiện cơ bản để sự sống không bị lạc lối. Vì vậy tùy hoàn cảnh
tùy khả năng, tính khách quan cần được phát huy ở con người.
Chỉnh tâm đạt lý đúng sẽ cho phép con người hoàn thành được khả năng
này.
Theo minh chứng thì (ptcb 1) là
cơ sở để con người xây dựng quan điểm khách quan thành công.
Bến hẹn “hạnh phúc đời người” suy
cho cùng do quan điểm khách quan trên quyết định. Nó như con đò đưa con người đến
bến hẹn của sự sống bình yên hạnh phúc lâu bền (từ vật chất đến tinh thần).
Vì bấy giờ sự sống không còn tồn
tại những mâu thuẩn bất hợp lý, mọi tình lý đều thông suốt từ nhận thức đến
thực tiễn, từ tư duy đến kết luận, từ lời nói đến hành động, v.v ... khi bản
chất mọi sự đã có điểm hội tụ tại A1.
Tóm lại sự sống do tâm (A) tạo
động lực, nhưng quyền quyết định cuối cùng thuộc về A1, Nếu đặt
hết niềm tin vào A1,
đồng thời quyết tâm rèn luyện theo (ptcb 1), bằng các phương pháp luận ưu việt
mà xã hội loài người sẵn có, thì đích đến (tâm A1 ) sẽ trước sau cũng được con người làm chủ.
Suy ra lý đúng toàn diện sớm
muộn sẽ thành hiện thực.
Có tâm và lý đúng toàn diện, tức có
CON NGƯỜI ĐÚNG TOÀN DIỆN. Có một người đúng toàn diện, cơ hội để mọi người cùng
đúng toàn diện (cộng đồng) chỉ là vấn đề thời gian.
Như thế hi vọng xã hội chọn sẽ chọn
con đường tiến lên phát triển trào lưu CÁCH SỐNG MỚI, đế sự sống được hoàn
thiện.
Phải chăng chỉ là những ảo tưởng …
Trước mắt chúng ta có thể tin
rằng một phần của lý đúng đang được đặt nền móng từ đây.
C. KẾT LUẬN
Tạo hóa sinh vận động, vận động sinh sự sống.
Vận động vĩnh cữu, sự sống trường tồn,
Sự sống sinh ý thức,
Ý thức sinh loài người.
Loài người chỉ sống tốt, khi đã hiểu rõ qui luật sinh tồn …
Sự sống đã và đang tồn tại khách quan cho dù con người có nghiên cứu nó
hay không.
Song thực tiễn cũng đã minh
chứng, thế giới không có “nghiên cứu khoa học” thì chắc gì có sự sống như ngày
nay. Vì vậy “nghiên cứu khoa học” là một phần hữu cơ khách quan của qui luật sống
và phát triển.
Nay trong thế giới loài người, sự
sống đang đối diện trước các hiện tượng, “thiện” và “ác”, “phải” và “trái”,
“đúng” và “sai”, v.v…. Con người đang phân vân không biết phải thế nào để không
nhầm lẫn, để giữa điều mình muốn và kết quả thực hiện sao không bị trái chiều
nhau.
Nghĩ nhiều mà không tìm thấy lối
ra, nên sinh lo và … ốm.
Nếu đã ốm, cần phải sớm điều trị.
Một xã hội gọi là văn minh khi mọi
người đều khỏe mạnh cường tráng, trí tuệ minh mẫn. Nhưng nay tình cờ sinh ốm
yếu, bệnh tật. Một là, có thể do ngộ nhận lâu nay vì không biết rằng sức khỏe
đã từ lâu rất yếu kém. Hai là, do kém khả năng tự điều trị nên bệnh kéo dài
thành mãn tính.
Mãn
tính quá lâu thành quen. Quen
lâu sinh … thích và nghiện, muốn “sống luôn với lũ”. Ai đến xin khám và
trị
bệnh cho, thì bị từ chối và đuổi, nếu không chịu nghe thì sinh … đổ
quạu, dùng quyền lực … Vì họ quyết đau ốm tới cùng chăng, hay không
tin vào khả năng điều trị của con người với nhau.
Hay họ quên rằng “cái đầu” mà ốm,
là cả cơ thể sẽ ốm, mọi người trong xã hội đều ốm.
Điều gì chưa biết chưa thấy, dễ
sinh nghi, hoặc cho là không cần, không có nhu cầu. Nhưng đến khi được dùng thử
mới thấy nó có ích, nó tốt cho cuộc sống. Khi ấy nhận thức mới thay đổi.
Sự sống con người và xã hội cũng
tương tự.
“Cách Sông Mới” là một bổ sung cần thiết cho sự sống, nhưng không phải
ai cũng chấp nhận. Vì tin rằng cách sống đang có vẫn tốt chán.
Điều chỉnh ‘cách sống’ có lợi cho thanh lọc nội tâm, tăng thêm sức khỏe
tinh thần, chất lượng sống được nâng lên toàn diện. Song cũng tùy sức khỏe mỗi
người, nên nhu cầu điều chỉnh cách sống mỗi trường hợp mỗi khác. Nhưng
nhìn chung với ai cũng đều có ích.
Phòng bệnh hơn trị bệnh.
Đời người không quá dài, vì thế biết phòng bệnh hay ý thức điều trị (cách
sống) từ sớm, là biết quý trọng bản thân là tôn trọng mọi người.
Sự sống luôn tiến lên. Hạnh phúc tốt đẹp ai cũng muốn.
Điều chỉnh hay đổi mới ‘cách
sống’ sẽ là lời giải tốt cho những ước vọng trên. Nếu ai đã sống tốt thì sẽ
được tốt hơn, hay chuyển sang giúp mọi người hiệu quả hơn. Còn ai sống kém, nó sẽ
là liều thuốc hiệu nghiệm để hồi sinh.
Biết rằng người sống kém đông hơn
rất nhiều, người đang thật sự khỏe mạnh.
Như người ta vẫn thường nói,
- Sự sống bắt đầu từ ăn uống, văn minh bắt đầu từ ý thức. Hạnh phúc bắt
đầu từ cảm xúc, lý đúng bắt đầu từ cái tâm. Chân lý bắt đầu từ sự liên thông
giữa tâm và ý. Và tương lai tốt đẹp … cần được bắt đầu từ cách sống mới của mỗi
con người thời đại hôm nay ./.
Xong chỉnh sửa, 10-4-2012
HVS
HẾT
PHẦN I
PHẦN II
NHỮNG LỢI ÍCH từ
“CÁCH SỐNG MỚI”
“Cách Sống Mới” (hay “Cách Sống Học” nếu là một ngành
học) là một phương pháp luận về phương thức, kỹ năng, hay nghệ thuật sống tốt hơn hạnh phúc hơn.
Đời người và
cách sống như hai mặt của một tờ giấy. Nếu một trong hai thay đổi, tờ
giấy thay đổi.
Đời người do
thời gian, cách sống do con người tự quyết. Thay đổi cách sống,
con người sẽ thay đổi tương lai, thay đổi ý nghĩa đời mình.
Mọi cách sống đều cần được rèn luyện uốn nắn theo qui
định, nếu không nó sẽ phát triển tự phát, thành sai không đạt mục đích cá nhân.
Học tập rèn luyện không đúng cách, không đúng học
thuyết, cũng làm hư cách sống, hiệu quả đóng góp cho xã hội không cao (tính
trên số đông và trong thời bình).
Tuổi nhỏ, việc rèn luyện cách sống có dễ hơn
nhưng bù lại do thiếu kiến thức và kinh nghiệm, nên kết quả đạt chừng mực,
nhưng rất căn bản.
Với người lớn kiến thức sống phong phú hơn, có thể
nhanh hiểu nhanh tiếp thu, nhưng bù lại cũng nặng thành kiến và thói quen cũ ăn
sâu, nên việc rèn luyện gặp nhiều khó khăn.
Tuy nhiên nếu có môi trường thuận lợi ai cũng có thể thành
công, khi đã xác định ý chí.
Về nguyên tắc, người lớn hay tuổi trẻ đều cần điều
chỉnh cách sống, để xã hội đồng bộ phát huy hết thế mạnh.
Hơn nữa nhiều người cùng kết hợp rèn luyện, hiệu quả
sẽ nhanh hơn tốt hơn, nhờ ưu khuyết đa dạng bổ sung cho nhau theo khả năng sẵn
có.
Rèn luyện cách sống giống như nghệ nhân uốn cây. Khi
đã uốn cây sẽ tạo dáng đẹp như ý. Con người dù ở tuổi nào cũng có thể uốn nếu
thích, vì ít nhiều nó cũng đem lại kết quả và niềm vui.
Rèn cách sống là quá trình thay đổi dần các thói quen
bất lợi, sang các thói quen có lợi. Nhiều thói quen thay đổi góp phần làm thay
đổi cách sống, nâng cao chất lượng tinh thần.
Thói quen có góc từ nhận thức, đổi nhận thức là đổi được
thói quen. Thói quen đổi, cảm giác sống đổi theo. Cảm giác sống đổi, tâm đổi.
Tâm đổi, cách sống đổi.
Cách sống đổi thành cách sống mới, con người mới,
cuộc sống mới, nhiều hạnh phúc hơn tốt đẹp hơn..
Xây dựng cách sống mới là điều chỉnh lại một số nhận
thức cơ bản cho phù hợp. Nhờ vậy trí tuệ có điều kiện phát triển tốt hơn, tư
duy công việc hiệu quả hơn, hợp lý hơn, năng suất lao động cao hơn, quan hệ xã
hội tốt hơn, v.v...
Nói chung là tốt về số lượng và chất lượng trên mọi
mặt đời sống con người và xã hội, khi thay đổi cách sống theo ‘cách sống học’.
Cách sống mới
và một số vấn đề lợi ích liên quan:
1- Thực tiễn cuộc sống và cách khắc phục của Cách Sống
Học.
Mọi đứa trẻ lớn
lên đều được dạy dỗ từ hành vi đến ngôn từ, thái độ, hành động, việc làm, suy
nghĩ, v.v… nhưng chúng chưa được giới thiệu về thế nào là một cuộc sống hạnh
phúc cho đúng nghĩa.
Muốn có cuộc sống hạnh phúc, cần có một lý
thuyết dẫn đường đúng đắn.
Lý thuyết đúng đắn phải thỏa nguyên tắc không áp đặt
bạo lực, mà ưu tiên tôn trọng quyền sống riêng tư của mỗi ngườii, cho dù đối
tượng có đồng ý hay không trước một quan điểm mới được góp ý.
Đồng thời mọi người được quyền tự do tranh luận rộng
rãi đa chiều (xã hội) trước khi đưa ra kết luận.
Tất cả nhằm mục đích, tạo điều kiện cho người rèn
luyện cách sống mới, được tư do lựa chọn quan điểm sống, trên tinh thần tự
nguyện, tự giác, để hoàn thiện mình, vì lợi ích bản thân và xã hội nói chung.
Mọi người sinh ra đều bình đẳng trước chân lý.
Vì thế cần có tranh luận bình đẳng thì cái đúng mới lộ
diện.
Ví dụ:
- Thầy dạy trò, trò tiếp thu. Kết quả truyền đạt thành
công, vì trò cảm nhận ở thầy sự đúng đắn trong tuyền dạy. Cho dù trò được cho
phép tranh luận tự do nếu cảm thấy chưa đồng ý.
Có được thành
công trên là nhờ thầy có vốn nhận thức chân lý nhiều hơn trò. Chứ tuyệt nhiên
không phải vì trò sợ thầy hay vì thầy có quyền hơn trò, để ra quyền buộc trò phải
vâng theo sự áp đặt của thầy.
Trong môi trường sư phạm là thế, nhưng ngoài xã cũng cần
như vậy không gì khác.
Vì sự sống cũng cần có sự công bằng hợp lý, thì mọi người
trên dưới mới đề huề, đúng sai hợp tình hợp lý minh bạch rõ ràng thông suốt. Được
như thế xã hội sẽ không còn bất công phức tạp, cái sai cái ác không còn cơ hội
“đục nước béo cò” gây rối.
Tất cả trên chỉ mới là mơ ước, vì xã hội chưa có một bộ
luật về lẽ phải phân minh, được mọi người đồng lòng ủng hộ.
Nó không phải loại bộ luật được hình thành do bị áp
đặt quyền lực bởi ai, từ răn đe đến mua chuộc.
Bộ luật được cho là đúng đắn, chỉ khi nó được dựa trên
qui luật tự nhiên để chép ra. Và cách sống là cứu cánh để con
người thực thi nó hoàn hão.
Vì được chép ra từ qui luật tự nhiên, nên con người
càng tranh cãi càng có lợi để đạt đến sự giới hạn của quyền lực tự nhiên.
Sự sống con người và xã hội thực chất do môi trường
giao tiếp quyết định, nhất là khi nó phải đối diện trước cái lợi về ăn mặc ở
làm giàu, vai trò quyền lực, v.v…
Sự giao tiếp suy cho cùng là sự va chạm giữa các cách
sống với nhau. Do các cách sống được đào tạo khác nguồn, khác mục
đích, nên tạo sự chênh lệch về chất lượng và số lượng trong trình độ sống.
Nói cách khác, nếu qui ra cụ thể là do loài người đang
rất khác nhau về quan điểm sống.
Do chênh lệch quan điểm, nhưng lại được xếp ứng xử
ngang nhau trên cùng mặt bằng chung xã hội, mà trong đó nhiều giá trị bị xếp
đảo lộn. Cái sai được quyền, cái đúng thành mất quyền.
Vì thế mâu thuẩn đối kháng trong quan hệ xã hội, tất
yếu phải xảy ra. Không thể “ông nói gà, bà nói vịt” mà sự sống có thể trôi đi
trong êm ả bình yên được.
Chỉ có cách tổ chức lại các trật tự giá trị trong xã
hội, về nhân cách, quan điểm, tài năng, v.v… sao cho hợp lý, thì sự sống sẽ ổn định. “Gà
theo gà, vịt theo vịt” hoặc “gà với vịt, nhưng ở giữa phải có thông ngôn phiên
dịch v.v…”.
Cách tổ chức tốt nhất là dựa vào chân lý tự nhiên (qui
luật tự nhiên) để qui định thang giá trị trung gian cho xã hội. Tiếp theo là rèn
luyện cách sống để mọi người cùng đạt chuẩn kỹ năng của qui luật tự
nhiên như nhau.
Như thế ai cũng sẽ hiểu được nhau trong công bằng hợp
lý. Thay vì tất cả phải tuân theo mệnh lệnh của giá trị “kẻ mạnh” làm trung tâm,
thì bất công sẽ xảy ra và đấu tranh chống lại sẽ xuất hiện.
Giống như luật đi đường ai cũng tự giác tuân
thủ chấp hành. Vì nó không theo lệnh tổ chức chủ quan của riêng ai, mà vì tự
nhiên như thế là đúng nhất không còn tranh luận nào hiệu quả hơn.
Trong tự nhiên bộ luật tự nhiên về tổ chức quan hệ
con người đã sẵn có, song từ lâu nó chưa được biết tận tường và chép ra
để dùng.
Nó đã sẵn có trong A1 của mọi
người. Chỉ cần một chút công nhìn lại, là ai cũng thấy bộ luật của tự nhiên.
Vì nó có trong mỗi người, nên ai cũng thích và muốn
tuân thủ nó khi đã hiểu ra. Vừa là để thỏa lòng mình, nhưng vừa là đóng góp vào
lợi ích chung rất lớn.
Song vấn đề khó ở chỗ, luật tự nhiên không ghi rõ
thành từng chữ, từng nội dung lời rõ nghĩa, mà tùy vào kỹ năng cảm nhận của mỗi
người.
Tức là nó phụ thuộc vào kỹ năng liên thông giữa tâm (vô thức) và tâm ý thức của cá nhân. Mà “nguyên lý thông tâm” này từ lâu vẫn còn
là một bí ẩn với loài người.
Vì thế xã hội cần có người thông thạo trong lĩnh vực
này, để những bí ẩn trong “nguyên lý thông tâm” được tháo gỡ, và nó không còn
là bí mật với mọi người. Kế đến trách nhiệm thuộc về chức năng của ngành giáo
dục, và ý thức tự rèn luyện của mỗi cá nhân.
2- Chữ “Tâm” (theo nghĩa dân gian).
Theo Nguyễn Du “chữ “tâm” kia mới bằng ba chữ tài”.
Bộ luật tự nhiên mà con người muốn tìm, không cất đâu
xa, nó ở trong “tâm” mỗi người (A1).
Chữ “tâm” là gì?
Người xưa hay người nay đều biết chữ “Tâm”. Nhưng vì
sao mãi đến nay chữ “tâm” vẫn còn khá xa lạ với nhiều người. Đơn giản vì
nó chưa được khoa học công nhận và truyền bá bài bản.
Chữ “tâm”
nếu được minh chứng sáng tỏ, mọi người sẽ thấy ra giá trị to lớn của nó, quý nó
và sẽ khai thác tốt nó.
Bởi “tâm” là
sự sống gốc hay thuộc bản chất của con người.
Trong cách sống học, “tâm” (được hiểu thành tâm A1)
trở thành mục tiêu chính của giáo dục đào tạo, trong một xã hội phát
triển.
Bản chất của “tâm”
là luôn hướng sự sống con người về với giá trị tốt đẹp (hạnh phúc)
đồng bộ toàn diện.
Học và rèn “tâm”
chính là nhằm trau dồi cho con người những đức tính tốt nhất, những kỹ năng tư
duy tốt nhất về sự sống.
Như vậy tại “tâm”
đang ẩn chứa một lý đúng về sự sống.
Nhưng cái khó của “tâm” là dễ bị hiểu nhằm với cái ‘tâm chung (A)’, đang chứa cùng
lúc tâm nhỏ A1 và A2, luôn
đan xen nhau điều khiển sự sống.
Xây dựng cách sống mới là làm sao con người biết phân
biệt, nên chọn tâm nào để ưu tiên khai thác và phát huy. Vì thế con người cần
trải qua giai đoạn rèn tâm để “gạn đục khơi trong”, nhằm tìm ra đâu là tia
sáng của sự sống phải hướng về.
Trong xã hội, chữ tâm có thể khó hiểu khó dùng
với người này, nhưng lại khá dễ với người khác. Nhưng đã qua rèn tâm thì
ai cũng có thể thành công trong khai thác tâm, tùy theo khả năng của mình.
Có tâm (theo
nghĩa mới) là vừa có đức vừa có tài, vừa giàu vật chất vừa giàu
tinh thần - lưu ý mức sống tinh thần và vật chất cần đạt từ cơ bản đến nâng cao.
Đây là lợi ích của việc rèn tâm.
3- Hạnh phúc là gì ?
Mức sống vật chất dù có cao đến đâu, khoa học dù có
hiện đại thế nào, nhưng khái niệm “hạnh phúc” còn chưa sáng tỏ, thì sự sống như
mới bắt đầu.
Hạnh phúc đời người, theo cách sống học, bao
gồm hai khả năng hưởng thụ, vật chất và tinh thần.
Hưởng thụ hạnh phúc vật chất trong thời đại
ngày nay, là khả năng “tiền” được thỏa từ cơ bản trở lên.
Hưởng thụ hạnh phúc tinh thần trong thời đại
ngày nay, khi kỹ năng sống không trái với tâm A1,
từ phạm vi cơ bản đến rộng và rộng toàn diện.
4- Tính thiện cho hoà bình.
Con người sinh ra để sống và hạnh phúc.
Bản chất của hạnh phúc là tính thiện, trái với
tính ác.
Tiện nghi vật chất (tiền) đơn thuần chưa phải là hạnh phúc đúng nghĩa, vì nó sẽ tạo ra tính
ác.
Tiện nghi tinh thần (tâm A1) đơn thuẩn (loại bỏ tiện nghi vật
chất) chưa phải là hạnh phúc đúng nghĩa, vì nó triệt tiêu động lực phát triển
sự sống. Tuy nó tạo tính thiện nhưng
trái tự nhiên.
Chỉ khi sự sống được thỏa cùng lúc ‘tiện nghi vật chất’ (tiền) và ‘tiện nghi tinh thần’ (tâm A1),
thì tính thiện mới bền vững không
trái tự nhiên.
Mưu cầu hạnh phúc trong sự sống, thực chất là mưu cầu
tính thiện cho bản thân theo phương thức vừa nêu trên.
Tính thiện là điều kiện nội tại để thế gian hoà
bình bền vững, nhân cách phát triển tốt đẹp.
Làm người theo bản năng là muốn được ‘sống hạnh
phúc’, nên bản chất ai cũng
muốn hướng thiện.
Lưu ý, sự hướng thiện của cá nhân, thường khi nó còn
đòi hỏi sự hướng thiện cho các người thân (cộng đồng). Vì có thể con người chịu
hi sinh cái “thiện” cá nhân để mưu cầu cái thiện
cho cộng đồng.
Tức là con người có thể hi sinh hạnh phúc cá nhân để
vì mục đích hạnh phúc lớn hơn.
Suy ra, khi lý giải bài toán sinh tồn, phải tính chung
con người và xã hội, xã hội loài người, thì kết quả mới đạt. Nếu chỉ giới hạn
phạm vi cá nhân hay thiểu số, sẽ dẫn đến kết quả thất thường không bền
vững.
Khi cái thiện (hạnh phúc) không được tạo điều
kiện thỏa, thì tất yếu bản năng con người sẽ chuyển thành cái ác ngoài mong đợi.
Trong xã hội nếu con người còn chọn nhiều quan điểm sống khác nhau, thì đây sẽ là
nguyên nhân cản trở tính thiện phát triển.
Vì thế nhiệm vụ của Cách Sống Học là dẫn đường
để mọi người đạt đến sự nhất thể hóa quan
điểm sống, cũng tức là điều chỉnh lại cách
sống sao cho hợp với qui luật tự nhiên làm chuẩn.
Điều này đòi hỏi sự sống của loài người cần phải có nguyên
lý sống thống nhất, suy ra phải tìm thấy lý đúng toàn diện, v.v…
5- Tự
do, bình đẳng, bác ái và bình an.
Theo chứng minh sự sống thuộc về tâm A1.
Bản chất của A1 là tự do, công bằng, bình đẳng, bác ái, bình an, hợp tình hợp lý, minh bạch,
không vị kỹ cá nhân, không hại người, không hại mình, v.v….
Như thế xây dựng cách sống mới là góp phần hiện
thực hóa các tiêu chí sống chuẩn mực trên.
Để góp phần đạt mục đích
trên, luật pháp xã hội cần được đơn giản hóa,
rõ ràng dễ hiểu nhất quán v.v…, để mọi người thuận lợi trong thực thi, không
cảm thấy khó khăn trong làm tròn trách nhiệm công dân của mình.
Song song với nó, là mọi người trong xã hội đều được
trang bị những kỹ năng sống tối thiểu vô điều kiện, để đủ khả năng đáp ứng các
điều kiện cơ bản trong hòa nhập môi trường sinh tồn xã hội
Bản chất của A1 là chỉ ra
chân lý sống, đồng nghĩa với quyền sống tự do hạnh phúc của mỗi người đã sẵn có.
Vấn đề chỉ là khai thông, thay vì cản trở nó.
Khi được tự do đúng nghĩa (từ vật chất đến tinh
thần), con người sẽ tự động ý thức tôn trọng quyền ấy của nhau, suy ra sự sống ắt
có bình đẳng. Vì người mạnh người yếu sẽ tìm ra tiếng nói chung hợp
lý để hợp tác nhau vì lợi ích chung trước mắt và lâu dài.
Đã có bình đẳng ắt phải có bác ái tình
người. Do quá trình bình đẳng tôn trọng nhau, ít nhiều phải hiểu nhau, giúp
nhau, nên dần dần con người sẽ phát sinh tình người và lòng bác ái với
nhau.
Đã có bác ái cùng
nhau, thì cảm giác bình an trong tâm hồn tất sẽ có.
6- Xã
hội phát triển, năng suất lao động tăng cao.
Khi tâm người phát triển, đời sống tinh thần vật
chất phát triển, đồng nghĩa các tiêu chí sống chuẩn như trên phát triển.
Như thế con đường phát triển kinh tế xã hội sẽ có đà tiến
lên, tiêu cực sai phạm mất dần, giá trị nhân cách gia tăng, dẫn đến năng suất
lao động tăng, trí tuệ càng được phát triển, v.v…
Trí tuệ phát triển càng làm tăng nguồn lực chất xám cho
xã hội. Chất xám tăng đồng nghĩa với kinh tế tri thức tăng, phù hợp với xu thế
thời đại.
Những vấn đề xã hội học, tâm lý học, giáo dục học,
v.v… nan giải tích lũy từ lâu nay, giờ sẽ có cơ sở tìm ra lời giải căn cơ, để
trở mình đóng góp hiệu quả hơn cho sự nghiệp phát triển chung của xã hội.
Tóm lại, nếu làm tốt con đường khai tâm, thì
tin rằng sự sống con người và xã hôi sẽ có những bước tiến lớn từ chất đến
lượng.
Đây cũng là cơ hội tốt để các mô hình tổ chức xã hội khác
nhau, có dịp đem ra thử nghiệm và chọn ra cái tối ưu, mà không sợ để lại những
hệ quả nghiêm trọng. Vì tính ý thức tự giác của mọi người đã đạt ở trình độ cao./.
HẾT
PHẦN II
PHẦN III
RÈN LUYỆN CÁCH SỐNG
PHÂN ĐOẠN I: NỘI DUNG
I-
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHẬN THỨC
A - MỤC
ĐÍCH
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (“Kiều” - Nguyễn
Du).
“Người vui cảnh có buồn đâu bao giờ”. (“Cách Sống Mới”)
“Người vui” chính là mục đích phấn đấu trong ‘rèn luyện Cách Sống Mới'.
Làm người ai cũng muốn sống vui, nào ai muốn sống buồn. Thế nhưng lịch
sử có mấy ai tự hào là mình đã sống “vui không buồn”.
Vì trong cuộc sống ngày nay, có khi niềm vui của người này là nỗi buồn
của người kia.
Nên cách này cách khác, con người tránh sao không là nạn nhân của nhau.
Vì thế sự sống đã thành như một thứ cạm bẫy, mà ai đã nên khôn sao … “không
khốn một lần”.
Tuy nhiên, con người vẫn có thể cải thiện những ‘buồn vui’ trên tốt hơn
nhiều lần, bằng cách đưa nó quay về với tính hợp lý vốn có.
Muốn vậy sự sống cần được lý giải toàn diện, đồng thời con người rèn luyện
khả năng thực hiện các lý giải trên.
Đấy là con đường giải thoát mà “Cách Sống Mới” muốn giới thiệu đến mọi
người.
Có nghĩa là sự sống cần được rèn luyện chỉnh chu về kỹ năng sống, kỹ
năng làm người trong thời đại văn minh vật chất, thì thế giới sự sống mới không
còn là cạm bẫy đáng sợ.
Sống là để vui và hạnh phúc, đấy là tiêu chí cơ bản để rèn luyện kỹ
năng sống mới, hay ‘rèn luyện cách sống mới’.
Vấn đề tùy thuộc vào kết quả lý giải sự sống toàn diện, mà con ngưới sẽ
chọn làm chuẩn. Từ đây mới tính được mỗi cá nhân phải làm gì khi bước vào đời,
phải chuẩn bị ra sau để đón nhận sự phân công xã hội phù hợp với khả năng tốt
nhất có thể có.
Đời người giống như một chiếc xe, muốn lái được nó thì phải học.
Chiếc “xe đời” ấy thực tế là nó là “chiếc xe cách sống”. Điều khiển hay
lái tốt ‘xe cách sống’ thì nhất định nó sẽ đưa ta đến đích an toàn.
Rèn luyện cách
sống chính là ta đang học lái xe đời.
Nội dung chính của học lái, là rèn luyện kỹ năng tư duy, sao cho mỗi
người, tùy theo khả năng có thể lý giải thành công, thế nào là niềm vui và hạnh
phúc cho đời mình, cho gia đình mình, cho xã hội mình, và cho thế gới nữa (nếu
được).
Rèn luyện cách sống cũng chính là rèn luyện cho nội tâm được sống đời ổn định thư giãn cho dù môi trường xã hội vẫn luôn
rầm rập nhộn nhịp phát triển.
Rèn luyện cách sống, cũng là rèn luyện sao cho kỹ năng làm việc ngày càng hiệu quả, bên
cạnh kỹ năng quan hệ tốt với mọi người (và cả với chính mình).
Tóm lại, rèn luyện cách sống là rèn luyện cách nghĩ, cách tư duy, cách hiểu,
cách cảm xúc, cách hành xử, cách hoàn thành trách nhiệm, v.v... trong cuộc
sống sao cho hợp tình hợp lý nhất, đem lại kết quả cao nhất vì lợi ích riêng và
chung, trên nguyên tắc không trái với A1.
Mọi con người sinh ra lớn lên đều thông qua học tập, rèn luyện, lao
động, sinh hoạt, giải trí, v.v… để tồn tại phát triển.
Tuy nhiên trong quá trình trải nghiệm như trên, ít nhiều con người phải
đối diện trước những bất ổn nan giải khó lường ..., đây là lúc để thành quả ‘rèn
luyện cách sống’ phát huy kỹ năng lý
giải vấn đề tốt đẹp.
Vì thế trong ‘rèn luyện cách sống’, mỗi cá nhân cần ưu tiên luyện tập kỹ năng tự nhận
trách nhiệm về mình trước mọi thất bại, cuối cùng mới tính đến các nguyên nhân
tác động khác.
Để làm chi? Để ta tăng khả năng tự vệ, tăng khả năng tránh phạm sai lầm
ở mức thấp nhất, bằng cách phát huy năng lực cao nhất.
Như thế tính chủ động của cá nhân trong cuộc sống sẽ tăng lên, kể cả khi
phải rơi vào hoàn cảnh khách quan xấu nhất.
Vì tin rằng mọi sự phấn đấu tích cực đều cuối cùng sẽ được A1
ghi nhận. Tức là trước sau sẽ nhận được sự hỗ trợ khách quan từ qui luật tự
nhiên, khi con người đã chọn song hành với nó.
Như thế ‘rèn luyện cách sống’ là con đường
tiến đến sự hoàn thiện nhân cách, đồng thời góp phần nhỏ vào mục đích
xây dựng cái chung, khi chưa đủ khả năng đóng góp những giá trị lớn hơn.
Rèn luyện cách
sống còn là sự rèn luyện về niềm
tin vào bản thân, vào kỹ năng tư duy của cá nhân. Trong bao gồm cá nhân dám
tự chịu trách nhiệm về mình trước mọi thất bại do mình gây ra, và tin rằng bằng
những tư duy phân tích hợp lý sẽ khắc phục được hậu quả, để tiếp theo ngày càng
tốt hơn lên và cuối cùng sẽ đạt đến đích thành công của hạnh phúc đời người.
Đấy là tất cả những gì chúng ta trông chờ ở
‘rèn luyện cách sống mới’ sẽ đem
lại, trước mắt đối với cá nhân.
B – MỘT SỐ NHƯỢC ĐIỂM
CỦA CÁCH SỐNG CHỦ QUAN
Cách sống tự nó không đủ khả năng thích nghi tốt với môi trường,
theo nghĩa phù hợp với qui luật tự nhiên, nếu chưa qua rèn luyện.
Khi xã hội tiến lên văn minh, cách sống cần sự trợ giúp rất
nhiều từ lý trí của cá nhân. Ngoài lý trí cá nhân ra không ai hoặc một đấng
quyền năng nào có thể hỗ trợ kịp thời hơn, họa chăng là những may mắn ngoài dự
tính.
Hay có chăng sự giúp sức vô hình nào, thì nó cũng tập trung vào cái lý
trí đã phát huy tận lực của cá nhân.
Muốn nâng cao cách sống, tất yếu phải tìm hiểu đặc điểm cách sống của từng
người mà tìm phương án rèn luyện phấn đấu cho phù hợp.
Từ khi tiến lên mức sống văn minh, cách sống đã được con người
huấn luyện đào tạo một cách ngẫu nhiên tùy theo khả năng nhận thức của mỗi thời
đại.
Do đào tạo ngẫu nhiên (thiếu chuẩn bị), nên nguồn tri thức đào tạo cách
sống như trên chưa thật sự được chọn lọc đúng đắn (vì thiếu công trình
nghiên cứu khách quan khoa học).
Về hình thức đến nay xã hội có rất nhiều kiểu (mô hình) cách sống.
Mỗi kiểu đại diện cho một khuynh hướng, một quan điểm, một mục đích sống nhất
định. Tất yếu nó gắn liền với trách nhiệm của một cá nhận cụ thể, là chủ sở
hữu.
Thường cách sống có thể được chuẩn bị rất tốt trong một môi
trường hẹp, như gia đình, dòng tộc, đơn vị kinh doanh, v.v…. Nhưng trên phạm vi
xã hội hoặc cả đời người, thì nó chưa được chuẩn bị chu đáo (góc độ, qui luật
tự nhiên).
Nguyên nhân vì giới hạn trình độ tiến hóa, nên nhiều công trình nghiên
cứu mới đạt một phần thành công. Hơn nữa người ta thấy … cách sống “kiếm tiền”
có lợi hơn là đi “kiếm cách sống” vì một mục đích diễn vong nào.
Nhưng “tiền” chỉ là phương tiện, trong khi ‘cách sống’ mới là đích đến
của đời người. Đó là sự sai lầm cơ bản trong nhận thức về sự sống.
Hay người ta không thấy, những bế tắc trong cuộc sống nói chung đều có
nguyên nhân từ ‘cách sống’ mà ra.
Do vậy chính vì muốn sự sống được trọn vẹn lâu dài, con người phải chấp
nhận có sự đầu tư dài hơi, và như rất vô hình vô nghĩa. Nhưng về lâu dài nó
chính là một quyền năng không gì có thế so sánh.
‘Tiền’ là một nhu cầu thiết yếu không thể chối cãi, nhưng sự sống con người
còn những nhu cầu vô hình khác, to lớn hớn hấp dẫn hơn, mà “bản thân tiền”
không thể đáp ứng.
Ngược lại trong “cách sống” con người vẫn kiếm được ‘tiền’ không thiếu.
Hay cụ thể trong sự sống con người cần tiến hành song song hai hướng
đầu tư ‘cách sống’ và ‘tiền’, trong đó ‘cách sống’ được xem là trọng tâm. Vì cả
hai mục đích này có thể được kết hợp chung với nhau, vì chúng không nghịch nhau
về bản chất, mà ngược lại còn bổ sung cho nhau nếu ‘cách sống’ được chọn hợp
lý.
Tức là có thể vì ‘cách sống’ mà ‘tiền’ bị ít lại một chút, nhưng bù lại
sự sống hạnh phúc trọn vẹn hơn ý nghĩa
hơn gấp nhiều lần. Đây chính là đích đến mà đời người không được nhầm lẫn, không
được sai mục tiêu.
Kiếm ‘tiền’ có thể không khó nếu người ta may mắn có tài năng, có cơ
hội, biết cách làm việc, biết cách kiếm ra tiền, hay do được thừa hưởng tài
sản, do trúng số, do được cho, tặng, giúp đỡ, v.v.... và người nhận có thể sử
dụng nó được ngay không chút khó khăn.
Nhìn chung lại, nếu chia đều ra mọi người, thì trong thời đại ngày nay
‘tiền’ đã khá đủ.
Song vấn đề là, con người có muốn phân chia ‘tiền’ ra cho hợp lý hay
không mà thôi.
Đây chính là một phần lý do trọng tâm, để con người đầu tư ‘rèn luyện
cách sống’.- (Phần lý do khác là vì sự bình an yên vui nơi tâm hồn của đời
người (hạnh phúc tinh thần). Và phần lý do cuối cùng là do qui luật tự nhiên
đòi hỏi phải như vậy.)
Vì đã có ‘tiền’, nên bài toàn ‘cách sống’ đã đến lúc cần được
đặt ra một cách nghiêm túc.
‘Cách sống’ rõ là không như ‘tiền’. Để dùng được ‘cách sống’ con người
phải mất thời gian dài rèn luyện đúng đắn, chứ không dễ sử dụng như ‘tiền’.
‘Cách sống’ cũng không thể cho, tặng, mua bán, , trúng số, thừa
hưởng tài sản, v.v… như ‘tiền’.
‘Cách
sống’ chỉ có duy nhất một con
đường để thành công, đó là “mỗi người phải tự học tập rèn
luyện kiên trì lâu bền, theo một định hướng đúng đắn hợp lý ”.
‘Tiền’ là cái thời đại đã có, ‘cách sống’ là cái thời đại chưa có hay chưa đạt như ý.
Tiền đáp ứng
nhu cầu tiện nghi vật chất (hưởng thụ
vật chất), cách sống đáp ứng nhu cầu tiện nghi tinh thần (hưởng thụ tinh thần) nhưng thực tế nó đáp ứng cả tiện
nghi vật chất. Vì trong cách sống bao gồm cả kiếm tiền, chỉ khác
là phải hợp đạo lý làm người có ý thức A1.
Trong khi trong “kiếm tiền” (thiếu rèn luyện cách sống song song), thì
‘cách sống’ (đúng) sẽ nhanh chóng bị triệt tiêu.
Như thế lợi ích của ‘rèn luyện cách sống’ từ nay đã rõ, song chỉ cái
khó là không thể chứng minh cụ thể sự tồn tại của nó qua nhìn, sờ, hưởi, quan
sát, ăn, nếm, v.v…
Vì thế nó dễ bị thua trong chọn lựa sở thích làm mục đích sống. … Cho dù
nó phải tốn bao nhiêu chữ nghĩa để chứng minh nhưng “không thấy” và “không
khoái” cũng hoàn như cũ. Như thế mới thấy hết sự lợi hại của “lối sống chủ
quan” phi tinh thần.
Tuy nhiên đã là qui luật thì tính tất yếu rồi sẽ đến lúc phải phát huy.
Con đường ‘rèn luyện cách sống’
có thể có nhiều, nhưng chọn con đường “rèn luyện sao cho hợp với qui luật tự
nhiên” là nhất định không bao giờ sợ thua. Bèo lắm chỉ có huề, còn lại chỉ có
từ thắng đến thắng không lỗ. Trừ phi đi sai đường, hoặc rèn luyện không thành
tâm, không thật.
Tuy nhiên trong khi chờ những mộng mơ trên trở thành hiện thực, thì cách
sống như thực tế đang có, vẫn đang phát huy thế mạnh áp đão như xưa nay vẫn
thế. Cụ thể nó bao gồm một số đặc điểm đáng lưu ý như sau:
-
Tính chủ quan.
Bản chất cuộc sống bao giờ cũng cần khách quan hơn là chủ
quan.
Trong khoa học tự nhiên, đối tượng nghiên cứu là vật chất,
nên tính khách quan dễ hình thành trong kỹ năng tư duy.
Ngược lại trong “khoa học con người” (khác khoa học xã hội?) thì
tính khách quan bị thách thức nghiêm trọng. Bởi đối tượng ghiên cứu của nó
là con người.
Tức là ‘con người’ nghiên cứu “con người”, bằng cách dùng ‘tư duy’
nghiên cứu “tư duy”.
Đây vốn là bài toán khó, vì dùng “nó rán nó” “tư duy rán tư duy”, nên
đa phần “nóng” quá ít ai chịu nỗi.
Vì bản chất tư duy con người hết chín phần là mắt bệnh chủ quan,
khi phải đối diện trước quyền lợi thiết thân. Hơn nữa sự chủ quan ấy càng lớn,
khi đối diện trước các quyền lợi càng to. Đời người cũng là một quyền lợi rất
to, khi phải tự “rán” cuộc đời vào canh bạc “tư duy” của chính mình.
Do cái khó trên, nên các nhà nghiên cứu khó đạt đến thành công triệt để
là vậy.
Nguyên nhân tạo nên sử chủ quan có thể liệt kê cụ thể như, bản năng tự
vệ, thói quen cá tính, sở thích, áp lực hoàn cảnh, truyền thống gia đinh dòng
họ, phong tục tập quán, quyền lợi hưởng thụ, áp lực tình cảm, v.v… .
Nếu thực tế chủ thể nghiên cứu mắc sai phạm chủ quan một li, kết
quả công trình sẽ lái sang … mười dặm, là điều khó tránh.
Vì thế nhìn chung để nghiên cứu rèn luyện cách sống thành công, bài tập
đầu tiên là cần cảnh giác đấu tranh tư tưởng nhằm duy trì tính khách quan
trung thực trong nhận thức (ý thức) trước tất cả mọi vấn đề, càng nhiều
càng tốt.
Mỗi con người là một thế giới riêng, nhu cầu riêng, thói quen riêng,
nhận thức riêng, cảm xúc riêng, tài sản riêng, mục đích riêng, v.v… Theo bản
năng tự nhiên, cá nhân xem những phạm vi riêng tư trên như là các quyền lợi
riêng tư, vì nó là một đại diện của
cá nhân họ nến cần được ưu tiên bảo vệ.
(Ghi chú: Trong số những cái riêng trên nếu tính xa hơn nữa ta có thể
tính như, gia đình mình, dòng họ mình, làng xóm mình, hội và đất nước mình,
loài người mình, môi trường trái đất mình, v.v ..., vấn đề là tùy theo đối
tượng cần phải đối đầu kia là gì, thì phần bên còn lại sẽ thuộc về phía “mình”.)
Từ bảo vệ quyền lợi riêng, sẽ hóa thành bảo vệ quan
điểm riêng.
Bằng cách ấy quan điểm chủ quan (riêng) được hình
thành.
Hiếm khi trong xã hội, người ta thấy một quan điểm
riêng lại trùng với quan điểm chung của xã hội.
Vì thế quan điểm chủ quan luôn chiếm số đông
trong xã hội, vô hình trung nó trở thành quan điểm chủ đạo trong đời sống mọi
người nói chung. Xưa nay đều là như vậy.
Từ lợi thế chủ đạo này nó gây ảnh hưởng lan truyền đến mọi mặt sinh
hoạt đời sống của mọi người, không nhiều thì ít. Ta gọi là “bệnh chủ quan”.
Bệnh này thâm nhập vào cá nhân từ hai con đường, một, xuất phạt từ NỘI
TÂM ngẫu nhiên, và hai, từ BÊN NGOÀI XẪ HỘI. Như vậy trong ngoài đều phủ kín,
không còn khe hở để trí não trốn thoát bệnh.
Biết rằng quan điểm chủ quan cũng có lúc đúng, lúc không. Nhưng không là cơ bản, đúng chỉ là nhất thời. Đơn giản vì đúng hay sai xưa
nay chưa có chuẩn để so sánh, nên kết luận đa phần hên xui, tùy theo thực tế
thành công hay thất bại. Nhìn chung thất bại quyết định, thành công chỉ là phụ.
Vì thiếu chuẩn so sánh, nên con người có thể không ai nghe ai nếu thấy
không lợi, không cần thiết. Khi ấy, ai có sức mạnh, có quyền lực,
có lợi thế hơn sẽ có quyền áp đặt đối phương để bảo vệ quyền lợi của mình.
Có áp đặt là có bất công, có tội ác, có gian dối, có sợ hãi, v.v… phát
triển, cuối cùng thành hỏng nhân cách. Nhân cách người lớn hỏng, truyền dạy lại
cho trẻ em, kế tiếp lan ra xã hội. Thế hệ này đến thế hệ khác, những kinh
nghiệm hỏng nhân cách nhưng vẫn sinh tồn tốt, được truyền dạy cho nhau để duy
trì và phát huy.
Lâu dần con người cảm giác như sống là phải ít nhiều sai lầm, thi mới
thành công (nhỏ hay lớn). Và nhiều người tin rằng, nó là chân lý bất thành văn.
Con người lúc này có thể nói lý thuyết chân lý thật, nhưng khi hành
động thì dùng chân lý giả. Người ta sống hai mặt như thế rất thành thạo. Và
ngầm hiểu với nhau là khôn ngoan, nếu thành đạt thì đáng khen cần được học tập.
Nhưng khi nói công khai ngoài miệng thì lại hoàn toàn phủ nhận những
điều mình tuyệt đối tin tưởng như trên.
Sự sống vì thế mà rất phức tạp, con người rất khó lường về nhân cách.
Người xấu, người tốt bị lẫn lộn. Vì môi trường xã hội không minh bạch, “đục nước béo cò”.
Bản chất của tính chủ quan có thể ngủ kín trong quan điểm sống,
trong nhận thức, trong phong tục tập quán, trong tư tưởng, trong quan điểm phổ
thông cộng đồng, v.v…. Khi bình thường người ta khó nhìn thấy nó, nhưng khi
chạm đến những vấn đề quyền lợi lớn
hay nhỏ (và muốn đào sâu vấn đề), là sẽ thấy tính chủ quan tỉnh
dậy làm nhiệm vụ.
Nó biết lôi kéo nhận thức và ý chí con người rời xa tính
khách quan thường ngày, để sa vào sai lầm chủ quan một cách tự nhiên thành thạo bất ngờ, không một chút e
ngại.
Sự sống vì thế thành bất ổn, xu hướng tiêu cực cứ thế tồn tại và phát
triển.
Khắc phục bài toán “chủ quan” là một thách thức rất khó, khi mà sự sống và cái chết đã
gắn liền với quyền lợi và ăn vào quan điểm sống phổ thông. Để từ đây nó chuyển
thành quyền lực gây cản trở những chồi xanh “khách quan” muốn vươn lên
nhưng còn yếu thế.
Song thời gian và qui luật tự nhiên sẽ là những bà đỡ tốt bụng, sẽ giúp
loài người lần lượt vượt qua những cạm bẫy thành công.
A1 với cách sống mới sau khi rèn luyện, sẽ trở thành bà
đỡ cho sự hoàn thiện trước những gì chưa hoàn thiện.
-
Tính không
thống nhất
Tính không thống nhất là hệ quả phát sinh từ tính chủ quan.
Bản chất loài người là sống để
hạnh phúc.
Nhưng “hạnh phúc là gì”, vẫn còn là ẩn số.
Tuy nhiên cách hiểu thông dụng, hạnh phúc là “tiền nhiều”.
Có tiền sẽ qui đổi ra ‘sản phẩm hàng hóa’.
Nhưng số lượng ‘sản phẩm hàng hóa’ (vật chất) có thể khai thác sản xuất,
kể cả tính chung trên toàn cầu, nó chỉ có GIỚI HẠN. Trong khi khả năng tích lũy
‘tiền’ của cá nhân là “VÔ HẠN”.
Nhiều cá nhân “vô hạn” cộng lại chiếm gần hết ‘sản phẩm hàng hóa’ trong
xã hội, trong khi họ chỉ là một thiểu số rất nhỏ trong ấy. Điều này sẽ khiến đa
số người dân phải sống cuộc sống rất khó khăn, khi phải phân chia số ‘sản phầm
hàng hóa’ còn lại.
Vậy là định nghĩa hạnh phúc ở trên, chỉ có lợi cho số ít không có lợi
cho số đông. Như thế là bất công vô lý.
Tất cả cùng vì hạnh phúc mà cuối cùng bên có bên không, nên sinh mâu
thuẩn.
Xã hội bắt đầu chia rẽ từ đây.
Suy ra vấn đề bế tắc của xã hội loài người, thực chất xoay quanh trọng
tâm “con người bị bất công trong phân chia quyền lợi vật chất”.
Từ sự bất công ấy đã kéo theo sự mất đoàn kết thống nhất trong quan hệ
con người.
Thẹo cách sống học lời giải cho vấn đề,
-
Một là, hạnh phúc
không chỉ là thỏa mãn nhu cầu vật chất, mà còn là thỏa mãn nhu cầu tinh thần.
Với nhu cầu tinh thần được đẫy lên làm trọng tâm, vì bản chất con người là sống
bằng lý trí tinh thần chứ không là vật chất vô tri.
-
Hai là, khi đã chọn
nhu cầu tinh thần làm trọng tâm, thì mỗi khi xảy ra sự bất công trong phân chia
lợi ích vật chất, con người sẽ không khó khăn trong chia sẻ cho nhau các lợi
ích vật chất một cách hợp lý, nhằm đạt ý nghĩa vui và hạnh phúc là chính (tinh
thần).
-
Ba là, những hành
động trên cần được chuyển hóa thành cách sống cho mọi người, để những hành động
có ích (tích cực) như trên, được thực hiện nhập tâm như một lẽ tự nhiên ở đời.
Như thế là công bằng trong sự sống được thực
thi, và mọi người sẽ có cơ hội được đoàn kết thống nhất với nhau.
-
Tính không
nhẫn nại
Sự không nhẫn nại là hệ quả của sự không thống nhất mà thành.
Khi hạnh phúc đời người chưa rõ, cạnh tranh sinh tồn khó khăn, tương
lai không chắc chắn, v.v…, tất yếu dẫn đến lòng bất an của con người.
Lòng bất an dẫn đến lý trị không còn sáng suốt như trước, mọi tính toán
tương lai bị hạn chế, nên chấp nhận lối sống vội, sống gấp, nhằm hưởng thụ
ngay, …
vì sợ không còn cơ hội ngày mai.
Lâu dần con người thành mất tính nhẫn
nại.
Rèn luyện cách sống rất cần tính nhẫn nại kiên trì, mọi sự nóng vội sẽ
làm tâm chuyển không thành. Cách sống mới sẽ không nhìn thấy.
Cách sống mới được xem là “mức sống tinh thần” nó cao hơn “mức sống vật
chất” nhiều người đang dùng. Từ mức sống thấp lên mức sống cao hơn, tất yếu đòi
hỏi phải có thời gian chuyển đổi thói quen từ duy từ trong tâm. Mà điều này rất
cần sự nhẫn nại bền chí, lý trí liên tục minh mẫn tìm tòi trong dũng cảm.
Trong khi “mức sống tinh thần” (trừu tượng) chưa được ý thức, con người
dễ bị mất niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai, vào con người, không tin vào
lẽ phải, không tin vào cả vào bản thân trí tuệ bản thân, v.v… .
Người ta chỉ muốn tin vào các giá trị vật chất (cụ thể), hưởng thụ ngay.
Nếu không đạt như ý thì sinh nóng nảy, muốn dùng quyền lực, thủ đoạn bất minh,
vượt qua đạo lý, v.v…
Vì thế kỹ năng làm giàu vật chất và tinh thần phải đi
đôi, thì nhân cách mới cân bằng, khả năng làm chủ bản thân mới đạt. Thiếu một
trong hai sự sống đời người sẽ thất bại.
Để làm giàu tinh thần chỉ có
rèn luyện ‘cách sống mới’ là mang lại hiệu quả triệt để nhất,
-
Tính lạm quyền
và bạo lực
Sự lạm quyền và bạo lực là hệ quả của sự không nhẫn
nại gây ra.
Khi mức sống tinh thần kém thì lý trí cũng kém. Lý trí kém thì khả năng
lý giải thuyết phục bị bế tắc, khi ấy bắt buộc phải dùng đến quyền lực
(bạo lực) để phân ngôi thắng thua, trong quan hệ quyền lợi.
Sự tranh giành quyền lợi bằng quyền lực, có khi được che đậy dưới lớp
vỏ nhân danh quyền lợi xã hội, nhằm hợp lý hóa hành vi sai trái chủ quan cá
nhân.
Như thế là lạm quyền gây bất lợi cho xã hội, đối với cá nhân gây ra sẽ
phải chịu thiệt thòi về nhân cách, kỹ năng sống hạnh phúc giảm sút.
Bản chất của lạm quyền và bạo lực sẽ làm sai lệch khả năng nhận thức
vấn đề, vì sự việc không còn diễn biến bình thường tự nhiên dễ hiểu. Nhiều lần
như thế sẽ làm khả năng tư duy bị bế tắc, cuối cùng thành kém phát triển mất
sáng suốt.
Nó là nguyên nhân cản trở sự phát triển xã hội, làm suy yếu năng lực
con người, gây tâm lý chia rẻ sợ hãi không lợi cho sức khỏe tinh thần, kỹ năng
sống hạnh phúc bị biến mât theo thời gian, v.v… .
- Tính bất an
Sự bất an là hệ quả của sự lạm quyền và bạo lực gây ra.
Khi môi trường sống trở nên khó hiểu căng thẳng, nhiều lý giải bất hợp
lý liên tục được phát ra, v.v… hậu quả dẫn đến tất yếu là làm bất an lòng người.
Một môi trường sống thường xuyên bất an sẽ gây ra những bệnh về
tinh thần, stress, sự trầm cảm, tính tình nóng nảy thất thường, phát sinh các
hành vi quậy phá, độc ác khác thường, v.v…
-
Tính phạm pháp
Sự phạm pháp là hệ quả của sự bất an không làm chủ bản
thân.
Sự bất an sẽ dẫn đến mất niềm tin.
Mất niềm tin sẽ phát sinh hành động đối phó, mang tính trái đạo lý,
trái luật, trái với các nhận thức tình cảm thông thường.
Đối với xã hội, như thế là phạm pháp khi nó phát triển thành tội danh.
Khi đạo đức “nói thẳng nói thật” ít được tôn trọng, thì tính gian dối lên
ngôi. Những giá trị đạo lý truyền thống tốt đẹp cách này cách khác bị ảnh hưởng.
Xã hội thành không an toàn. Người lương thiện giờ trở thành những con
mồi của tội phạm.
Dân phạm tội lên làm quan, thành quan phạm tội. Tội lớn nữa là gây
chiến với các nước lân bang.
Trước khi phạm tội, con người đã có mầm phạm tội. Nó ẩn trong cách sống
tức trong tâm. Lúc nó chưa bộc phát đã không lo tiêu trừ. Phải đợi đến chuyển
thành hậu quả lớn, thì mới có đủ lý do để tập hợp nhau cứu chửa. Như thế đã trể
dù cứu được hay không, nhưng trước mắt đã bị thiệt hại.
Cứ thế con người cứ phải chạy theo chống tội phạm theo chu kỳ, mà không
biết phương thức nào ngăn nó ngay từ gốc.
Đó là vì triết lý giáo dục chưa toàn diện, nên con người bị mất cân
bằng sự sống.
-
Tính hạn chế
trong giáo dục
Hiện tượng giáo dục yếu kém, đây vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của xã hội bất
ổn.
Giáo dục thời đại ngày nay, nói cho đúng, nó mới đạt về ‘chân lý vật
chất’, nhưng chưa đạt về ‘chân lý tinh thần’. Vì thế con người đạo tạo ra bị
mất quân bình về nhân cách.
Xã hội bất ổn là bằng chứng cho thấy, ‘giáo dục đạo đức’ của xã hội
đang có vấn đề.
Nó được biểu hiện rõ rệt nhất ở bộ máy chính quyền, nơi tiêu biểu về
quan hệ con người. Như câu thành ngữ đã minh chứng “thượng bất chính, hạ tắc
loạn.”
Vì giáo dục kém, suy ra chính quyền kém. Chính quyền kém, suy ra xã hội
kém. Xã hội kém, càng làm giáo dục thêm suy yếu.
“Cách sống mới” hi vọng sẽ tìm ra ‘chân lý tinh thần’ để bổ cho triết
lý giáo dục thời đại, đồng thời nâng nó lên vị trí xứng đáng mà vốn nó phải có.
-
Tính mất
phương hướng
Tính mất phương hướng là hệ quả của nền giáo dục yếu kém.
Sự sống tất nhiên là phức tạp, nhưng giáo dục còn yếu kém, nên sự sống trước
sau gì cũng mất phương hướng.
Trong hoàn cảnh ấy, mục đích vật chất sẽ là cứu cánh, nhưng đồng thời
phải gánh hệ quả tiêu cực đi kèm như chúng ta đã giới thiệu.
Phương hướng sự sống nằm tại A1. Nó chỉ đường cho sự
sống đạt sự cân bằng ổn định phát triển. Nếu tiếp tục đào sâu A1
hơn nữa, sẽ là sự bình an bền vững cho tâm hồn (trên nền tiện nghi vật chất
phát triển hợp lý).
C – BÀI TOÁN KHẮC PHỤC
Sự sống chỉ có một qui luật phát triển, và một hướng chọn lựa phù hợp.
Thay đổi nhận thức để ‘cách sống’
đi đúng hướng, là một lựa chọn cần thiết.
Tiếp theo là phấn đấu làm chủ cách sống.
Làm chủ cách sống là làm chủ được cái gốc của sự sống và ý thức được qui luật phát triển
của nó. Được như thế là ta đã thắng hết chính phần, chừa một phần cho thiên tai
dịch bệnh, v,v….
Đối với một phần còn lại, một là được đối phó bằng những tiến bộ khoa
học kỹ thuật, và hai là dựa vào nguyên lý sinh tồn để rèn luyện kỹ năng thích
nghi, để quen dần với niềm vui trong khả năng.
Và như thế nhiều khả năng con người sẽ thắng được mười mươi trong cuộc
sống.
Để tiến lên ‘làm chủ cách sống’ chúng ta lưu ý mấy vấn đề sau:
- Cách sống mang tính thời gian. Muốn làm chủ nó cần phải có sự kiên
trì nhẫn nại.
Thực tế đã minh chứng, cách sống có gốc tự phát từ rất tuổi rất
bé. Nó đã vận hành tấn công con người bằng chiêu thức “mưa lâu thấm đất”, căn
bệnh “vật chất chủ quan”. Vì thế nhân cách phát triển bị sai lệch.
Đến nay mới bắt đầu chỉnh sửa, thì mọi việc đã mười phần gian nan.
Thực tế này phải chấp nhận, do tạo hóa tự nhiên đã cơ chế hóa con đường
sinh tồn của con người là như vậy, không cách nào khác.
Cách sống hay
kỹ năng sống bao gồm các nếp nghĩ, kỹ
năng tư duy, các cảm xúc, tình cảm, phát sinh trong quan hệ, những lời nói, tác
phong phong cách, kỹ năng học tập, làm việc, kinh doanh, v.v... . Tất tần tật đều cần được chỉnh lại.
Tuy nhiên chỉ cần nhận thức cơ bản thay đổi, là tất cả những biều hiện
trên ít nhiều sẽ thay đổi tự động theo thời gian. Nếu cộng thêm ý thức quan tâm
nữa thì kết quả càng nhanh hơn.
- Cách sống
có tính môi trường rất cao.
Do môi trường là xã
hội, con người, tài sản vật chất, v.v… có phần mang tính kế thừa, nên cách
sống cũng có tính kế thừa và ảnh
hưởng lan truyền.
Muốn tìm hiểu về bản thân, thì quan sát môi trường để tham khảo tìm đầu
mối.
- Mục tiêu rèn luyện
của cách sống rất đa dạng, hoàn cảnh nào, khả năng ra sao, thì mục tiêu phấn
đầu được chọn tương ứng.
Mục tiêu là phương tiện rèn luyện, mục đích cuối cùng mới là chính. Mục
đích thì giống nhau giữa mọi người, đó là ‘hạnh phúc – bình an’.
Khi rèn luyện phải cẩn thận tỉ mỉ, ý chí phải sáng tạo, trung thực, tự
trọng, có kỹ năng lý luận phân tích, v.v… Thời gian rèn luyện tùy mỗi người tùy
sao cho tiện và tập trung được.
“Vạn sự khởi đầu nan” có thể mỗi ngày rèn luyện một chút, nhiều lần
thành quen và bình thường.
- Thực tế các cách sống đang phổ biến hiện nay.
Trong xã hội đang có nhiều hướng cách sống để chọn lựa, từ tiêu cực đến
tích cực. Trong các cách ấy, hướng của các tôn giáo nhìn chung đang chiếm vị
trí chủ đạo.
Vì cho đến nay, chỉ có các tôn giáo mới lý giải được mọi mặt đời sống
con người. Tuy nhiên mỗi giáo phái lý giải sự sống theo cách khác nhau, nên
tính chân lý bị phân tán.
Trong số ấy, nhìn chung vấn đề niềm tin được đặt ưu tiên. Tiếp theo mới
là lý giải và theo nguyên tắc một chiều, không được phản biện nếu muốn gia nhập
(hoặc chỉ được phản biện trong qui định hẹp).
Điều kiện niềm tin đối với nhiều người có thể chấp nhận, nhưng đối với
số khác có thể không hoặc chưa tin.
Tuy nhiên, cho dù đã xác định niềm tin như trên, nhưng số chấp nhận khi
vào thực tế cuộc sống nhiều người vẫn lấy ‘tiến’ làm niềm tin chính, các niềm
tin còn lại chỉ được xem như phương tiện.
Cuối cùng niềm tin ‘tiền’ (và ‘kẻ mạnh’) được lựa chọn nhiều nhất trong
niềm tin sống của xã hội hiện đại.
Ngoài ra còn có những cách sống khác, như họ chọn niềm tin vào lương
tâm, vào sự hướng thiện làm lẽ sống. Hay họ tin vào sự công bằng hợp lý, vào
tình người, vào số mạng, v.v… kể cả tin vào sự gian dối, lọc lừa, hay đặc biệt
họ tin vào “không tin gì cả” miễn sao thấy thuận tiện là “táp” - bất kể, rồi
tính sau, v.v…
Mỗi cách sống có lý do tồn tại của nó, đúng hay sai tùy quan điểm người
nhìn và người chọn.
Trong một xã hội mà mọi người tự cho quyền mình là đúng nhất, đến khi
đối diện mâu thuẩn không ai chịu ai, như thế sẽ thành bất ổn bi kịch. Vì thế
cần có một lời giải thống nhất.
Nhưng dưới góc nhìn ‘cách sống học’ (chú thích: các tác phẩm sau gọi là
HTNT), sự sống loài người chỉ có một con đường, một cách sống chuẩn để chọn, vì
qui luật tự nhiên chỉ một, chân lý sống chỉ một, A1 chỉ một.
Đây là cái một của chứng minh, của sự phân minh trong lý trí, của niềm
tin có điều kiện, của sự lựa chọn đã an định.
II- MỘT SỐ NGUYÊN TẮC TRONG RÈN LUYỆN
CÁCH SỐNG
a- Nguyên tắc thống nhất
Thế giới tồn tại là một tổng thể vận động liên hoàn, đồng bộ, hệ thống
và thống nhất. Sự vận động của loài người đến mỗi người cũng có chung tính chất
như trên. Tuy rằng có lúc có nơi, khi này khi khác, chỗ này chỗ kia, các vận
động có vẻ như mâu thuẩn nhau, độc lập với nhau.
Ta gọi hiện tượng trên là tính thống nhất tự nhiên của tạo hóa.
Do thống nhất, nên mọi sự vận động dù nhỏ nhưng cũng là một phần không tách
rời của toàn thể thế giới tự nhiên vũ trụ.
Một cá nhân là
một tổng thể thống nhất. Cá nhân có nhận thức là cá nhân có cách sống.
Do cách sống là đại diện sinh tồn của cá nhân nên nó cũng là một tổng
thể thống nhất.
Người có kinh nghiệm sống nhìn một phần cách sống, là có thể dự
đoán đối tượng.
Do cách sống là một tổng thể liên kết chặc chẽ, nên cá nhân muốn thay
đổi một hành vi dù nhỏ trong cách sống, nếu nó mang ý nghĩa trọng tâm,
thì vô tình đang chuẩn bị phá vở sự bền vững của cách sống. Khi ấy do bản
năng tự vệ, cách sống sẽ chống lại mạnh ý định ấy.
Vì vậy khi muốn sửa một thói quen cần chú ý những tác động đề kháng dây
chuyền của nó. Đối với một cá nhân là như thế, đối với một xã hội cũng xảy ra
tương tư nhưng khác về qui mô và hình thức.
b- Nguyên tắc nhận thức lý luận
Sự sống trước hết là nhận thức.
Nhận thức và
lý luận, thiếu một trong hai sự sống sẽ không ổn. Có khả năng phân
tích lý luận (có logic khoa học) sự sống từ cơ bản trở lên, nhận
thức ắt sẽ có nhiều cơ hội phát triển.
Vốn nhận thức là một tổng thể các hiểu biết.
Các hiểu biết này nếu được chọn lọc và cho liên kết lại thành các cặp nhân
quả hợp lý, đồng thời liên tục được nối chống lên nhau thành một hệ thống
nhận thức nhất quán, vì một mục đích sống nhất định, thì đây sẽ là cơ sở để cho
trí tuệ và tinh thần của cá nhân được
phát triển lên tầm cao hơn (tầm cao của tâm).
Chất liệu tạo sự phát triển cho tinh thần, chủ yếu là từ nhận thức (sự
sống), kế mới là cảm xúc tình cảm.
Nhận thức và cảm xúc tình cảm, là cặp phạm trù biện chứng với nhau,
chúng vừa là nguyên nhân vừa là thành quả của nhau. Muốn cảm xúc mạnh
(nung nấu ý chí) và hiệu quả, thì nhận thức phải tích tụ xúc tích logic và có
hệ thống.
Ngược lại nếu để hoạt động trí tuệ rời rạc, tùy tiện, không chủ đích, thì
sau nhiều năm tháng năng lực tinh thần phát triển không nhiều, hoặc dậm chân
tại chỗ, hoặc suy giảm. Nhưng nó cũng mang tính hệ thống nhận thức nhất định. Chỉ
có điều giá trị sử dụng của nó không cao, do tính mạch lạc logic trong tư duy
không nhiều.
Vì thế nếu có khả năng phân
tích lý luận đúng đắn, sẽ là bệ
phóng thuận lợi cho vốn sống tinh thần phát triển hiệu quả, góp phần làm tăng kinh
nghiệm sống có ích.
Trong trường hợp vốn sống được xây dựng có chủ đích và có hệ thống liên
hoàn như trên, thì nó sẽ thành như chiếc áo đan len. Nếu ta bắt đầu từ mối chỉ
đầu bên này, có thể lần ra đầu mối cuối bên kia của sợi len.
Và chuỗi nhận thức như trên bao giờ cũng trùng với A1,
như thế là cách sống mới được hình
thành. Tâm được thống nhất về một mối.
Đây là con đường làm chủ cách sống triệt để nhất, hiệu quả nhất.
Tuy nhiên muốn có khả năng lý giải tất cả các hiện tượng nhân quả trong
tổng thể nhận thức (sự sống) của một cá nhân, là một vấn đề không đơn giản. Nó
đòi hỏi phải biết quan sát thực tế, biết đúc kết thành kinh nghiệm hệ thống, mang
tính hệ luận logic nhất quán.
Ví dụ: trong triết học Mác-Lê hay các triết học khác, đã giới thiệu một
số phương pháp quan sát và một số nguyên tắc lập luận như:
- Phân biệt giữa hiện
tượng với bản chất, tìm nguyên nhân từ góc độ lịch sử, mọi
tồn tại đều mang tính động theo nguyên tắc lượng tăng sẽ
làm thay đổi về chất, mọi vận động đều mang tính thống nhất, nhìn
chi tiết phải liên hệ tổng thể và ngược lại, từ tổng thể vận
động suy ra bản chất của hiện tượng, mọi hiện tượng tồn tại đều mang
tính phát triển nhân quả biện chứng, v.v…
Lý luận là
một công cụ không thể thiếu của trí tuệ. Nó giúp sự sống tồn tại như những gì
nó có và được quyền có.
Ngày nay thế giới trở nên văn minh hơn là nhờ có lý luận khoa học.
Nhận thức nội tâm, tinh thần, và sự sống (quan hệ) cũng vậy, nếu thiếu lý luận khoa học, sẽ khó có thể phát
triển hiệu quả.
Mọi hiện tượng sẽ trở nên rời rạc lộn xộn vô nghĩa, khó hiểu, v.v… dẫn
đến ngộ nhận đúng – sai lẫn lộn, tâm bất an, nhân cách rối loạn (hư hỏng), nhân
dân khốn khổ.
Đời người được định nghĩa từ cách sống.
Nếu cách sống thiếu cơ sở lý
luận khoa học, con người sẽ khó có thể tìm căn nguyên của các hiện tượng mâu
thuẩn bất thường.
Cách sống dù cách này hay cách khác nó vẫn mang tính lý luận khoa học
nhất quán. Chỉ khác là so với chuẩn A1, nó giống và
khác ra sao.
Để đánh giá một cách sống, hay tìm nguyên nhân của một hiện tượng, ta
chỉ cần truy lần từ một đầu mối nhận thức và hành động sẽ dẫn đến nguyên nhân
cuối cùng của nó trong một tổng thể tư duy nhân cách.
Nếu luận điểm trên ứng dụng thành công trong thực tế cuộc sống, thì thiện
và ác sẽ phân minh, con đường hòa bình hạnh phúc của thế gian sẽ
rộng mở.
c- Nguyên tắc nhân quả.
Nguyên tắc nhân quả là cặp phạm trù thông dụng nhất trong tiến trình
tiến hóa của xã hội loài người. Phải có “lửa” mới có ”khói” và ngược lại, một
nguyên tắc lý giải đơn giản cho sự sống thế gian.
Suy ra, mọi vấn đề mọi hiện tượng trong đời thường đều có thể tìm ra
đáp án tích cực và hoàn thiện, nếu con người tìm ra đúng nguyên nhân. Và cái tâm
là nơi lưu trữ mọi đáp án, khi con người biết khai thác nó hợp lý.
Rèn luyện cách sống là quá trình nâng cao mức sống từ thấp lên cao. Nó
giống với nguyên tắc của chuổi bậc thang hình chữ Z, từ nhân quả này tiến lên
nhân quả cao hơn, và cao hơn nữa, v.v…. Nó như ta nâng nhận thức từ A lên B, từ
B lên C, C lên D, v.v… Tức là khả năng lý giải sự sống của (mỗi) con người phải
bắt đầu từ bậc A rồi mới đến trình độ B, B mới lên C, v.v…
Nhận thức sự sống cũng phải trải qua từng cấp bậc trước khi đạt đến
đỉnh cao.
Nó không khác gì thứ tự trình độ của các lớp học phổ thống (về kiến
thức tự nhiên). Song ở đây là những lớp học về tinh thần, về nhận thức sự sống,
về kỹ năng quan hệ giữa người với người, về ý thức làm chủ nội tâm, về kỹ năng
làm chủ A1.
Trong rèn luyện nhân cách (cách sống), con người không thể đốt giai
đoạn đi tắt đón đầu (trừ hoàn cảnh đặc biệt nhưng hiệu quả cũng không cao), mà
phải tôn trọng nghiêm ngặt các bước trưởng thành theo trình tự, thì sản phẩm
“con người” mới hoàn thiện đúng với giá trị.
Chân lý sự sống có thể không khó để nhận ra, nhưng nó rất khắc khe nếu
con người vi phạm nó, đặc biệt trong vấn đề thời gian và trình tự phát triển.
Đó là qui trình phát triển tiến lên từng nấc thang nhân quả, để
chờ cho thói quen nhận thức và thực hành có thời gian thành thạo trong thực
tiễn cuộc sống.
Chỉ như thế cách sống mới thay đổi và tiến lên thành công.
d- Nguyên tắc thói quen
Sự sống con người cần có thói quen như xe cần có bánh trớn
(vô-lăng).
Thói quen là
mặt sau của kinh nghiệm, là bệ phóng của nhận thức, là bạn đồng hành của tay
nghề, là chỗ dựa của trình độ sống, v.v… . Nhờ thói quen, sự sống mới có
đà phát triển, con người mới hòa nhập thành công với môi trường sống mới (bằng
cách thay đổi thói quen).
Ví như cơ thể người có 70% là nước, thì trong cách sống có lẽ
phải 90% tỉ lệ thói quen.
Thói quen do
ý chí và thức tế cuộc sống tạo ra, dưới sự tác động của môi trường, hoàn
cảnh, và các yếu tố bẩm sinh của cá nhân.
Thói quen có
thể do cố ý hay không cố ý. Nó được tạo ra bằng sự lặp đi lặp lại nhiều lần một
hiện tượng, từ nhận thức đến hành vi, cảm xúc, lời nói, cách nói, nội dung nói,
phong cách, hành vi, cử chỉ, hành động, tư duy, tình cảm, tâm hồn, niềm tin, v.v…,
nhất là khi nó tạo ấn tượng mạnh, và được thường xuyên tái sử dụng.
Ví dụ: tình yêu, sự gian dối, sự chung thủy, nghề nghiệp, mua sắm, v.v...
Thói quen hình thành trên mọi mặt đời sống, và tâm (A) sẽ là nơi
ghi chép và lưu trữ chúng. Tiếp theo nó dùng để điều khiển ngược lại chủ
thể, để hình thành cách sống của cá
nhân.
Thói quen do cá nhân tạo ra trong quá trình sống, do có ý thức hay
không ý thức.
Nay ngược lại, nếu cá nhân có nhu cầu, có thể lập trình sống nhằm đổi
ngược lại các thói quen không có lợi.
Sự thay đổi ấy sẽ làm thay đổi cách sống, cũng là thay đổi bản chất nhân cách của cá nhân. Kết quả
nhiều ít, tùy điều kiện và khả năng phấn đấu của mỗi người. Ví dụ, sự phấn đấu
ấy hợp lý, hợp lẽ tự nhiên thì kết quả sẽ cao.
e- Nguyên tắc giáo dục càng sớm càng tốt
Các nhà nghiên cứu cho rằng giai đoạn bào thai đã có thể chịu ảnh hưởng
của giáo dục.
Trong rèn luyện cách sống, giai đoạn trẻ bắt đầu phát triển nhận thức
quan hệ và biết suy luận, là có thể giáo dục thâm nhập. Nhất là khi ý thức của
trẻ bắt đầu biết phân biệt phải hay trái, đúng hay sai,
thiện hay ác, v.v…
Như các nhà tâm lý chứng minh, đây là giai đoạn quyết định phần lớn
nhân cách trẻ trong tương lai.
Giáo dục càng tự nhiên nhẹ nhàng thân thiện không áp đặt thô bạo, sẽ
tạo thành vốn sống vô giá cho trẻ về sau.
Vai trò giáo dục càng quan trọng khi tư duy phức tạp của trẻ bắt đầu phát
triển. Trẻ bắt đầu biết phân biệt, so
sánh, liên tưởng, phân tích, lý luận, v.v… về sự sống và các quan hệ.
Các quan hệ như với mọi người, nhận thức về quá khứ và hiện tại, việc
riêng việc chung, tập thể nhỏ (bạn bè) và tập thể lớn (gia đình, nhà trường, xã
hội …), v.v…
Dựa trên các công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, người ra đã
tính ra ở độ tuổi nào (nhi đồng và thiếu niên) thì sự ảnh hưởng của giáo dục
mang tính quyết định ra sao.
Nhìn chung là theo nguyên tắc càng sớm càng có ích, nhưng theo cách như
đã giới thiệu ở trên để tham khảo.
f- Nguyên tắc đồng bộ và khoa học
Giáo dục sớm là tốt, nhưng như thế nào cũng rất quan trọng.
Như đã chứng minh, theo tự nhiên mọi cách sống lớn lên đều mắc sai
lầm chủ quan, do sai lệch trong nhận thức cơ bản dẫn đến bị lệch bản năng gốc.
Mục đích của giáo dục là giúp trẻ hoà nhập thành công với môi trường
sống.
Chúng ta thấy có hai loại môi trường cần phải hòa nhập, XÃ HỘI VẬT CHẤT
và XÃ HỘI TINH THẦN.
Tuy nhiên giáo dục ngày nay mới giúp trẻ hòa nhập thành công môi trường
“xã hội vật chất”, còn môi trường “xã hội tinh thần” thì chưa. Hoặc nếu đã có
thì chưa đạt tính khoa học.
Như thế là giáo dục chưa đồng bộ và khoa học.
(Chú thích:
“Xã hội vật chất” là con người có kỹ năng dùng và phát triển các tiện
nghi vật chất xã hội đang có.
“Xã hội tinh thần” là con người có kỹ năng quan hệ hợp lẽ tự nhiên (qui
luật tự nhiên) đã được qui định tại A1.)
Cần phải khắc phục nhược điểm trên, thì kỹ
năng sống của con người mới toàn diện, nhân cách mới phát triển tốt đẹp (không
phạm tội).
Đồng bộ và
khoa học, còn có nghĩa giáo dục phải đến với mọi người, dù ít hay nhiều tùy
hoàn cảnh. “Một con sâu làm rầu nồi canh”, vì thế không để sót sâu trong vườn
cây xã hội.
Muốn thế, giáo dục phải có đa dạng hình thức (quản cáo, giải trí, lớp
học đa dạng, đến nhà, v.v …) và được duy trì phục vụ đến suốt mỗi đời người.
Và nếu vậy, trong GIÁO DỤC HIỆN ĐẠI về NHÂN CÁCH không thể có khái niệm
“THẤT BẠI”.
Khi người ta loại bỏ một nhân
cách vì “không dùng được”, thì cá nhân ấy đi đâu ngoài phạm vi xã hội. Thế
là “sâu” phát sinh trong xã hội.
Không thể mọi “sâu” phải diệt sạch (tù tội, tử hình) khi chưa hội đủ lý
do. Vì thế chỉ còn cách giáo dục để tái hòa nhập. Điều này thế giới đã áp dụng,
nhưng kết quả chưa triệt để.
Nó sẽ đạt triệt để đối với ‘cách sống học’. Vì tin rằng đây đã là lời
giải “đúng thuốc”.
Khi giáo dục xã hội còn hạn chế, thì cá nhân tự giáo dục là một giải
pháp bổ sung kịp thời.
Nhưng cá nhân cũng cần phải như thế, kể cả khi giáo dục xã hội đã phát
huy hiệu quả.
Một hành vi, một hành động, một suy nghĩ, v.v… là một phần của sự sống
của cách sống. Một người là một phần của xã hội. Tất cả cộng lại đều ít
nhiều có mối liên quan hữu cơ thống nhất với nhau. Khi môi trường tổng thể được
rèn luyện đồng bộ thành công, thì từng cá nhân, từng hành vi đơn lẽ cũng sẽ
được thụ hưởng thành quả chung ấy, và ngược lại những đơn lẽ thành công cũng sẽ
góp phần cho thành công chung được thuận lợi.
Các thế hệ hôm nay nếu gieo nhân tốt, các thế hệ mai sau sẽ được hưởng
quả ngọt. Đó là định luật tiến hóa của tự nhiên.
g- Nguyên tắc mục đích
Làm việc gì cũng phải có mục đích cụ thể, nếu không thời gian sẽ trừng
phạt, theo nghĩa “phung phí thời gian”.
Đời người cần có mục đích cụ thể hợp lý, nếu không sẽ bị trừng phạt,
theo nghĩa “sống đời vô nghĩa, uổng phí, không hạnh phúc”.
Ví dụ:
-
Mục đích của giáo dục là rèn luyện “nhân cách và kỷ
năng nghề nghiệp”. Mục đích của rèn luyện cách sống là nhằm
đạt mục đích “kỹ năng sống hạnh phúc toàn diện”.
-
Khi giáo dục thiếu xác định mục đích “nhân cách”, hậu quả là
“nhân cách hỏng”. Khi cách sống do ngẫu nhiên định hình không xác định
mục đích, hậu quả là “không hạnh phúc”.
Xã hội (thế giới) ngày nay chưa xác định được “mục đích sống đúng
đắn đời người” là gì, theo góc độ
khoa học. Vì thế đã bị trừng phạt, theo nghĩa “mất trật tự, bất ổn, không hạnh
phúc”.
Bổ sung kịp thời “mục đích sống đúng đắn”, con người và xã hội sẽ đổi
thay tích cực.
h- Nguyên tắc suốt đời.
Cách sống và
cá nhân là sự tồn tại của hai trong một.
Cách sống có
ý nghĩa quyết định đến “hạnh phúc tinh thần” của cá nhân. “Hạnh phúc
tinh thần” là ý nghĩa quyết định cho ‘ý nghĩa sự sống đời người’.
Vậy chăm lo hoàn thiện cách sống, là một yêu cầu một đòi hỏi đặc
biệt đối với mỗi đời người. Và sự đồi hỏi này mang tính suốt đời. Như xe đang
còn chạy, tay lái không được buông.
Tuy nhiên việc gì phải làm thường xuyên suốt đời, thì nó trở thành bình
thường tự nhiên như phải ăn uống hít thở v.v… mỗi ngày vậy. Có làm đều không
nghỉ, cảm giác bình an hạnh phúc mới duy trì đến cuối đời.
i- Nguyên tắc bình đẳng trước chân lý.
Muc đích của giáo dục là tạo ý thức tự giác hành xử theo lẽ
phải nơi mỗi người.
Vì sự sống mà không lẽ phải, con người sẽ mất trật tự trong quan hệ,
đồng nghĩa với cái chết không biết lúc nào.
Theo qui ước, ai làm sai phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Vì phải tự gánh không ai nhận trách nhiệm thay, nên mọi cá nhân phải
được quyền bình đẳng trước ‘lẽ phải’, trước ‘chân lý’.
Như thế có nghĩa, họ phải được quyền học tập rèn luyện bình đẳng, tự do
tham khảo thông tin đa chiều nếu cần, tự do tranh luận khi chưa đồng ý, tự do
công khai khi muốn được trợ giúp rộng rãi. Tất cả nhằm cá nhân được trang bị đủ
năng lực trí tuệ để tự chịu trách nhiệm trước mọi việc làm do mình gây ra.
Thiếu một trong các điều kiện trên, con người sẽ mất quyền bình đẳng
trong thực tế. Đồng nghĩa sự sống không chân lý, và cái ác lên ngôi vĩnh viễn …
diệt vong.
Ngược lại nếu nhận thức được tạo điều kiện thông suốt, con người sẽ tự
nguyện tự giác chấp hành mọi qui định của lẽ phải (chân lý), như một nhu
cầu tất yếu trong cuộc sống.
Đây mới thật là nguyên lý của sự sống, mà tạo hóa tự nhiên đã khắc ghi
tại A1.
j- Nguyên tắc khó dần và phù hợp trình độ và hoàn cảnh sống.
Rèn luyện cách sống là rèn luyện thói quen sống (nhận thức và
ứng xử), từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, đến hoàn
thiện.
“Rèn luyện cách sống” nếu gọi cho đúng, là rèn luyện nhằm nâng cao TRÌNH ĐỘ SỐNG từ THẤP ĐẾN CAO
ĐẾN HOÀN THIỆN.
Trình độ sống
gần nghĩa với trình độ đạo đức, trình độ lương tâm, trình độ hướng thiện, trình
độ tư duy và nhận thức hợp tình hợp lý trong quan hệ, v.v… .
Theo cách đặt vấn đề như trên cho thấy, con người ta có thể sống tốt
nhiều hay ít (xấu) tùy thuộc vốn sống hay trình độ sống, mà họ được đào
tạo và tích lũy.
Trong xã hội phát triển, con người phải qua đào tạo trước khi hòa nhập cộng đồng.
Trong đào tạo, không thể thiếu đào tạo “kỹ
năng quan hệ” hay “kỹ năng sống” (cách sống).
Đào tạo thì phải có người học. Nếu có người học ắt có người dạy. Người
dạy môn học nào, ắt phải có nghề dạy môn học đó.
Nghề dạy “kỷ năng sống”
có lẽ tên gọi là “Nghề Sống”. Người hành nghề “Nghề Sống” có lẽ gọi là “NGƯỜI CHỈ DẪN”.
Trong thời đại văn minh, sự sống tự nó hóa thành phức tạp và
ngày càng phức tạp hơn. Vì vậy muốn giải bài toán “sống” trong điều kiện ngày
nay là không dễ,
Chính vì thế con người thời đại khi muốn tham gia vào cuộc sống, rầt
cần có sự giúp đỡ hợp lý từ những “người chỉ dẫn” để kết quả được bảo đảm an
toàn.
Phải chăng từ thời đại này trở đi, con người sinh ra lớn lên sẽ được
hướng dẫn con đường sống sao cho dến nơi đến chốn, trong đảm bảo an toàn và
hạnh phúc.
‘Người chỉ dẫn’ ắt phải
là người có trình độ sống cao hơn người ngoài nghề.
Vì thế họ có khả năng nhận thức đánh giá về ‘con người’ tốt hơn người
bình thường. Để khi chỉ dẫn hay dạy, họ biết phải điều tiết nội dung và phương
thức truyền dạy sao cho hợp với khả năng hay trình độ sống của đối tượng.
Dạy về kỷ năng sống là dạy tất cả những gì thuộc về sự thật của
cuộc sống ngoài xã hội. Vì sự sống là thật, nên kiến thức cũng phải thật, phải
đúng với thực tế.
Phải như thế, người học khi ứng dụng vào thực tế (vào đời), mới không
bị bất ngờ hay lạ lẫm khó hiểu, mà trái lại nhanh chóng hòa nhập và sớm gặt hái
thành công.
Như thế gọi là học thật và dạy thật.
Để có kết quả thật trong nâng cao ‘kỹ năng sống’, tấy yếu phải dạy đúng
và cần một lượng thời gian hợp lý.
Vì đòi hỏi thời gian, nên cần có đa dạng hình thức học tập rèn luyện, để thích
nghi với mọi hoàn cảnh và điều kiện cuộc sống.
Có lúc tập trung, có lúc phải tự túc cá
nhân, có lúc phải thông qua các hình thức công cộng phổ thông, v.v…
‘Kỹ năng sống’ như bao ngành học
khác, không thể học theo lối ‘đi nhanh
về tắt’, nóng vội, nếu người học muốn đạt chất lượng bền chắc.
Tuy nhiên khi đã đạt cơ bản, thì có thể tùy thực tế mà rèn luyện học
tập theo mức đủ dùng, đủ thành công trong phạm vi đã ổn định của cuộc sống.
k- Nguyên tắc trí lực và tâm lực.
Trong học tập rèn luyện nâng cao trình độ sống, cá
nhân sẽ đối diện với năng lực bản thân.
Theo như đã chứng minh trong trí tuệ có hai trung tâm,
trung tâm vô thức hay tiềm thức (A) và ý thức (B).
Chức năng của (B) là tư duy lý luận trực tiếp.
Chức năng cua (A) là phấn đấu chuyển kỹ năng sắp xếp
giá trị ý thức từ A1 sang A2.
Con người sinh ra có người giỏi người kém, suy ra (A)
và (B) tùy người mà năng lực làm việc mạnh hay yếu.
Sự yếu kém này có thể do sức khỏe, do ngẫu nhiên trời
sinh ra như vậy, do ảnh hưởng kỹ năng tư duy kém từ mẹ (tâm sinh lý trí tuệ
toàn diện), v.v…, nói chung là ngoài khả năng chủ động khắc phục chủ quan.
Biết rằng rèn luyện cách sống là phấn đấu tạo sự thay
đổi từ A2 thành giống với A1, thông qua
kỹ năng rèn luyện tư duy ý thức tại (B).
Nhưng nếu (B) chẳng may kém, dẫn đến thành quả tiến
lên A1
sẽ kém. Tức là ‘tình cảm đạo đức’ cá nhân có thể không bằng những người khác.
Thực tế này
trong quá trình truyền dạy và tiếp thu cần được nhận thức, để biết chấp nhận và
có sự hỗ trợ phù hợp.
Không nên biến nó thành thành kiến (tực giận nóng vội)
đối với người chịu trách nhiệm hướng dẫn (cha mẹ, thầy cô, bạn bè, v.v…), vô
tình gây mặc cảm tự ti cho đối tượng. Cuối cùng nó có thể cản trở con đường
tiến thân của “bệnh nhân”, mà đúng lý họ cũng được hưởng như bao người khác nếu
được ứng xử với chế độ ưu đãi phù hợp.
Để cuối cùng mọi phấn đấu đều đạt kết quả tốt đẹp với
mọi người, tuy có chậm hơn gian nan hơn đối với những trường hợp yếu kém tự
nhiên. Và hạnh phúc cũng sẽ đến với mọi người phù hợp với khả năng hoàn cảnh
điều kiện thực tế.
Ngoài ra phải chăng thực tế đã minh chứng, khi người
có (B) manh là (A) cũng hoạt động mạnh, hay ngược lại. Và mỗi người có thể lợi
dụng thế mạnh của một trong hai nếu bên nào phát triển trước, để dựa vào thúc
đẩy bên yếu còn lại phát triển theo.
Ví dụ:
- Nếu đã có tình cảm quan hệ tốt, thì lợi dụng nó thúc
đẫy kỹ năng nhận thức lý luận cùng tiến lên ngang bằng. Nếu trình độ tư lý luận
logic đã tốt, thì dùng nó dể kéo quan hệ tình lý với mọi người được chan hòa
đoàn kết thân thiện.
l- Nguyên tắc học tập rèn luyện để trưởng thành.
Làm người ai cũng có trí
lực và tâm lực để làm phương
tiện sinh tồn. Nhưng chúng sẽ vô nghĩa khi không được “mài dũa” đến nơi đến
chốn.
Lịch sử loài người đã trãi qua chặng đường dài phát
triển, nên trình độ sống tư duy nhận thức của xã hội ngày nay rất cao và phức
tạp. Vì thế các thế hệ tiến lên sau phải bỏ công học tập rèn luyện thích đáng,
để cập nhật trình độ sống, nhằm đủ khả năng hòa nhập hiệu quả với môi trường.
Trong các học
tập thì ‘cách sống’ là một ngành học chưa được xã hội văn minh chú ý đào tạo.
Hoặc đã có đào tạo nhưng chưa đạt yêu cầu.
Trong hoàn cảnh ấy, ‘cách sống học’ (HTNT) là một
hướng được đề xuất.
Sự sống sẽ không tự do khi con người tùy tiện định
hướng nó theo cách chủ quan tùy thích. Như thế sẽ phải trả giá từ cá nhân đến
xã hội, ngay hiện tại và trong tương lai.
Sự sống như không một qui định nào, nhưng kỳ thực nó
đã đang được quản lý tất cả bởi ai đó (tạo hóa tự nhiên). Vì thế cần được học
sống qua thay ‘đổi cách sống’, để nhận thức về nguyên nhân cái đang có và
phương thức cải thiện nó phù hợp với quỹ đạo đã qui định.
Loài người không thể rong chơi mãi theo thói quen tùy
tiện chủ quan của mình.
m-
Nguyên tắc nghiêm
minh và thân thiện.
Bản chất của qui luật tự nhiên là vận động không khoan nhượng trước mọi
cản trở.
Loài người đang sống dưới sự chi phối của qui luật tự nhiên, vì thế
tính đúng - sai trong mọi hoạt động sinh tồn, cũng phải được nghiêm
minh cho đúng nguyên tắc.
Rèn luyện cách sống là một dạng lao động giáo dục phức tạp và
lâu dài.
Nó nhằm mục đích giúp con người tuân thủ mọi nghiêm minh của qui luật
tự nhiên, một cách tự nguyên tự giác tự nhiên nhẹ nhàng và vui thích.
Trong giáo dục quan trọng nhất là giai đoạn tuổi mới lớn. Tuy nhiên đây
cũng là lứa tuổi kém về nhận thức, kém về khả năng làm chủ bản thân, kém về khả
năng tiếp thu (các lý giải phức tạp), v.v… nên rất dễ phạm sai lầm. Nó như xe
chạy thiếu người cầm lái.
Vì vậy để giáo dục hiệu quả, ngoài yếu tố nội dung truyền dạy đúng đắn,
thân thiện, sinh động, vui vẻ, hấp dẫn, phù hợp lứa tuổi và khả năng, phù hợp
tâm sinh lý, v.v… . Trong số ấy người ta còn phải chú trọng đến tính nghiêm
minh trong giáo dục.
Đồng thời với tính nghiêm minh là tính thân thiện, cởi mở, hòa
đồng, tình cảm, động viện, khen thưởng (khi làm đúng), v.v…. Đây là điều kiện
giúp tinh thần (cách sống) trẻ phát triển thuận lợi.
Sự sợ hãi căng thẳng quá mức rõ ràng không có lợi trong giáo dục, vì
làm tổn thương tâm hồn trẻ (nặng nề gây ảnh hưởng đến kỹ năng sống hạnh phúc)
về sau. Cách sống thành không bình thường và rất khó khắc phục.
Chỉ trong môi trường hòa động thân thiện tích cực yêu thương để hướng
dẫn, thì ý thức tự nguyện tự giác trong nhận thức và hành vi của
trẻ mới có cơ họi hình thành và phát triển tốt, tự nhiên, chân thật, tốt đẹp và
bền vững.
Muốn sự thân thiện thật sự đạt hiệu quả, người lớn phải có tấm lòng với
trẻ. Nói cách khác người lớn phải có trình độ sống cao, tức A1
phải phát triển tốt. Vì sự ảnh hưởng từ một nhân cách này sang một nhân cách đang được đào tạo là rất lớn.
Làm tốt các biện pháp trên sẽ giúp tránh được các biện pháp bạo lực
giáo dục (chửi mắng, đánh đập hay dùng luật pháp v.v…) có hai.
Nếu qui trình giáo dục như trên thất bại đối với một số cá biệt, thì
bước tiếp theo khó tránh khỏi phải dùng đến bạo lực giáo dục.
Tuy nhiên bạo lực giáo dục phải chính xác, gọn, không nên kéo
dài. Sau đó nên có lời xin lỗi trẻ (nếu lỡ như quá nặng), khi trẻ đã đạt kết
quả tốt. Rõ ràng đây là vấn đề đòi hỏi người dạy phải có tình thương dồi dào,
có trình độ sống cao, kinh nghiệm sư phạm giỏi, v.v… nếu không bạo lực giáo
dục có thể trở thành tội ác.
Tất cả vì muốn tránh cái đau lớn trong tương lai, mà người dạy
phải dùng cái đau nhỏ hôm nay để cảnh báo giúp trẻ nên tự giác phấn đấu
tiến lên, hòa nhập môi trường.
Ví dụ:
-
Bạo lực giáo dục
tử nhẹ đến nặng: nhờ bạn bè của trẻ góp ý, thái độ nghiêm giọng, phê phán, tách
giáo dục riêng, v.v…. Tuyệt đối không đánh. (thảm khảo các phương pháp giáo dục
hiện đại ngày nay).
Bên cạnh bạo lực giáo dục bất đắc dĩ , phải là những động tác
xoa dịu, chứng minh, lý giải hợp tình hợp lý. - Chú ý không để trẻ ngộ nhận
theo nghĩa dễ dãi, mềm yếu sinh ra “lờn thuốc” v.v….
Nếu đủ trình độ về lương tâm, thái độ ứng xử, lời lẽ, ngôn từ, âm điệu,
tình cảm, môi trường tác động, v.v…, thì người dạy cần vận dụng tất cả để giáo
dục trẻ. Trong đó cần ưu tiên chú trọng đến tình thương yêu trong giáo dục để
tăng sức thuyết phục cộng với tính chân lý trong nội dung giáo dục.
Song song phải xem lại nội dung giáo dục, sao cho dễ hiểu phù hợp trình
độ đối tượng (tố chất trí tuệ). Nếu làm tốt như trên sẽ giúp trẻ tránh hoặc hạn
chế bạo lực giáo dục.
Con đường giáo dục bằng tình thương yêu cộng với một định hướng lẽ phải đúng đắn, là
không bao giờ muộn với mọi trẻ, hoặc với mọi con người nói chung. Ngược lại con
đường của uy quyền và bạo lực chỉ có tác dụng nhất thời, và sẽ sinh phản tác
dụng về sau.
Người lớn và trẻ con, tuy khác nhau về tuổi tác và kinh nghiệm sống,
song khi đã phạm sai lầm thì bản chất hiện tượng gần giống nhau, là do kém về
nhận thức từ đơn giản đến phức tạp.
Nên trong khi biểu hiện nó sẽ
khác về chiều sâu nhận thức trong hành động, trong ý chi chủ quan, nặng nề về
hậu quả, và nhất là người lớn có thể đạt đến tuyệt đỉnh của sự dối gian từ
trước, trong, và sau lời thú tội.
Xét về trình độ sống thì sự sai lầm của người lớn, là do kém trình độ
sống từ lúc nhỏ.
Đối với lúc trẻ còn có thể dạy bảo sửa chữa, nhưng khi đã lớn tật tánh
sai lầm đã ăn sâu thành rất khó sửa, nhưng vẫn sửa được nếu muốn (công quyết
tâm). Nhất là khi bị tác động bởi một sự cố lớn, gây ảnh hưởng nặng nề tâm lý,
là con người dễ tìm về với lẽ phải chân lý để mong tìm thấy sự bình an nơi tâm
hồn.
Tuy nhiên trong môi trường xã hội ngày nay, khi sự đúng – sai còn chưa
sáng tỏ, thì khái niệm phạm tội chỉ là tương đối, nó cần có thêm nhiều minh
chứng để lý giải.
Hi vọng ‘cách sống học’ (HTNT) sẽ là một giải pháp vừa nghiêm minh và
thân thiện cho vấn đề xã hội thời đại.
n- Nguyên tắc trung thực.
Một trong những căn bệnh nặng của cách sống con người văn minh đến nay
là sự GIAN DỐI.
Khi xã hội vận hành theo nguyên lý của “kẻ mạnh”, thì tất yếu “ý thức
chủ quan” phát sinh, đổi lại là “ý thức gian dối” nẫy mầm khắp nơi, nhằm ứng
phó cân bằng quyền lực.
Suy ra xã hội “kẻ mạnh” là cha đẻ của “gian dối”.
Bản chất của tự nhiên là không gian dối, bản chất của khoa học không
gian dối.
‘Cách sống mới’ là một sản phẩm của khoa học sự sống, nên bản chất nó
không gian dối.
Người rèn luyện ‘cách sống mới’ tất yếu phải chấp nhận chọn kỹ năng
sống ‘trung thực’, không gian dối, làm căn bản thì mới thành công.
Song song với nó, mô hình xã hội cũng cần tiến lên, từ nguyên lý “kẻ
mạnh” sang nguyên lý “lẽ phải-chân lý” làm nền tảng.
Mô hình xã hội thay đổi là nhằm tạo tiền đề cho “ý thức gian dối” không
còn đất sống, để thay bằng “ý thức trung thức” tốt đẹp trong quan hệ.
‘Sống trung thực’ sẽ giúp niềm tin con người, niềm tin lạc quan vào
tương lai được đâm chòi phát triển. Cơ hội để nhân cách con người trở nên tốt
đẹp và hạnh phúc.
o- Nguyên tắc ý thức tôn ti trật tự.
Trong “xã hội kẻ mạnh”, niềm tin con người bị giảm sút dẫn đến thiếu
tôn trọng lẫn nhau, nguyên nhân của sự mất tôn ti trật tự trong quan hệ và
ngoài xã hôi. Dẫn đến tội phạm (cái ác) phát sinh và gia tăng, cuộc sống bất
an.
Trong xã hội phong kiến khi chân lý sống còn mù mờ, nên yêu cầu “hình
thức tôn ti trật tự” được chú trọng áp đặt thành điều kiện hàng đầu.
Ví dụ: vì lý do là ‘con vua’ thì đương nhiên ‘được kính phúc và tôn
vinh’.
Trong xã hội tư bản, “ai giàu tiền sẽ được tôn vinh”.
Trong xã hội cộng sản, “ai phát ngôn trung thành học thuyết M-L sẽ được
tôn vinh”.
Nay trong “xã hội lẽ phải-chân lý” (dự kiến), “ai lẽ phải-chân lý hơn
sẽ được tôn vinh”.
Như thế là hình thành nên một tôn ti trật tự mới trong xã hội. Nhưng
thực chất mô hình trật tự đã tự nhiên có từ lâu đời trong mọi xã hội, chỉ khác
là nó bi các mô hình trật tự phi tự nhiên (chủ quan) khác che khuất.
Giờ đây vì lợi ích chung của sự sống con người, nó cần được tôn trọng
trở lại để sự phát triển con người và xã hội được tự nhiên hợp lý.
Trong rèn luyện ‘cách sống mới’, ‘ý thức tôn ti trật tự’ là một trong
các yêu cầu cơ bản để nhận thức quan hệ được đúng đắn và hợp lý, phù hợp với
những cảm nhận tự nhiên từ A1.
Con người và xã hội mà thiếu ‘tôn ti trật tự’ làm gốc, thì lòng người
bất an xã hội bất ổn.
III- RÈN LUYỆN CÁCH SỐNG MỚI
a. Chọn lựa cách sống
Trong xã hội có bao nhiêu người là có bấy nhiêu cách sống.
Cách sống
nào cũng có niềm vui (hay hạnh phúc) nỗi buồn của cách
sống ấy. Sự sống cứ thế trôi qua.
Song không ai ngờ sẽ có ngày, nó cần phải được thay đổi trên phạm vi
toàn xã hội, như một điều kiện sống còn và phát triển.
Vì thường người ta nghĩ, niềm vui hay nỗi buồn là do mỗi người mỗi
cảnh, nó đã an bày bởi số phận khó có thể nói sao mới gọi là tốt hơn “trời kêu
ai nấy dạ”.
Nhìn chung con người đã quen và
không nghĩ phải thay đổi.
Tuy nhiên nếu ta quan sát sự sống cẩn thận hơn sẽ thấy, có nhiều cảnh đời
buồn khổ hơn mức bình thường, dù giàu dù nghèo cũng có những khắc nghiệt của
nó, dù quan hay dân cũng vậy, v.v …
Có người cho như thế là vô lý và hơn nữa, có thể có cách khắc phục.
Bằng nhiều minh chứng cho thấy, không phải số trời “kêu mọi người phải
khổ …”, như nhiều hệ tư tưởng kết luận.
Mà là có thể đâu đó có sự sai sót trong nhận thức con người. Giải được sai
lầm này, hi vọng sự sống loài người sẽ khác.
Hơn nữa nếu tiếp tục mãi như đang xảy ra, phải chăng xã hội loài người
đang mỗi lúc tiến vào những nan giải phức tạp chưa từng thấy, với độ nguy hiểm
càng cao hơn về sau, v.v… Và hậu quả lúc bấy giờ rồi sẽ không dành cho riêng
ai.
Vì vậy sớm muộn bài toán sự sống thế gian cần tìm một lời giải làm chốt.
Thế là “thay đổi cách sống”
được giới thiệu như một đề xuất hợp lý.
Thay đổi cách sống là nhằm giúp con người tìm ra một mặt bằng
sống công bằng hợp lý và hạnh phúc với nhau.
Cách sống là
chìa khóa để sự phân chia lợi ích trong xã hội được công bằng hợp lý, đây là lý
do mấu chốt đã làm các mô hình xã hội đã và đang có phải chịu thất bại.
Cách sống nào mang tính khoa học cao, đồng thời lý giải
hiệu quả lợi ích mang lại cho mọi người, thì nhất định sẽ được mọi người ủng
hộ. Trong số ấy “cách sống sao cho hợp với Qui Luật Tự Nhiên” là có khả năng
thỏa điều kiện tiêu chí trên nhất.
Và ta gọi nó là “Cách Sống Mới”.
Có thể nó là sự chọn lựa đúng đắn nhất trong điều kiện hiện nay.
b. Cách sống và đạo đức.
Đạo đức là
những chuẩn mức quan hệ được qui ước bởi xã hội.
Mọi quan hệ đều ít nhiều mang tính đạo đức để dẫn đường.
Vì đạo đức luôn đại diện cho một quan điểm sống nhất định.
Đạo đức nào
thì cách sống ấy và ngược lại.
Rèn luyện cách sống, về hình thức, cũng gần tương tự với rèn
luyện đạo đức nhân cách. Tuy nhiên giữa chúng có những điểm giống và những
điểm khác biệt rất cơ bản.
Một bên nhằm thay đổi ‘bản chất’ của cách sống, ví dụ như hợp với Qui
Luật Tự Nhiên.
Một bên là thực hiện ‘hình
thức quan hệ’ theo qui định.
Hay ta nói, đạo đức là một phần trong cách sống.
Xã hội thời nào có mô hình đạo đức của thời đó.
Thông thường đạo đức mang tính xã hội, nhằm phục vụ cho một tôn ti trật
tự xã hội nhất định.
Tùy theo định nghĩa “kẻ mạnh” là gì, thì đạo đức sẽ tôn vinh ngã theo
hướng đó. Và cuối cùng nhìn chung đến nay, nhân dân chưa phải là đối tượng chính
để đạo đức tôn vinh.
Vì không lợi nên đạo đức dễ mang tính áp đặt, không đồng tình, mất đoàn
kết.
Đạo đức trong “cách Sống Mới”
được định hình theo quan điểm dân gian, tức là cái đúng được tôn vinh, ái sai
phải phê phán. Như thế là đúng với lòng dân, thực tế nó trở thành công cụ phục
vụ nhân dân, chứ không còn như trước.
Sự khác nhau giữa đạo đức cũ và mới còn là, một bên mang nặng tính áp
đặt, còn một bên mang tính tự nguyện tự giác của lòng người.
Muốn như thế đạo đức mới có tranh luận đúng sai giữa con người, để phân
định giá trị của một nhân cách, cũng như để lòng người được tâm phục khẩu phục.
Vậy là đạo đức mới (cách sống mới) là công cụ bảo về quyền sống trên
cơ sở lợi ích công bằng giữa người với người, không phân biệt họ là ai (không ưu
tiên vua chúa, quan lớn nhỏ, chức tước, bằng cấp, giàu tiền của, danh vọng,
v.v…).
Bản chất của đạo đức mới (cách sống mới) rất có lợi cho người
thực hiện, vì thế mọi người đều thích hợp.
Đạo đức mới và
đạo đức cũ gần như không khác nhau về hình thức.
Cũng từng ấy ngôn từ và nghi lễ, nhưng giờ đây điều gì thấy vô lý thì không
áp dụng, điều gì hợp lý thì phát huy. Tất cả đều được minh chứng lý giải theo
hướng, người tốt người giỏi người có ích cho mọi người thì được tôn vinh đề cao.
Còn bình thường, mọi người đều phải tôn trọng nhau, quý trọng nhau,
không gây phiền hà cho nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng sống vui tươi và hạnh
phúc.
Và quan trọng hơn cả trong đạo đức mới, mọi người ai cũng có quyền nói
điều mình nghĩ để cùng hiểu những khó khăn của nhau, cảm thông nhau, và giúp
nhau chu đáo và hiểu quả.
(Khó như thế không biết có làm được không, nhưng hi vọng rồi mọi người
sẽ cố gắng.)
c. Nội dung rèn luyện ‘cách
sống mới’.
Nội dung rèn luyện cách sống từ cũ sang mới được
tóm tắt như sau:
Con người sinh ra lớn lên theo quán tính tự nhiên, không ý thức về nội
tâm (tâm hồn hay tinh thần) của mình. Mục đích rèn luyện cách sống mới,
là giúp rèn luyện thói quen ý thức về nội tâm của mình và ra sức điều
chỉnh nó trở về đúng với chuẩn qui định của tự nhiên.
Nội tâm là
một chủ thể độc lập, là nguyên nhân gốc (nguồn) của bản chất sự sống làm
người. Nó là tiếng nói chính của đời
người. Nó là quyền lực bao trùm lên mọi giá trị sinh tồn, từ cá nhân đến toàn
thể xã hội loài người thế gian.
Nội tâm là
nơi, mỗi cá nhân sẽ tìm thấy mục đích và ý nghĩa sự sống đời mình.
Thế gian vui cũng vì nó, thế gian buồn cũng do nó.
Mục đích rèn luyện cách sống là giúp mỗi người làm chủ được
nội tâm, bằng cách thay đổi
nhận thức có hệ thống, để cuối cùng thay đổi cảm giác sống từ trong
tâm.
Quá trình thay đổi trên được thể hiện thành công thức (mang tính minh
họa giải trí) sau đây:
tâm (B) = tâm
(A)
hay (B) = (A) (ptcb 2)
Trong (A) có A1 và A2
.
Do A1 cố định, nên (A) cố định hơn (B).
Suy ra (B) cần được chỉnh sửa, sao cho A2 (tiến về) tương đương với A1
.
(Biết rằng (B) và A2 là một, nên (B) thay đổi A2
sẽ thay đổi. )
Khi A2 đã tương đồng với A1
thì : (A) = A1 (pt 1)
(bước
đầu rèn luyện, kết quả A2 đã mất)
Mà (B) với A2 là một, A2 đã bằng A1 , vậy
: A1 = (B) (pt 2)
(bước hai, kết quả A1
lệnh được (B) hoàn toàn)
Từ (pt 1) và (pt 2) suy ra : (B)
= (A)
Phương trình (ptcb
2) đã được thỏa, ‘cách sống
mới’ dã hình thành tuyệt đối, đồng nghĩa với tâm (A) đã được hoàn
thiện.
Bàn luận :
Muốn chỉnh (B) về hướng A1 , ta cần phải hiểu A1 gồm những tiêu chí gì.
Qua thực tế quan sát ta thấy A1 qui định ba nội dung cơ bản sau:
- Tất cả vì lợi ích phát triển chung (gia đình, xã
hội, thế giới) trên cơ bản vì ‘lợi ích cá nhân được thỏa’.
- Phải chọn mục đích hoàn thiện (A) làm lợi ích lớn nhất của cá
nhân. Cố gắng hoàn thành mục đích trên bằng tất cả khả năng lòng thành, và với
kỹ năng lý luận hợp lý tốt nhất, trong điều kiện cho phép. Không ỷ lại, không
lười nhát, nói và làm phải trung thực, v.v….
Bên cạnh đấy là sự hổ trợ từ phía xã hội bởi các nhà tâm học hay
những người có uy tín tích cực trong xã hội.
- Hoàn thiện (A) bằng tư duy biện chứng lôgíc toàn
diện, có tình có lý , trong môi trường tranh luận công khai xã
hội (được tổ chức hợp lý, phát huy công nghệ truyền thông tối đa) nhằm đạt mục
đích hoàn thiện cá nhận, cũng là hoàn thành mục đích hạnh phúc đời người.
Từ ba nội dung cơ bản trên chúng ta suy ra các nhiệm vụ thực tế. Trước
hết được bắt đầu từ (B) làm động lực.
(B) bao gồm ý chí, tư duy, suy nghĩ, nhận thức, vận dụng kinh nghiệm
đúng đắn, hành động, cảm giác, cảm xúc, vui, buồn, niềm tin, v.v… gọi chung là ‘ý
thức vận động’.
Khi con người đang sống tức là ý thức (tư duy) đang vận động. Rèn luyện (B) có nghĩa là chỉnh
lại toàn bộ các tư duy ý thức kia sao cho không còn đối nghịch với A1.
Vấn đề có nghĩa, nhiệm vụ của
(B) là phải biết vận dụng ý chí tích cực để hướng sự sống tiến lên theo lẽ
phải do chân lý A1 qui định.
Bản chất của chân lý là đơn giản dễ hiểu. Tuy nhiên nó sẽ trở
nên phức tạp khó hiểu và bế tắc trong cuộc sống, khi sự sống con người muốn
chọn hướng phát triển ngược với A1.
Để việc rèn luyện cách sống mới thành công, vấn đề chỉ là nắm
chắc con đường của A1 mà tiến. Tất cả những gì khác A1
đều qui thành sai từ gốc (A2). Vì các vấn đề
(lẽ phải) có nguồn gốc khác A1, qua minh chứng cho
thấy, nhìn chung đều chưa đạt tính lô-gíc khoa học triệt để, nên có tinh sai.
Theo cách phân loại về tính chất của tư duy như trên, mỗi người nếu có
điều kiện tự nhận xét đánh giá về quan điểm sống của mình, để “ngộ” ra đâu là
sự khác biệt giữa lẽ đúng sai của cá nhân, đối với lẽ đúng sai
của A1.
Có phân biệt được chúng thì mục đích rèn luyện cách sống mới mới đạt
mục đích.
Khi (B) được chỉnh theo hướng A1 thì A2
sẽ thu hẹp dần với thời gian, và sự sống sẽ dần đơn giản và dễ hiểu hơn.
Các ưu tiên tham vọng vật chất sẽ nhẹ nhàng đi. Đấy cũng là thời điểm
niềm vui hạnh phúc đời người cảm thấy ý nghĩa và tốt đẹp hơn. Trong khi xã hội
và mọi người cũng đồng thời được hưởng lợi từ những đổi thay này.
Nếu đạt thành công như trên, chứng tỏ mục tiêu rèn luyện chỉnh (B) =
(A) của “Cách Sống Mới” là khả thi, là phù hợp với qui luật tự nhiên.
IV- PHƯƠNG THỨC RÈN TÂM
Xây dựng cách sống mới, là cá nhân tự lý giải để chuyển nhận
thức từ thói quen thích ‘làm sai’ sang quyết tâm ‘làm đúng’.
Vấn đề này đã xưa như trái đất, ai cũng biết nhưng người ta áp dụng chỉ
tương đối.
Khó khăn chính là đây. Rèn luyện cách
sống mới chính là lời giải cho vấn đề.
Con người chưa thật muốn sống tốt làm tốt, là do chưa biết cơ chế vận
hành của tâm là gì, và giá trị của nó
đối với sự sống đời người và đối với xã hội.
Muốn thế giới không còn chiến tranh, muốn xã hội bình yên phát triển,
muốn mọi người sống tốt với nhau, muốn mỗi người gồm bản thân không phải gặp
cảnh trái ngang buồn khổ trong cuộc sống, v.v…, tất cả đều có nguyên nhân tại
“cách sống”.
Chính vì thế con người nên “rèn luyện cách sống mới”, để giúp mình,
giúp người, giúp xã hội, và giúp thế giới.
Đây là việc làm nhỏ, nhưng nó mang ý nghĩa lớn ích lợi lớn và lâu dài.
Vì thế mỗi người cần hi sinh một phần thói quen cũ, để tự giác thay đổi
sang thói quen sống mới hợp lý hơn, hợp tự nhiên hơn. Một người đổi thay trước
mắt có lợi cho cá nhân ấy, nhưng nhiều người rèn luyện thành quả mang lại sẽ
rất phi thường, ý nghĩa giá trị của nó vô cùng lớn rất đáng để đầu tư công sức.
Ai bắt đầu rèn luyện trước nếu
không từ mỗi chúng ta.
Một trong những cách ‘rèn luyện cách sống’ hiệu quả nhất là dùng tự
kỷ ám thị (lặp đi lặp lại một nội dung muốn rèn luyện) để điều chỉnh dần
mục đích sống.
Ai đã tự thấy tốt rồi thì thôi. Tuy nhiên cách sống mang ý nghĩa giá
trị suốt đời, nên nếu muốn ai cũng có thể đầu tư thêm để hoàn thiện hơn nữa,
tâm hồn đã cao hơn nữa. Hoặc chuyển sang giúp người khác cách rèn luyện.
‘Rèn luyện cách sống mới’ thực chất là chỉnh tâm, tức là giảm
nghe theo tâm này và tăng dần số lần
nghe theo tâm kia.
Đây là công việc của ý chí cá nhân, mỗi quyết định là một phấn đấu mới,
nhiều lần sẽ giúp tâm chuyển đổi thành
công.
Trước tiên ta hãy ôn lại tóm lược cơ chế vận hành của tâm, để hiểu đối
tượng nào ta cần chỉnh sửa:
-
Như đã được giới
thiệu, sự vận động của não người ban đầu chỉ một tâm, sau chia thành hai trung
tâm chính, tiềm thức (A) và ý thức (B), với (A) gồm A1 và
A2.
-
A1 là tâm tích cực (là lương tâm cộng
với các lý giải logic v.v…). Tâm nhỏ A1
được điều khiển bởi tâm bản năng A0.
-
A2 là tâm
tiêu cực (là trái với A1 ,
thích chủ quan, không thích tham gia tranh luận cùng mọi người để tìm lẽ
phải-chân lý, v.v…). Đây là tâm hạn
chế nghe theo.
-
Thường ngày con
người sống làm việc tại tâm (B), nhưng thực chất do tâm A1
hoặc A2
điều khiển mệnh lệnh. Nếu không
tuân theo nó, cá nhân cảm thấy khó chịu buồn bực không vui không an lòng.
-
Vì vậy chuyển
tâm, là cố gắng vượt qua cảm giác không vui lúc đầu, v.v…, bằng cách chỉ làm
theo những gì đã được lý giải hợp lý mọi người trong xã hội đều công nhận.
Nguyên tắt vận hành của các tâm trên như sau (tóm tắt):
-
Tâm (B) vận động
xử lý mọi việc trong ngày.
-
Nếu (B) có tư duy
ý chí không đúng, A2 luôn đồng tình ủng hộ, A1
thì ngược lại không đồng ý và chống lại.
-
Lúc này tùy nội
tâm đấu tranh và ý chí quyết định, nên nghe theo bên nào.
-
Lúc này tùy nội
tâm cá nhân đã trưởng thành theo tâm
nào, A1 hay A2
.
-
Thường thì A2
rất mạnh, nên giành phần thắng.
-
Vì vậy nếu muốn A1
mạnh lên, hằng ngày con người phải tích cực rèn luyện, bằng thường xuyên
trau dồi kỹ năng nhận thức lý giải để tự thuyết phục mình. Nhiều lần sẽ thành
quen, nhập tâm, tức là A1 đã mạnh thêm một phần. Chờ ngày đánh bại A2
trên một số việc, sau đó tăng dần
lên cho đến thắng hoàn toàn, mọi lúc mọi nơi trên phạm vi vấn đề cá nhân thường
xuyên xử lý hay quan tâm.
Vậy là (B) đã hoàn toàn do A1 chi phối. Kết
quả rèn luyện đã thành công.
Cách thay đổi nhận thức là lúc đầu chỉnh sửa từ những vấn đề nhỏ lẻ
trước, sau mở rộng sang những vấn đề lớn hơn, rộng hơn, v.v… nếu cảm thấy cần
thiết.
Ví dụ ta gọi các hạt đậu đen là các ý thức sai (chủ quan)
của A2 cần loại bỏ, các hạt đậu trắng là đại
diện cho các ý thức đúng (khách quan) của A1
cần được gìn giữ phát huy.
Kết quả rèn luyện cách sống sẽ thành công, khi trong lọ hạt
đậu đen ngày càng vơi đi hoặc hết sạch càng tốt, Ngược lại lọ hạt
đậu trắng sẽ tăng dần theo thời gian cho đến đầy tràn.
Trên đây là cách rèn luyện phổ thông, ai áp dụng cũng hiệu quả, với
điều kiện phải có một “Trung Tâm Giải Đáp Sự Sống” (hoặc mọi người hội ý với
nhau cũng ra lời giải đúng, nhưng phải dựa trên A1
làm định hướng), nhắm giúp giải
đáp thống nhất mọi lý giải đúng-sai một cách hợp lý.
Nếu là rèn luyện chuyện nghiệp, thì phạm vi A1
chiếm ưu thế phải toàn diện trên
mọi mặt sự sống, từ vấn đề cá nhân đến xã hội nói chung.
Quá trình rèn luyện như trên sẽ đòi hỏi chi tiết hơn, chính xác hơn.
V- XÂY DỰNG Ý THỨC ĐÚNG
1. Một số khái niệm.
(B) = ý thức.
Ý thức (nhận thức) của con người đa dạng và phong phú.
Xây dựng ý thức đúng là làm sao phân biệt được từng ấy ý thức,
cài nào là sai và cái nào là đúng theo
một tiêu chí khách quan thuyết phục.
Chúng ta lưu ý, ý thức ở đây được định nghĩa như một khái niệm
chung về nhận thức. Ví dụ nó bao gồm các nhận thức, các nội dung tư duy, các cảm
xúc, các cảm giác, các trạng thái tâm hồn, các vấn đề cuộc sống, các lý lẽ, các
hoạt động, làm việc, v.v….
Xây dựng ý thức đúng là trau dồi điều chỉnh nhận thức sao
cho mọi giá trị ý thức đều không mâu thuẫn với A1.
Muốn xây dựng một tổng thể các ý thức có trong não thành “không
sai” (khách quan), chúng ta có thể chia chúng ra thành hai lĩnh vực ý thức, ý
thức quan hệ vật chất và ý thức quan hệ con người.
Quan hệ vật chất là các ý thức về các quan hệ giữa người với các vật chất.
Quan hệ con người là các ý thức về các quan hệ
giữa người với người (cá nhân và nội tâm).
- Nhận thức về quan hệ vật chất, nhìn chung loài người đã có các
ngành khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật phu trách.
- Nhận thức về quan hệ con người, lĩnh vực này đến nay chưa có
ngành khoa học nào chịu trách nhiệm toàn diện.
Các ngành khoa học xã hội tuy có nghiên cứu về con người và
xã hội, v.v… , thì chỉ mới giải đáp một phần của vấn đề con người và xã
hội.
Để bù đắp khoảng trống này là các tôn giáo. Song do chưa mang
tính khoa học khách quan, nên tính quần chúng của nó chưa triệt để.
Nay từ “Cách Sống Mới”, “CÁCH SỐNG HỌC” (“Nhân tâm học”, “Khoa
học Tinh thần”, “Học thuyết Nhân tâm”) được đề xuất như một hướng khắc phục cho
vấn đề.
“Cách sống học” có chức năng như một ngành nghiên cứu về “Đạo đức” của
con người. Tuy nhiên nó có ý nghĩa rộng hơn, khi đặt vấn đề về bản chất con
người và sự sống, về cơ chế một xã hội, về tính chân lý trong sự sống, về mục
đích ý nghĩa hạnh phúc đời người, v.v…
Hay nó là một đạo đức, nhưng được mở rộng nhằm lý giải bản chất sự sinh
tồn của loài người là gì, và đâu là con đường phát triển thịnh vượng của nó.
2. Một số nguyên tắc xây
dựng Đạo Đức Mới (Đạo Đức Nhân Tâm).
Khi ta rèn luyện ‘cách sống mới’, vô hình trung ta
đang định hình một thiết chế mới về đạo đức, nhằm phục vụ cho hoàn cảnh mới. Ta
tạm gọi là một mô hình “Đạo đức mới”.
Ta có thể mô tả nguyên tắc xây dựng ‘đạo đức mới’ như
các gợi ý sau đây:
-
Nguyên tắc 1: ý thức tổ chức
Một tập thể muốn làm việc hiệu quả, trước tiên cần có tổ
chức. Một tổ chức mà rối loạn mất trật tự, thì tập thể ấy thành vô
nghĩa hay thất bại.
Trong một tổ chức bao giờ cũng có người cấp trên và
những người cấp dưới. Trách nhiệm quyền hạn của mỗi vị trí trong tổ chức phải
được qui định rõ ràng hợp lý, có như vậy công việc của tổ chức mới trôi chảy
nhịp nhàn hiệu quả.
Muốn giữ tổ chức được tốt, đòi hỏi mọi khâu trong tổ
chức phải hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Đặc biệt đối với người
đứng đầu điều hành.
Nếu là một tổ chức nhỏ việc điều hành có thể không
khó. Nếu có vấn đề không ổn, một vị trí nào không hoàn thành nhiệm vụ, người ta
có thể loại bỏ đối tượng ấy ra khỏi tổ chức.
Nhưng sau đó số người bị loại ấy sẽ đi về đâu, ngoài cái
xã hội họ đang sống.
Vậy là xã hội, với ý nghĩa là một tổ chức lớn bao trùm
lên tất cả, sẽ phải đón nhận tất cả đủ mọi thành phần xã hội, dù là tốt hay xấu.
Đứng đầu một xã hội (quốc gia) gọi là ‘chính quyền’.
Xã hội là một tổ chức lớn cuối cùng.
Nếu như trong xã hội, có số người được cho là “không
thích hợp” với chính quyền. Số người này theo nguyên tắc phải bị loại ra
khỏi xã hội, tức là phải cho vào tù, v.v… .
Nhưng thực tế không phải lúc nào chính quyền cũng làm được
như thế, vì số khác quan điểm rất đông.
Vậy họ sẽ phải đi về đâu, nếu không sẽ là gánh cho
cộng đồng, là nguy cơ chống chính quyền.
Trước thách thức bất ổn có thể nhìn thấy trước, người
ta đã đề ra các loại luật pháp nhằm răn đe những bất trắc cho xã hội. Thế nhưng
thực tế ai cũng biết, tội phạm vẫn tiếp diễn, bất ổn vẫn phát sinh theo chu kỳ.
Nguyên nhân cơ bản là do con người chưa tìm thấy tiếng
nói chung trong sự sống.
Khi quan điểm sống cơ bản còn khác nhau, thì con người
dù đối diện trước bao nhiêu luật lệ hình phạt, họ vẫn bất chấp nghe theo tiếng
gọi của tiềm thức của những ý đồ riêng từ.
Đây chính là lúc, con người
mới thấy hết giá trị của chân lý trong cuộc sống.
Vì nó là động lực, làm cầu
nối, giúp mọi người đoàn kết lại với nhau, mà không phải dùng đến một đồng súng
ống và những mệnh lệnh áp đặt phi nhân tính.
Có chân lý mọi người sẽ tự
giác hướng về một mục đích thống nhất. Sự sống không còn những quan điểm trái
chiều bất hợp lý, để lúc nào cũng có thể phát sinh mâu thuẩn và gây ra những bất
ổn triền miên.
Và ‘thay đổi cách sống’ hay
‘rèn luyện cách sống mới’ là phương tiện duy nhất để con người tiếp cận chân lý
sống hiệu quả và thành công.
-
Nguyên tắc 2: xác định tính phải hay trái
Trong một tổ
chức mà khái niệm phải hay trái, đúng hay sai không
phân minh, thì ý thức tổ chức kỷ luật sẽ giảm.
Cái gốc của lẽ phải hay lẽ đúng là từ chân
lý suy ra. Nơi trụ của chân lý là tại tâm A1,
cái mà mọi người ai cũng có giống nhau.
Vì thế con người hay chính quyền không cần phải bỏ
công để suy diễn các lẽ phải hay lẽ đúng nào khác, cho dù nhân danh cái gì đi
nữa cũng đều sai và bất hợp lý.
- Nguyên tắc 3: nhận thức hạnh phúc
Hạnh phúc là bao gồm hạnh phúc vật chất và hạnh
phúc tinh thần.
Nếu chỉ chọn một trong hai làm “hạnh phúc độc tôn” sẽ
thành phiến diện, không hiệu quả bằng, hoặc thành sai gây hậu quả.
Ví dụ:
- Đa số con người ngày nay chỉ chọn ‘hạnh phúc vật
chất’ làm mục đích sống độc tôn.
- Các nhà tu hành đa số chọn ‘hạnh phúc tinh thần’ lầm
mục đích sống độc tôn.
Cách chọn tốt nhất là kết hợp chọn cả hai hạnh phúc
trên làm mục đích sống, với ‘hạnh phúc tinh thần’ làm gốc, khi điều kiện mức
sống vật chất và trình độ nhận thức con người thời đại đã cao.
-
Nguyên tắc 4: hệ
thống hóa nhận thức và hành động.
Trong đạo đức cũ,
con người có thể sống đạo đức chỗ này, nhưng sang nơi khác thì không đạo đức.
Hoặc khi nói thì đạo đức rất tốt, nhưng khi làm không còn đạo đức.
V.v…
Trong đạo đức mới,
sống như trên là không được. Vì nếu suy
nghĩ, nhận thức và hành động
không nhất quán, thì tâm không thể
tích lũy thành hệ thống các hoạt động hợp lý tích cực được, suy ra tâm không chuyển đổi thành công. Và
‘cách sống mới’ thất bại.
Vì thế đạo đức phải
đồng bộ từ nói đến làm. Lúc đầu, nói ít làm ít và phải đúng. Khi được rồi ta
nói nhiều dần, và làm nhiều dần, nhưng đảm bảo tất cả không sai. Cứ thế tăng
dần lên, từng bước một, phát triển kỹ năng sống mới theo từng trình độ từ thấp
đến cao, từ số lượng đến chất lượng.
- Nguyên tắc 5: cần có
người may mắn đi đầu
Đành rằng làm người ai cũng có tâm A1 làm gốc. Tuy nhiên, do
thói quen sống theo A2 ít nhiều còn ảnh hưởng, nên kỹ năng khai thác A1
chưa cao chưa triệt để, trong khi môi trường xã hội vận hành theo nhận thức A2
đã đạt đến chiều sâu của phức tạp sai lầm.
Do vậy cần có người tiên phong nghiên cứu lý giải mẫu. Khi các chốt
phức tạp quyết định đã hóa giải thành công thì mọi vấn đề còn lại trở nên đơn
giản. Chỉ cần một cá nhân có kinh nghiệm sống tích cực hay một tập thể kếp hợp
lại là đủ để lý giải vấn đề đúng theo A1.
-
Nguyên tắc 6: xây dựng quan điểm sống tối ưu
Là quan điểm sống vì tiêu chí “sống phải đúng” khác với “sống phải có
lợi”. Vì trong ‘đúng’ sẽ sinh ‘lợi’ (lợi đúng, khi hợp lý cho cá nhân và mọi
người), ngược lại trong ‘lợi’ không sinh ‘đúng’.
“Sống phải đúng” là quan điểm dẫn đường đến A1.
“Sống phải có lợi” là quan điểm dẫn đường đến A2.
“Đúng” là mọi vấn đề thực thi, nếu công khai ra mọi người (xã hội) đều
được công nhận không sai.
VI- HOÀN THIỆN CÁCH SỐNG
Khi người ta lớn, sẽ nhớ về quá khứ và nghĩ đến tương lai
(hiện tại chỉ nhất thời).
Thì tương lai là thì có thể chủ động tính toán tạo ra các “hạt
đậu trắng”, giảm các “hạt đậu đen”.
Thì quá khứ xem như đã xong, với các ưu khuyết đã xác định.
Con đường hoàn thiện cách sống, là xây dựng kỷ năng làm chủ các hạt
đậu trắng trong tương lai.
Các hạt đậu đen trong quá khứ ít nhiều đã gây cho ta những phiền
muộn bất an.
Muốn xây dựng tương lai tốt, có căn cơ, cách tốt nhất là ta lôi những hạt
đậu đen của quá khứ ra để tái tạo chúng lại thành trắng nếu có điều
kiện.
Vì chúng là nguyên nhân làm giảm chất lượng sống hiện tại, đe dọa tương
lai.
Những hạt đậu đen đầu đời
là do tính hướng ngoại tự nhiên tạo ra, những mầm tư duy sai với A1.
Kế, nó được nhơn lên khi tiếp xúc với môi trường xã hội.
Trong quá trình sống, con người phải dùng ý chí để vượt qua tác động
của A2
nhằm bảo đảm kỹ năng hòa nhập hợp lý với xã hội (hình thức).
Tuy nhiên bên trong vẫn còn nguyên những mầm tiêu cực, nó có thể bộc
phát lúc nào khi … “cháy nhà mới lòi mặt chuột”.
Việc tẩy trắng quá khứ có thể tóm lược cách thức như sau:
-
về lý luận:
Truy về tiểu sử môi trường hình thành nhân cách lúc nhỏ để suy luận
xem, nguyên nhân nào tạo nên các hạt đậu đen (thói quen tiêu cực) trong hiện
tại. Sau khi biết được nguyên nhân, ta
dùng lý lẽ khắc chế nguyên nhân sinh ra nó, sao cho hợp lý và hợp logic.
Ví dụ:
Trẻ con thường bị nhát “ông kẹ”
để sợ mà biết vâng lời cha mẹ. Hậu quả lớn lên, có tật sợ bóng tối, sợ vô cớ,
nhút nhát, v.v…. Để khắc chế có thể lý giải rằng: “tất cả là sự bịa đặt, nên không
có ‘ông kẹ’ nên không sợ nữa”.
Đến đây về lý đã thông suốt.
-
về cảm xúc:
Sau khi lý lẽ đã thông suốt, người ta chuyển qua xây dựng thói quen
cảm xúc đúng.
Để tập luyện thành thói quen cảm xúc đúng “không còn sợ nữa”, người ta
tiến hành gợi lên cảm giác cũ, như “sợ
sệt”, kế đến tự gợi ý xây dựng cảm giác mới “không sợ sệt”, sau đó tạo điều
kiện cho hai cảm xúc trái chiều đối đầu nhau.
Theo nguyên lý tự nhiên, cái tốt luôn thắng cái xấu, nên cuối cùng cái
hợp lý sẽ thắng cái bất hợp lý. Cộng với ý chí muốn cảm giác “không sợ sệt”
phải thắng cảm giác “sợ sệt”. Cộng hưởng hai yếu tố lại, sau nhiều lần thực
hiện, cảm giác tích cực sẽ thế chỗ cảm giác tiêu cực.
Khi cảm giác mới đã bén rễ vào tiềm thức, ta có thể kiểm bằng
cách gợi cho cảm giác cũ xuất hiện lại, hoặc qua thực tế. Nếu nó không
tái xuất hiện, là ta đã thành công.
Phương pháp trên gọi là phương pháp “cánh diều”, hay phương pháp “Cầu
toàn”. Được dùng cho ai muốn rèn luyện sâu. - (Chú thich: phương pháp này sẽ
được giải thích rõ hơn trong ứng dụng rèn luyện thực tế.)
Lần lượt như thế chúng ta thay tất cả những hạt đậu đen trong
quá khứ thành các hạt đậu trắng.
Ví dụ, từ cách suy nghĩ, hành động, việc làm đến các cảm giác, các ấn
tượng, tình cảm yêu ghét, nhận thức, thói quen tư duy, v.v…. đều có thể sửa
chữa điều chỉnh lại theo cách trên.
Vì tất cả các hiện tượng trên suy cho cùng đều là thói quen. Mà
thói quen không tự nhiên mà có, chúng do con người, thời gian và hoàn cảnh tạo
ra. Vì thế con người có thể luyện tập thay thế tẩy xóa chúng bằng các thói quen
tốt hơn, bằng con đường truy gốc.
Song quan trọng là, mỗi lần thay mỗi lần chỉnh sửa là mỗi lần khó. Do
đó mỗi thói quen mới đều cần phải được đắn đo suy nghĩ kỹ lưỡng, trước khi ra
quyết định luyện tập thay thế. Hoặc tham khảo mọi người.
Cách khắc phục khác mà mọi người hay dùng, là lấy ý chí lướt qua các
nhược điểm, đè lên quá khứ (quên đi). Hoặc thu mình lại tránh đối diện những
vấn đề cho rằng bất lợi với nhược điểm của mình.
Cách này cũng thành công, nhưng trình độ sống bị chặn lại (khó phát
triển) do tâm chưa thông trong quá khứ.
PHÂN ĐOẠN II: THỰC HÀNH
1. Nhận thức:
Mục đích rèn luyện Cách Sống Mới
là tạo điều kiện cho cách sống có khả năng hòa nhập với qui luật tự
nhiên. Ta gọi là nâng cao Trình Độ Sống.
Muốn nâng cao trình độ sống
-
một là làm thay
đổi nhận thức và cảm xúc theo
hướng qui luật tự nhiên.
-
Hai là thay đổi
kỹ năng sống theo kết quả trên.
Bản chất của hạnh phúc
suy cho cùng là sự thư giãn (bình an) trong tâm trạng.
Thay đổi nhận thức và cảm xúc, là nhằm tiêu trừ mọi mâu thuẩn trong tâm. Khi mâu thuẩn nội tâm không còn,
thì cảm giác thư giãn hạnh phúc xuất hiện.
Cộng thêm tiện nghi vật chất (hợp lý, không thừa) nữa, thì sự sống càng nâng chất cảm giác hạnh phúc.
Sự thư giãn có hai loại, một là thư
giãn sau thành công và hai là thư giãn sau thất bại.
Sư thư giãn sau thành công là mục đích chọn lựa để rèn luyện. Đây là sự
thư giãn trong niềm tin lạc quan tích cực.
Nó đồng nghĩa với tâm A1 đong đầy các hạt
đậu trắng.
Trong cuộc sống để có hạnh phúc, con người phải hoàn thành mục đích
mong đợi.
Song số mục đích ấy không thể nhiều vố số trong cuộc sống, và cũng
không thường xuyên thay đổi để không nhàm chán. Vì vậy hạnh phúc không kéo dài.
Rèn luyện cách sống mới là một phương thức, giúp con người duy trì niềm
vui hạnh phúc lâu dài , vì hạnh phúc từ trong lòng phát ra. \
Có hai phương thức rèn luyện Cách Sống Mới, một là rèn luyện Cầu
Toàn, hai là rèn luyện Phổ Thông.
Rèn luyện Cầu Toàn là rèn luyện theo (Ptcb) theo nghĩa tuyệt đối, tức là có giá trị trên
phạm vi toàn diện mọi lúc mọi nơi.
Rèn luyện Phổ Thông là rèn luyện theo (Ptcb) theo nghĩa có giới hạn, tức là chỉ có hiệu
quả trong phạm vi cá nhân lựa chọn.
‘Rèn luyện cầu toàn’ dành cho chuyên sâu nghề nghiệp. ‘Rèn luyện phổ
thông’ dành cho mọi người không chuyên nghiệp.
2. Thực hành.
A -
Phương thức rèn luyện Phổ Thông:
Trong
phương thức rèn luyện này có hai trường hợp:
- trường
hợp trình độ sống khởi điểm tốt.
- trường
hợp trình độ sống khởi điểm kém.
Phương thức rèn luyện phổ thông là người học
được hướng dẫn học tập rèn luyện cách sống tùy theo nhu cầu người học.
Nhu cầu đến đầu sẽ được Người Chỉ Dẫn hướng dẫn lý giải đến đấy.
Mỗi lần được lý giải thông suốt là mỗi lần trình độ
sống của người học được tăng lên, cũng đồng nghĩa vời cảm giác hạnh phúc tăng hơn một chút.
* Đối
với trường hợp người học có trình độ sống khởi điểm tốt:
Đây là trường hợp người học dễ học dễ tiếp thu, vì đã
có vốn hiểu biết (kinh nghiệm) tốt về sự sống cá nhân và xã hội.
Sau thời gian rèn luyện người học sẽ đạt trình độ
hoàn thiện, trong phạm vi mình lựa chọn.
Ví dụ: họ thành người sống và làm việc có lương tâm trong phạm vi nghề nghiệp và
gia đình, và đóng góp một phần ý thức trách nhiệm với các vấn đề chung của xã
hội, trong khả năng cho phép.
* Đối
với trường hợp người học có trình độ sống khởi điểm kém:
Đây là trường hợp người học có kỹ năng sống kém nói
chung. Thường họ thích sống theo bản năng hơn là dùng lý trí khôn ngoan hợp lý,
trong ứng xử từ quan hệ đến công việc. Nên đây là đối tượng học tập rèn luyện
khó khăn, từ khó ít đến khó nhiều.
Song tất cả đều tiến bộ sau thời gian rèn luyện, nó
tốt hơn nhiều so với trình độ trước.
Trình độ sống nói chung được cải thiện và nâng cao dần
(về vật chất và tinh thần). Quá trình tiến bộ và phát triển như trên, cũng là
quá trình họ tìm thấy sự an vui hạnh
phúc trong cuộc sống.
Trong cả hai trường hợp trên, nhìn chung mọi người đều
được ôn lại kiến thức sống phổ thông, kế là các kiến thức sống cơ bản đến nâng
cao về Cách Sống Mới.
Đồng thời mỗi người đã hình thành thói quen tự nhìn về
nội tâm của mình, để hiểu và không ngừng điều chỉnh lại những gì còn chưa ổn.
Kế đến hằng ngày, người hoc bỏ một ít thời gian dùng phương pháp Tự Kỷ Am Thị
để tự nhập tâm những kỹ năng sống mà mình muốn rèn luyện nâng cao, theo sự gợi
ý của Người Chỉ Dẫn.
B -
Phương thức rèn luyện Cầu Toàn :
Rèn luyện Cầu Toàn cũng giống như rèn luyện Phổ Thông,
nhưng nó tập trung hơn và toàn diện hơn. Đồng thời khi rèn luyện nó chú ý rèn
tâm cho đến khi đạt kết quả cuối cùng mới thôi.
Chúng ta gọi đây là con đường rèn luyện của những người chọn sự
sống làm nghề nghiệp – gọi là “nghề sống”.
Cũng có thể chỉ người rèn luyện mang tính khai phá đầu tiên mới dùng
phương thức này, còn ngoài ra có thể xen kẻ nhiều phương thức rèn luyện khác để
đạt mục đích, sau khi đã biết nguyên lý và mục đích của rèn luyện.
Do mục tiêu chính của phương thức này là rèn tâm, nên sự sống
dưới góc độ của tâm dược định nghĩa như sau:
-
Thường con người có
cách sống tại tâm (B) và tâm trạng cũng tại tâm (B).
Ví dụ 1: khi bị môi trường xung quanh tác động (cách
sống B), cá nhân bị cuống vào sự vui hay buồn không chủ động.
(tâm trạng B)
Ví dụ 2: nhìn thấy một món hàng đắt giá (cách sống B),
cá nhân có ý nghĩ muốn ăn cấp để thỏa lòng tham. (tâm trạng B)
Ta gọi như trên là cách sống B, tâm trạng B.
Cách sống B
có nhược điểm là nặng về ngoại cảnh, nên khả năng tự chủ kém, lý trí nhìn chung
phát triển hạn chế. Kết quả con người dễ sinh mâu thuẩn, đối đầu.
-
Yêu cầu của rèn
‘luyện cách sống mới’ là
xây dựng cách sống tại tâm (B)
sao cho có tâm trạng tại tâm (A).
Ví dụ 1: trong hoàn cảnh sống còn khó khăn
(cách sống B), nhưng nhiều người vẫn lạc quan vì tin ở tương lai. (tâm trạng A)
Ví dụ 2: khi ăn cơm (cách sống B) ta nghĩ đến công lao người trồng lúa,
nên quý hạt cơm, ngon cơm, và ý thức trách nhiệm … - ở đây có sự phát triển về ý nghĩa tích cực của hiện tượng sự việc.
(tâm
trạng A)
Ta gọi như trên là cách
sống A, tâm trạng A. (mới đạt MỘT PHẦN GIÁ TRỊ)
Cách sống A có ưu điểm hướng cá nhân phát triển khả năng làm chủ
bản thân (theo nghĩa tích cực), hạn chế bị ngoại cảnh tác động tiêu cực.
Kết luận, mục đích của rèn luyện ‘cách sống mới’ là chuyển từ ‘cách sống B’ sang ‘cách sống A’.
Cách rèn luyện là làm sao nhơn hiện tượng cách sống A như ví dụ trên lên thành
GIÁ TRỊ TOÀN DIỆN trong đời sống.
Tức là đối với tất cả các sự việc các hiện tượng sinh
sống xảy ra tại (B), đều được qui đổi thành ‘tâm trạng tại A’. Tức là thỏa công
thức của (ptcb 2):
(B) = (A)
Sau đây là một ví dụ về qui trình rèn luyện của một
người có tâm trạng tiêu cực sâu, nhưng sau cùng đã gặt hái thành công nhờ kiên
trì rèn luyện:
* Bước 1,
Chúng ta chọn trong ký ức một tâm trạng yêu thích nhất
để ghi nhớ làm chuẩn. Ví dụ ta chọn từ ký ức tâm trạng “mua sắm vật dụng mới”
hay “tình cảm yêu thương với người thân” hay “thi cử đạt kết quả tốt đẹp”, v.v…
làm chuẩn (tâm lý tích cực),
Tất yếu cảm xúc ta chọn làm chuẩn trên, phải mang nội
dung ý nghĩa tích cực, có lợi cho xã hội nói chung, thì nó mới hợp với A1
. Nếu điều kiện này không thỏa, sự rèn luyện sẽ bất thành.
Tiếp theo, ta chọn cho cảm xúc chuẩn đầu một cái
tên (hay một nội dung) làm đại diện để mỗi khi cần liên tưởng đến, ký ức sẽ
tái hiện lại theo yêu cầu.
Và cảm xúc (tâm trạng) này được thực tập nhiều lần để
thành thói quen phản xạ ổn định.
Ví dụ:
- ta gọi ‘cảm xúc đầu’ là “a1”, vì nó bắt đầu từ tâm A1.
Quá trình tập luyện a1 kết thúc, khi tâm trạng a1 được tái hiện thành thạo
như ý.
Xong tâm
trạng a1, đồng nghĩa nấc thang a1 đã hoàn thành.
Kế, ta chuyển sang xây dựng tâm trạng “a2” hay nấc thang a2.
* Bước 2,
Xây dựng nấc thang a2 bằng cách,
- khi tâm trạng a1 đang tái hiện, ta liên tưởng đến
một ‘nội dung nhận thức’ khác cần được chỉnh sửa (a2), theo nguyên tắc lý giải
của A1 để suy luận.
‘Cảm xúc a2’ ban đầu là tiêu cực.
Nhưng sau khi đã được lý giải thông suốt, đồng thời dùng
‘cảm xúc a1’ lắp ghép sang (tái hiện song song), nên ‘cảm xúc a2’ dần tích cực
theo ‘cảm xúc a1’.
Ta nói ‘a2’ đã thay đổi cả về Lý và Cảm (tích cực).
Như thế cảm xúc a2 đã hoàn thành.
Vậy ta có:
tâm
trạng a2 (tích cực) = tâm trạng a1 + tâm trạng a2.
Đây là một phần của ‘cách sống mới’ đã được kiến tạo.
Ta gọi:
nấc thang a2 = a12
* Bước 3,
Theo cách tương tự, từ a12 ta suy ra các nấc thang a123, a1234, v.v … đến
a123…n.
Nó chấm dứt, khi các khiếm khuyết của cá nhân đã được khắc
phục theo chuẩn A1.
Các nấc thang càng về sau phần nhiều là các phạm trù
hay các tổng thể vấn đề.
Sau một thời gian dài và sau nhiều lần lý giải khắc
chế và rèn luyện, thì mọi vấn đề cơ bản của cuộc sống xem như đã được lý giải
hoàn tất, với tâm trạng mới là a123…n tích cực.
Đây Cách Sống Mới mà Người Rèn Luyện muốn tìm.
Đến nấc thang a123…n thì nhận thức về cuộc sống của
Người Rèn Luyện đã được thông suốt toàn diện theo qui định của A1,
và nó được bảo vệ vững chắc bởi tâm trạng đã được lưu trữ trong tiềm thức A1.
(Chú
thích bổ sung:
Sau nấc thang cuối a123…n là nấc thang a0 (“a không”).
Đây là tâm trạng “trống không”, vì trong tâm không còn
những mâu thuẩn nan giải phải xử lý. Mọi sự phải chăng đã có qui luật tự nhiên
đảm nhiệm.
Vì thế tâm trang thư giãn vô ưu bình an bắt đầu lấn
chiếm tâm hồn.
Khi a0 xuất hiện đồng nghĩa lọ hạt đầu trắng
A1 đã đầy tràn, cũng là lúc lọ hạt đậu đen
B đã trống, hay đã bị hòa nhập vào lọ
hạt đậu trắng A1 thành một tâm (A) thống nhất.
Khi a0 xuất hiện cũng có nghĩa Cách Sống A trở thành
hiện thực, và Cách Sống B lùi vào quá khứ.
Ngoài ra tư duy và
ý chí lâu nay được dùng trong lý giải rèn luyện nâng bậc thang, nay Người
Rèn Luyện sẽ chuyển toàn bộ năng lượng dư thừa này vào tâm (A) nhằm thúc đẫy cảm
giác a0 phát triển.
Thành quả a0 dần chiếm hết
(A), và đưa nó tiến về một nhân cách, mà ai đó gọi là … ‘chân như’ (?).
Từ khả năng này, Người Rèn
Luyện đem khả năng phục vụ trở lại mọi người.
Nhằm đưa sự sống trở về với
quỹ đạo của qui luật tự nhiên.
Chú ý rằng, quá trình lý giải khắc chế các nấc thang
như trên, cần được lý giải theo một hệ luận quan điểm thống nhất xuyên suốt -
vì bản chất của chân lý là duy nhất. Nếu không sẽ bị lạc mất tiêu.
Song song với quá trình rèn luyện như trên, cuộc sống đời
thường vẫn xảy ra, vì vậy Người Rèn Luyện phải duy trì một lúc hai khái niệm
sống, ‘nội tâm rèn luyện’ và ‘hình thức xã hội’.
‘Hình thức xã hội’ chưa chuẩn nên cần phải chú ý hạn
chế sai lầm, nhằm tạo thuận lợi cho tâm không phải tốn thêm sức đối phó.)
3. Diễn giải.
* Cuộc sống là đoạn đường ai cũng phải đi. Nó dài hay
ngắn tùy mệnh số. Con đường không có chiều ngược lại. Một lần ngã là một đoạn
đường đã hỏng, và không thể quay lại để sửa chữa. Nó chỉ có thể khắc phục bằng
phần đường tương lai còn lại, hoặc để lại kinh nghiệm cho các hậu thế mai sau tránh
sai phạm.
Nếu kém hiểu biết, số đoạn sai phạm nhiều lên, vô tình
rút ngắn đoạn đường tốt đẹp muốn có của đời người. Đến một lúc số đoạn xấu vượt
quá giới hạn cho phép … thế là ăn năn hối tiếc nhưng đã quá trễ.
Tất cả chỉ vì sự chủ quan thiếu hiểu biết từ cá nhân đến
xã hội.
Nó có phần do sự ỷ lại, vì chủ quan tin rằng với ý chí
và năng lực sẽ thắng tất cả. Nhưng không biết rằng, ý chí và năng lực nếu trái
qui luật tự nhiên sẽ thành tự phá hoại.
Cuộc sống ví như tấm bản đồ đã định sẵn. Nếu cố gắng
không chủ quan tham khảo mọi gốc cạnh nhận thức xã hội, sẽ tìm ra đường để đi,
còn chủ quan một ý chí nhất định sẽ lạc lối.
Sự sống luôn không sẵn bản đồ hướng dẫn. Người đi phải
tự mò mẫm và những vấp ngã cần thiết.
Ai đúng ai sai, khó biết hết, chỉ biết nên chọn đường
đúng mà đi.
‘Rèn luyện cách sống’ là một phương tiện để chọn hướng
đi.
Nó ở đâu, mỗi cá nhân phải đi tìm theo cảm nhận riêng
tư.
Nếu ai tin thì ‘qui luật tự nhiên’ và ‘tâm A1’.
Còn kết luận ra sao là do hoàn cảnh cá nhân mỗi người, không ai có thể thay
thế.
Đã qua bao nhiêu thời gian, mà con đường trên bản đồ
vẫn chưa xác định.
Họa may từ nay phải thế chăng là một lời giải.
Như lá phải rụng về cội. Đời người ai cũng tìm về bến
hẹn bến đỗ.
Con người dù bắt đầu từ cách sống nào, thành quả ra
sao, nhưng đích lớn nhất cũng chỉ có thể là cái bến hẹn như thế thôi. Không hơn
không kém.
‘Rèn luyện nhân cách’ là ẩn số cuối cùng phía sau những
khái niệm ‘tự do hạnh phúc hòa
bình thịnh vượng v.v....’
Lịch sử ngàn năm đã chứng minh, đến nay cũng chứng ấy
kết luận.
Hạnh phúc vật chất, ‘tiền’, nếu cuộc sống chỉ có bấy nhiều làm kim chỉ nam, thì nhân cách
sẽ mất điểm tựa.
Hạnh phúc tinh thần, ‘nhận thức khoa học’, có nó rõ là có tất cả, kể cả những gì ngày nay còn
thiếu, còn kêu ca, …
Chúng ta có phương trình định nghĩa hạnh phúc (hp 1)
như sau:
Mong
muốn +
Được thỏa = Cảm xúc hạnh phúc (hp 1)
Trong phương trình trên yếu tố “mong muốn” là bất kỳ,
nó có thể đúng hoặc sai. Nếu nó là “mong muốn sai”, thì “cảm xúc hạnh phúc” sẽ
không bền và không trọn vẹn.
Cách chọn có lợi nhất là “mong muốn đúng” tức là không
trái với ‘Qui Luật Tự Nhiên (A1)’.
Đây là chân lý duy nhất trong tầm nhận thức của con
người. Và nó cũng đã từng chứng minh tính hiệu quả của nó, trên vô vàn vấn đề.
Nay nếu không chọn và tin nó, để tin vào những huyền
bí …, thì sức người lấy đâu khả năng chứng minh đáng tin cậy.
‘Qui luật tự nhiên’, đơn giản là sống biết ‘hướng
ngoại’ và ‘hướng nội’, để làm chủ tất cả.
Nhưng khoa học mới giỏi
‘hướng ngoại’. Hay thì cũng hay, nhưng đi lâu tắt đường.
Vì bí đường nên quay tìm
về ‘hướng nội’.
Khi ấy mới ngộ ra rằng,
trong ‘hướng nội’ đã bao gồm cả ‘hướng ngoại’. Vì mọi ‘hướng ngoại’ cũng từ nội
mà ra, chứ ở đâu có nó. Vì thế nắm vững ‘nội’ là có ‘tự do hạnh phúc’.
Vậy phương trình (hp 1) được viết lại như sau:
Mong muốn đúng (hướng nội) + Được thỏa = Cảm xúc hạnh phúc toàn diện
(hp 2)
Mong muốn đúng
(hướng nội), còn được gọi là “lẽ phải tinh
thần tuyệt đối”. Thay vào (hp 2) ta có:
Lẽ phải tinh thần tuyệt đối
+ Được thỏa = Cảm
xúc hạnh phúc toàn diện
(hp 3)
Vậy là tất cả tùy vào “nội” hay “ngoại”, trong mục
đích nhắm đến.
Nếu chưa thông trong chọn lựa, vì vậy xã hội cần có
các “Trung Tâm Chỉ Dẫn” để tư vấn lý giải kịp thời mọi thắc mắc.
Ai thấy không đúng được tự do tranh luận toàn xã hội,
để có lời giải đáp cuối cùng. Và nó nhất định cũng sẽ chọn “nội”.
** Một hướng diễn
giải khác, rèn luyện Cách Sống còn là rèn luyện cách nhìn về cuộc
sống.
Theo nguyên lý, trong sự sống con người chỉ được quyền
chọn một trong các ‘mục đích’, làm mục đích sống chính của đời người.
Nếu nói mọi "mục đích” đều có “ý nghĩa” riêng của
nó.
Giời ta chọn “Ý NGHĨA” làm mục đích sống chính đời
người.
Vì “ý nghĩa” tạo ra mục đích, còn “mục đích” chỉ một
và hết.
Như người ta nói “niềm vui là quá trình tiến đến, chứ
không là đích đến”.
Kết luận, nếu chọn “mục đích” làm lẽ sống, niềm vui
hạnh phúc sẽ hạn hẹp. Ngược lại nếu ta chọn “ý nghĩa” làm lẽ sống, niềm vui
hạnh phúc sẽ to lớn không có điểm dừng.
Ngày nay khi các “mục đích” vật chất đã được thỏa, thì
“ý nghĩa” sự sống nổi lên như một mục đích sống mới.
Nó sẽ giúp con người tìm thấy giá trị hạnh phúc lớn,
đang ẩn sâu trong tâm hồn (tinh thần).
Chọn “Ý NGHĨA” làm mục đích sống, là chọn ĐÚNG hay SAI trong hành động làm lẽ sống chính.
Nhiều hành động tạo thành ‘cách sống’ đúng hay
sai.
‘Đúng’ đồng nghĩa với ‘hạnh phúc’, ‘sai’ đồng nghĩa
với đau khổ.
Muốn “ý nghĩa” đúng chỉ có cách không trái với qui
luật tự nhiên.
Sự sống cần có lý lẽ, như sông cần có nước.
Có lý lẽ mới thấy đường dẫn đến qui luật tự nhiên.
Lý lẽ có rất nhiều loại để chọn, nhưng chỉ có một có
thể dẫn đến qui luật tự nhiên. Nó là lý lẽ của A1. Ta gọi là
‘lý lẽ đúng’.
Bản chất của ‘lý lẽ đúng’ là đoàn kết mọi người, không
cần đến quyền lực chủ quan áp đặt.
Vậy sự sống nên chọn lý lẽ nào … ./.
HẾT
TP.HCM, ngày 21 tháng 4 năm 2012
HOÀNG VĨNH SƯU (LCH)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét