3 - MỞ
CÁNH CỬA TỰ NHIÊN
(Chú
thích: - ‘Lương tâm A1‘
hay ‘tâm A1’, nôm na là “lương tâm đã học thuyết hoá”. Với ý
nghĩa, từ đây đủ để lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn loài người, một
cách khách quan và khoa học. – Vì A1 là khởi nguồn của chân
lý, là trung tâm cuối cùng điều hành
sự sống, là QLTN của xã hội loài người.)
A◆
MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN
PHẦN
I : CHỦ NGHĨA DIỄN ĐÀN
“Không
có gì quý hơn độc lập tự do”.
“Không có gì quý hơn độc lập tự do và
hạnh phúc”.
Độc
lập tự do cho đất nước và cho từng người dân, là mục đích cuối cùng của chân lý
“không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Một
đất nước đã có độc lập tự do, mà quyền tự do độc lập của mỗi cá nhân chưa đầy đủ,
như thế con đường cách mạng vẫn còn dang dở.
Hơn
nữa, có độc lập tự do mà chưa đạt ‘hạnh
phúc’. thì sự sống còn nhiều vấn đề phải tranh luận.
Trong
một tập thể, ngay cả nếu mọi người đếu sống hạnh phúc chỉ một người không, thì
chưa gọi là ổn vì mức an toàn chưa cao. Huống chi trong một tập thể ngày nay, số
người đạt hạnh phúc như ý còn rất hạn hẹp.
“Độc
lập Tự do” và “hạnh phúc” tuy là hai mục tiêu nhưng trong thực tế nó phải là một,
thì sự sống mới ý nghĩa.
Nhưng
trong đấu tranh sinh tồn, hai mục tiêu trên nhiều lúc đã tách rời nhau. Trong
đó mục tiêu “độc lập tự do” cụ thể dễ hiểu nên con người phấn đấu đạt trước
hơn. Kế mới phát hiện mục tiêu “hạnh phúc”, là một tiêu chí lớn khác của cuộc sống,
đặc biệt nó khó hơn nhiều so với tiêu chí “độc lập tự do”.
Chặng
phấn đấu hoàn thành tiêu chí đầu vô cùng gian khổ. Đến tiêu chí sau nhìn qua tưởng
dễ, nhưng kỳ thức nó vô cùng khó khăn và phức tạp theo kiểu khác. Bởi nó như vô
hình không đích đến cụ thể.
Ví
như trong cuộc sống, nếu chủ quan con người rất dễ ngộ nhận giữa hạnh phúc thật và hạnh phúc giả.
Đa
số con người thời đại rất thích chọn tiêu chí hạnh phúc giả làm hạnh phúc
thật.
Hạnh phúc giả là chỉ chú trọng phấn
đấu vì ‘hạnh phúc cá nhân (gia đình)’, không quan tâm đến ‘hạnh phúc chung cộng
đồng xã hội’.
-
-
- -
–
Đành rằng giai đoạn đầu khó khăn, phải quyết
tâm phấn đấu vì sự sống còn của cá nhân (gia đình) là không sai. Nhưng khi đã
thành công, tài sản đã có của dư của thừa, quyền lực thâu tóm đã thành độc quyền
vô hạn …, mà không sang sẻ hợp lý với mọi người với nhân dân, Là điều phi lý,
phi tự nhiên, phi đạo đức.
-
Một
bên có tất cả sự đầy đủ đến thừa mứa, một bên thiếu trầm trọng những vấn đề thiết
yếu, … đó là điều bất an muôn thuở của sự sống.
-
Vậy
đâu là nguyên lý liên thông vĩnh viễn cho vấn đề…
-
-
- -
Như
thế gọi là chọn nhầm hạnh phúc giả, vì
nó phiến diện.
Đặc
điểm nó là không bền, không toàn diện, không thể phát triển chiều sâu, trái tự
nhiên. Hậu quả … mức sống tinh thần kém phát triển, trí tuệ bị sói mòn, nhân
cách suy giảm, mâu thuẩn quan hệ đạo đức với mọi người ngày càng bị khoét sâu,
tâm bất an, tuổi già buồn khổ, mất hạnh phúc, mất phương hướng, v.v…
Đặc
trưng của hạnh phúc giả, là thói
quen đề cao mục đích hưởng thụ vật chất,
thói quen sở thích sở hữu tiền vô hạn,
và thói quen sai mê quyền lực tuyệt đối nếu
có cơ hội.
HTNT
gọi hạnh phúc giả là “sống vì hạnh phúc vật chất đơn thuần”, bỏ qua “hạnh phúc tinh thần” là điều kiện thiết
yếu để ‘KIẾN TẠO HẠNH PHÚC THĂNG HOA, PHÁT TRIỂN TÂM HỒN NHÂN CÁCH TOÀN DIỆN’.
Vì
thế cá nhân chọn sai như trên sẽ gây thiệt thòi, và nguy hiểm cho bản thân, gia
đình, và cộng đồng (xã hội). Nếu kéo dài sai lầm, cá nhân sẽ thành … ác, phi
nhân cách, rất khó khắc phục.
Quá
trình chuyển đổi từ chọn hạnh phúc giả
sang hạnh phúc thật, là vô cùng khó
khăn. Suy ra “hạnh phúc” là một khái niệm lúc đầu tưởng dễ, nhưng khi xã hội tiến
lên văn minh vật chất (số lượng tài sản cá nhân chiếm hữu có thể lớn vô hạn),
thì vấn đề tự nhiên trở thành phức tạp khôn lường, ngoài sức tưởng tượng của cuộc
sống đời thường.
Khi
thời thế thay đổi, tư duy ý thức và hành động vẫn không thay đổi, thì chức vụ
càng lớn càng mang trọng tội … với tự nhiên, với sự sống, với loài người, với
nhân dân, với xã hội, với cá nhân, và với lương tâm. – Nhưng nhiều người không
biết, không ý thức đúng vấn đề.
Vì
lẽ đó, cần có một công trình nghiên cứu để hoá giải hợp lý, cái không thay đổi
thành … chấp nhận thay đổi kịp thời vì sự sống … đời người ngắn ngũi.
Nghiên
cứu rằng …
Tự
do,
Trước
hết là sự tự do về cơ thể (mang tính vật chất, như cơm ăn áo mặc gạo tiền
… ).
Sau
là sự tự do về trí tuệ (mang tính tinh thần, như tự do tìm hiểu, tranh
luận, chọn mục đích sống, v.v…).
Lòai
người sống có hạnh phúc hay không, tùy thuộc chủ yếu vào hai phạm trù tự
do cơ bản trên. Mỗi người
đã ý thức về nó như thế nào, và thực hiện ra sao trong cuộc sống.
Phạm
trù tự do vật chất, đến nay tạm xem như thế giới đã cơ bản thành công.
Còn lại phạm trù tự do tinh thần,
loài người đang chưa thật sự thành công còn nhiều vấn nạn phải giải quyết.
Nhiệm
vụ thời đại là làm sao giải toả vấn nạn trên, trả lại nó cánh cửa tự do, như đã
mong đợi từ bao thời gian qua.
Khi
xã hội phát triển thì, “không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc”
là một đòi hỏi tất yếu của sự sống, của từng cá nhân mỗi người. – ‘Hạnh phúc’ là đồng nghĩa với hai phạm
trù tự do trên được thỏa.
Khi
xã hội phát triển người ta nhận ra rằng, ‘tự do về trí tuệ’ là tiêu chí phát triển tối thượng của sự
sống, là đỉnh cao phát triển của nhân cách. Trong đó ‘kỹ năng quan hệ’ mang
một ý nghĩa đặc biệt, vì nó là linh hồn của sự sống, là tiêu chí tạo nên giá trị
và ý nghĩa của hạnh phúc.
Sự
sống mà thiếu ‘kỹ năng quan hệ’, như xe chạy thiếu chất bôi trơn.
Lịch
sử lòai người tuy đã trải qua nhiều ngàn năm đau khổ và hạnh phúc, nhưng vẫn
chưa thể rút ra bài học kinh nghiệm hoàn chỉnh.
Nhưng
có một kinh nghiệm không khó để rút ra, đó là hạnh phúc không nên ích kỹ, chỉ
dành riêng cho một thiểu số người. Nó cần được nhơn rộng ra cho mọi người cùng
hưởng, thì hạnh phúc của từng cá nhân mới thật sự giá trị và mang ý nghĩa trọn
vẹn.
Hạnh
phúc có thể định nghĩa theo cảm nhận riêng của từng người, nhưng sự thật nó cũng
từ công thức cơ bản chung mà ra.
Đi
tìm hạnh phúc cho mọi người đến mỗi người, là đi tìm lời giải cho công thức hạnh
phúc cơ bản trên – (thoả hai phạm trù tự do cơ bản).
Đi
tìm lời giải, thực chất là đi tìm lý do vì sao ‘quyền sống hạnh phúc’ của con
người từ lâu không thể phát triển đến đích. Cái gì hay nguyên nhân nào đã cản
trở nó ? phải chăng đích đến có thể không quá khó, nhưng khó là do loài người tự
gây khó cho nhau.
Biết
rằng nếu tìm ra nguyên nhân cản trở ấy, cũng là lúc con người tìm ra ‘CHÂN LÝ SỐNG’.
Có
thể nó không quá khó để hiểu, để vận dụng, nhưng nó LÀ chìa khoá quyết định để
sự sống THẾ GIAN mở được “CÁNH CỬA TỰ NHIÊN”.
I.
THỜI
ĐẠI.
Loài
người đã có nhiều ngàn năm sống trong lạc hậu và chậm tiến. Song chỉ với vài thế
kỷ gần đây, nhờ có các phát minh khoa học mà loài người đã phát triển đột biến
về mức sống.
Sang
đầu thế kỷ 21, sự trổi dậy trên càng tiếp tục được phát huy. Những phát minh mới
không ngừng ra đời càng làm sâu sắc hơn chất lượng phát triển của thời đại.
Song
bên cạnh những thành quả phi thường trên, là những hiện tượng tiêu cực của xã hội
loài người. Nó cũng biết gây nên nhiều “ấn tượng” không kém.
Có
vẻ như văn minh loài người tiến bộ đến đâu, thì lực lượng tiêu cực cũng tích cực
bám gót đồng hành ngang tầm đến đó. Một
nghịch lý đã và đang thách thức không nhỏ cho sự an nguy của thời đại.
Đây
có phải là lý do chính đã cản trở tiến trình đi tìm hạnh phúc của loài người
chăng.
Nhìn
vào những tiêu cực biểu hiện ngoài xã hội, người ta không khó để nhận thấy
nguyên nhân thuộc về vấn đề ‘đạo đức
xã hội’, ‘đạo đức con người’. Nơi
đấy cái ác đang thách thức cái thiện.
Ý
thức được vấn đề, người ta đã cố gắng bằng nhiều biện pháp, bằng nhiều phương
thức để khắc phục vấn đề.
Từ
giáo dục đến luật pháp, đến tôn giáo, các tổ chức đoàn thể, thông tin tuyên
truyền, giải trí, âm nhạc v.v… đã vào cuộc, với niềm tin chiến thắng.
Thế
nhưng kết quả lúc này lúc khác, cái ác vẫn biết cách quay về con đường cũ của
riêng nó, tiếp tục là một thế lực hùng mạnh của thời đại.
Từ
thực tế trên có thể rút ra kết luận, những biện pháp đối đầu truyền thống đã
không thành công như mong đợi.
Vấn
đề là phải đi tìm “một chân lý
mới” , một lý thuyết mới, nhằm thay thế các “toa thuốc” đã lờn.
“Chân
lý mới” ấy phải chăng đang thuộc về ‘tâm A1’.
Tức
là vấn đề đã đến lúc, bài toán về ‘bản chất con người’ được đặt ra.,
Sự
nghiệp đấu tranh chống cái ác, xây dựng cái thiện, sẽ mãi không thể thành công
nếu chỉ bằng những lý lẽ trên không trung. Tức là nó thiếu cơ sở khoa học, thiếu
cơ sở bám chặt vào thực tiễn chân lý.
Lòng
nhiệt tính, những hô hào bằng lời nói và hành động, sự quyết tâm, v.v… không đủ
để đưa cái thiện đến đích chiến thắng.
Nó
phải có cơ sở nghiên cứu cụ thể, mà qua đây con người có thể kết luận xác đáng,
cái thiện có thể thành công hay mãi mãi thất bại, hoặc thoả hiệp cùng tồn tại
song hành.
Tuy
nhiên niềm hy vọng lớn nhất, vẫn là cái thiện sẽ toàn thắng, cái ác sẽ vĩnh viện
bị chôn vùi vào lịch sử.
Và
loài người nhiều hy vọng sẽ được sống trong một thế giới của nhiều mộng mơ …
nơi thiên đường hạ giới.
II.
VĂN MINH ĐẠO ĐỨC
Làm
người,
“Cần
có niềm tin quy luật tự nhiên, niềm tin chân lý, niềm tin lương tâm, v.v…
Cần
có tính trung thực, khách quan, dũng cảm, tự trọng, tích cực học tập, vượt khó,
kiên nhẫn, ý chí, v.v…
Cần
có khả năng hoàn thành công việc, trách nhiệm, ý thức sáng tạo, kỹ năng tranh
luận, nghiên cứu, chấp nhận dấn thân, v.v….”
Trên
đây là những phẩm chất không thể thiếu của mô hình ‘đạo đức mới’, được đề xuất.
Hay
ta gọi nó là “Văn Minh Đạo Đức” (VMĐĐ).
VMĐĐ
không mới không lạ, chỉ khác là, nó tập hợp lại thành một danh sách về tiêu chí
phấn đấu, nhằm đòi hỏi cá nhân phải hoàn
thành.
Các
tiêu chí trên như tấm thẻ căn cước để cá nhân bước vào một thế giới văn minh kiểu
mới, với mức sống nhiều tốt đẹp hơn hạnh phúc hơn.
“Đạo đức” là một khái niệm đã hình
thành từ rất xưa. Và chắc chắn theo thời gian nó đã được chỉnh sửa rất nhiều
khi sự sống cảm thấy không còn phù hợp.
Thời
nào đạo đức cũng dạy con người những điều hay lẽ phải, để sự sống đạt thành
công nhất.
Nhưng
thực tế, ở đâu, ở thời nào, cũng có những con người, họ rất biết cách làm ngược
lại những gì các lẽ phải của các chuẩn mực đạo đức trên qui định.
Điều
này chứng tỏ khái niệm ‘đạo đức’
không phải lúc nào cũng “linh” trong cuộc sống.
Do
vậy vấn đề bài toán ‘đạo đức’ rất đáng được con người nghiên cứu lại từ gốc.
‘Đạo đức’ là gì ?
Muốn
hiểu ‘đạo đức’, trước hết chúng ta phải hiểu, con người là ai, là cái gì?
Bản
chất con người là sao, sự sống thế nào, v.v…?
Và
đâu là mối liên quan giữa đạo đức và bản chất con ngượi ?
Phải
chăng nếu đạo đức mà ngược với bản chất con người, thì sự cấm đóan dù nghiêm khắc
hay chặt chẽ đến đâu, cuối cùng cũng thành vô ích phí công.
Và
đấy có thể là cái giá phải trả mà loài người từ lâu đã phải thường xuyên nếm
mùi …
Mục
đích cao nhất của đạo đức dù là gì ?
Có
lẽ cao nhất dưới góc độ khoa học và thực tế cuộc sống, là được “sống hạnh phúc trọn đời”.
Từ
quan điểm này chúng ta quan sát các quan điểm đạo đức xưa nay ra sao. Nó có
đúng như vậy không.
Xưa
nay đạo đức được dựng lên thường chủ yếu nhằm phục vụ cho nhu cầu ổn định cuộc
sống trước mắt.
Ví
dụ: đừng tranh giành, mà hãy chia nhau cho công bằng.
Mục
đích xa hơn nữa của đạo đức, là nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng, một giới
nào đó ... đang có quyền lực hơn.
Ví
dụ: vua, kẻ mạnh, giai cấp quyền lực, giàu có, người lớn, hay vì một niềm tin
cao xa, v.v… .
Các
mục đích đạo đức như trên rõ ràng không lợi cho mọi người nói chung, theo nghĩa
hạnh phúc cụ thẻ cho mọi người, mà chỉ có lợi cho một thiểu số người. Vì thế
tính chấp hành đối với số đông không cao, đồng thời đòi hỏi phải thường xuyên
có sự răn đe bắt buộc bằng bạo lực (trực tiếp hoặc gián tiếp – con người đi tu
khi ngoài đời quá khổ).
Nếu
có một ngày, mọi người được trao quyền tự do xây dựng mô hình đạo đức theo ý
mình thích, thì chắc chắn nó sẽ khác rất nhiều so với các mô hình đạo đức đang
có, đang áp đặt.
Ta
gọi mô hình giả định trên là “VĂN MINH ĐẠO ĐỨC” (VMĐĐ).
VMĐĐ
là kiểu đạo đức “tất cả vì lợi ích HẠNH PHÚC của người dân là trên hết”.
Nếu
thực tế được hình thành, có thể hình thù của nó sẽ như sau:
- đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, ai cũng
thích, ai cũng muốn thực hiện nó nghiêm túc. Vì thấy có lợi cho cuộc sống, từ lợi
ích vật chất đến lợi ích tinh thần, từ lợi ích trước mắt đến lợi ích lâu dài, từ
lợi ích cá nhân đến lợi ích mọi người,
v.v…
-
đây là kiểu đạo đức ‘hợp tự nhiên’, vì
mọi người là đồng tác giả.
-
đây là loại đạo đức không cần đến quyền lực chủ quan để răn đe, mà dùng lẽ phải
– chân lý (LPCL) để lý giải thành công mọi sai lầm.
Để
biến mô hình đạo đức trên trở thành hiện thực, điều kiện tiên quyết là con người
“phải muốn sống tốt, sống tích cực, sống
hạnh phúc cho bản thân và cho mọi người”.
Mà
điều này, may thay đã có sẵn trong tâm A1 của mọi người.
Tuy
nhiên có cái khó là, về nhận thức tâm A1 ai cũng có thể
có, nhưng để sống và hành động theo nó thì … đa số mọi người thích chọn theo
tâm A2 hơn.
Vì
thế sự sống cần có thời gian, để con người (xã hội) chuyển từ thói quen của tâm
A2 sang tâm A1.
– Một sự chuyển đổi sang “cách sống mới”
như tên gọi của tác phẩm đầu …
Vì
yêu cầu của sự chuyển đổi trên mà “HỌC THUYẾT NHÂN TÂM” (HTNT) được đề xuất
hình thành, nhằm tạo nhịp cầu lý giải thông suốt trong tư duy con người.
Vấn
đề cho thấy sự nan giải của thế giới loài người, nằm ở ‘Thói Quen Nhận Thức’ và
‘Thói Quen Hành Động’, cả hai không trùng nhau.
Hay
con người (cá nhân) có thói quen, phản bội lại con người (nội tâm, thuộc bản chất
cơ bản) của chính mình.
Suy
rộng ra ‘chính quyền’ có thể phản bội với ‘nhân dân’, cũng chỉ vì việc ‘tu
thân’ như trên chưa xong, thì lấy đâu ra cơ sở ‘bình thiên hạ’.
Lý
do vì sao như trên, chúng ta đã được chứng minh trong hai tác phẩm “Cách Sống Mới”
và “Ý Thức”.
Nó
cho thấy thực chất con người thời đại chưa làm chủ được ‘ý chí’, khi tâm A2
còn ẩn danh và được tự do tung hoành điều hành sự sống. Trong khi bản chất sự sống
đòi hỏi phải thuộc về tâm A1 , nhưng lại đang bị giam
cầm, bỏ quên, hay bị ruồng rẫy.
(Chú thích:
-
‘ý
chí’ ở đây không thuộc về cái ăn, cái mặc, v.v…,
-
mà
thuộc về ‘ý chí’ quý trọng ‘giá trị con người’ so với ‘giá trị vật chất’.
-
Hoặc
giả nếu đã biết quý trọng …, nhưng còn trong phạm vi hẹp, chưa toàn diện, nhận
thức hiện tượng chưa đủ sâu, v.v…, nên chưa nhận thức được bản chất và qui luật
tiến hoá … đây không gọi “phản bội” mà là “lực bất tòng tâm” giữa ‘ý chí’ và
‘thực tế phức tạp’.)
Con
người là một nghịch lý nội tại. Các tôn giáo đã công nhận điều này, sự sống
cũng đã chứng minh điều này. Và khoa học (HTNT) cũng công nhận sự thật này.
Vì
vậy nó là chìa khoá quyết định để “MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN” của sự sống.
Chỉ
khi mở xong cánh cửa này, thì con đường ‘hoà bình hạnh phúc vĩnh cữu’ của thế
giới loài người mới thật sự rộng mở. (HTNT)
Nói
cách khác để xây dựng ‘VMĐĐ’ thành công, con người cần có thời gian làm quen với
chính mình, phần nội tâm tích cực đang tiềm ẩn, và học cách khai thác nó hiệu
quả nhất.
Đời
sống văn minh vật chất đã che khuất bản chất thật của sự sống. Nó đã làm trí tuệ
con người mất phương hướng, để cuối cùng quay sang đổ thừa nguyên nhân cho
nhau, ganh ghét nhau, dùng bạo lực tiêu diệt nhau, nhằm giành giựt quyền lợi với
nhau, quan hệ gian dối bất chính với nhau, v.v… vì tin tưởng con đường hạnh
phúc là như vậy.
Ai
cũng biết thói quen của sai lầm và của lòng tham, có thể làm mờ mắt lý trí.
Sự
sai lầm có thể không xảy ra ngay để con người nhận biết, mà xảy ra âm thầm nhẹ
nhàng hàng ngày trong quan điểm sống. Chỉ khi đến một lúc bế tắc xảy ra phạm vi
cá nhân, chính quyền, xã hội, và thế giới, thì điều tra ra mới thấy trách nhiệm
thuộc về mọi người, từng cá nhân một, không riêng gì một cá nhân cụ thể nào.
Muốn
xoá bỏ nguyên nhân đến tận gốc ư, chính là mọi người cùng chịu trách nhiệm thay
đổi con đường sống, quan điểm sống, từ nhận thức đến hành động sinh hoạt đến nội
tâm của mình.
Có
người e sợ nó sẽ quá khó.
Nó
không khó chỉ cần hiểu chuyện gì đã và đang xảy ra đối với sự sống, là đã bắt đầu
có sự thay đổi.
Qui
luật tiến hoá của não sẽ dần giúp con người tiến bộ nhanh theo thời gian.
Và
sự sống mới cứ thế tiến lên, dựa trên vốn sống tích cực đã phát triển đến đâu.
Quá
trình chuyển đổi trên là cơ sở cho sự hình thành mô hình VMĐĐ của thời đại.
VMĐĐ
còn gọi là con đường “tu tâm” theo trường phái khoa học. Nó sẽ nhanh đem lại kết
quả hơn nếu so với các trường phái khác …
III.
BẢN CHẤT SỰ SỐNG
“Nhân
chi sơ tính bổn thiện”.
Làm
người ai cũng muốn sống đời hạnh phúc.
Hạnh
phúc là thiện,
Suy
ra con người có bản chất ‘sống thiện
và hạnh phúc suốt đời’.
Tuy
nhiên, lịch sử loài người đã bị thất bại thảm hại chỉ vì chữ “thiện”.
Chữ
‘thiện’ có hai nghĩa HẸP và RỘNG.
Đa
số con người thích và quen dùng ‘nghĩa hẹp’, vì hợp khả năng.
Trong
khi cuộc sống đòi hỏi phải dùng ‘nghĩa rộng’ mới đúng.
‘Nghĩa
hẹp’, là ‘thiện’ (tốt) cho cái TÔI là chính, còn mọi người thế nào không cần biết
đến.
‘Nghĩa
rộng’, là ‘thiện’ (tốt) cho cái TÔI và cho cái CHUNG (mọi người) phải luôn đi
đôi một cách hợp lý.
Ví
dụ: - giàu tiền, thay vì chỉ xài phung phí riêng cá nhân (nghĩa hẹp), thì nên
chia sẻ hợp lý đến nhiều người còn khó khăn tiền bạc (nghĩa rộng).
Tuy
nhiên tính “thiện” còn một trở lực khác làm ‘ý chí’ khó thay đổi là ‘THÓI
QUEN’.
Thói
quen ‘xài tiền’ theo thời gian thành bệnh “tham tiền” và “ghiền tiền”, không
cách nào chữa trị được.
Đây
là cái bẫy chết người thứ hai mà lịch sử loài người thường mắc phải.
Nguyên
nhân vì sự sống trước tiên cần phải ‘ham tiền’ thì mới có sống. Mà ham tiền lâu
dần thành bệnh.
Nguyên
nhân bệnh đơn giản chỉ có vậy, nhưng rất nhiều người mắc phải và không thuốc gì
chữa khỏi.
Hậu
quả là cá nhân thành khổ vì nhân cách suy giảm, cảm giác hạnh phúc tâm hồn bị
tan biến, mọi người ganh ghét xa lánh, v.v…
Cách chữa khỏi,
Là
chọn sống “thiện theo nghĩa rộng”.
Sau thời gian nó sẽ thành thói quen, thành “bệnh ghiền” ‘muốn sống tốt với mọi
người’.
Căn
bệnh này giúp cá nhân làm giàu về vật chất và tinh thần, rất có lợi cho sự sống.
Nên không gọi nó là bệnh nữa mà là chất liệu làm nên “con người mới, nhân cách
mới”.
Vấn
đề được diễn giải như sau:
+
Thiện (hẹp) = ‘ham tiền’
thiện (hẹp) + thiện (hẹp) =
tính ác (vì con người tranh
giành nhau quyền lợi)
hạnh phúc (ác) + hạnh phúc (ác) = đau
khổ (‘hạnh phúc của tính ác’ sẽ cho
‘đau khổ’)
+
Thiện (rộng) = ‘ham tiền hợp lý’
Thiện (rộng) + thiện (rộng) =
tính thiện (ý thức san sẻ quyền lợi,
sinh tình người)
hạnh
phúc (thiện) + hạnh phúc (thiện) = hạnh phúc (‘hạnh phúc của tính thiện’ sẽ cho
‘hạnh phúc’)
Theo
HTNT,
‘Thiện
nghĩa rộng’ là chân lý do tự nhiên qui định. Nó không thuộc ‘ý chí’ con người
muốn hay không muốn chọn. Tuy con người không thể dùng bạo lực để áp đặt “phải
sống thiện”, mà tuỳ ý thức tự giác của mỗi người sao cho không để bị phạt … bởi
qui luật tự nhiên.
Nó
như giữa ‘ăn sạch’ và ‘ăn bẩn’, người hiểu biết sẽ chọn ‘ăn sạch’ để hợp tự
nhiên hơn.
Như
thế bản chất sự sống không khó để hiểu. Nó đơn giản, vì mọi trẻ con đều có thể
sống đúng với bản chất sự sống.
Nhưng
những người lớn trái lại không thể sống như thế, cho dù họ cũng xuất thân từ trẻ
con lên.
Lỗi
thuộc về qui luật tiến hoá.
Giai
đoạn đầu của tiến hoá, trí tuệ loài người phát triển tự phát, sai phương hướng.
Phương hướng sai, nhận thức sai. ‘Sai’ tích tụ lâu dần, làm nên thành phẩm ‘xã
hội sai’.
Thành
phẩm ‘xã hội sai’, trí tuệ thế hệ tiếp theo bị lôi kéo vào môi trường sai theo.
Để cuối cùng nó xoá nhoè mọi dấu vết của cái ‘đúng’ đơn giản của bản chất sự sống
cội nguồn.
Trẻ
con chưa bị lôi cuốn vào vòng xoáy nhận thức sinh tồn xã hội, nên năng lực sống
theo chân lý còn hiệu quả. Nhưng đến khi đủ lớn phải tham gia vào guồng máy
chung xã hội, nó cũng bị biến dạng nhận thức theo môi trường đòi hỏi.
Nhận
thức biến dạng, nhân cách biến dạng.
Mỗi
người khi tham gia, sẽ khác nhau về mức độ biến dạng nhân cách. Nhưng nhìn
chung đều có sự thay đổi theo hướng tiêu cực, mức thấp nhất là thoả hiệp cùng tồn
tại. Vì nó tuỳ vào tính chất nghề nghiệp, có nhu cầu quan hệ nhiều hay ít, nếu
nhiều thì nguy cơ nhân cách rơi xuống dốc sẽ cao.
Những
cá nhân có điều kiện sống chủ yếu bằng nghiệp vụ chuyên môn thuần tuỳ, ít đòi hỏi
mở rộng tiếp xúc, hay không đòi hỏi phải cạnh tranh quyền lợi trực tiếp để sống
còn, v.v… thì khả năng gìn giữ phẩm chất trí tuệ và nhân cách thuận lợi hơn.
Nhưng bù lại kinh nghiệm sống thực tế mở rộng, hay khả năng ứng phó xã hội và
thời thế có thể kém.
Vì
thế sự sống cần có một chuyên ngành “Khoa Học Tinh Thần” (KHTT), nhằm giúp con
người sàn lọc sự sống, không để bị lạc mất phương hướng phổ thông hay chuyên
sâu tâm hồn.
Những
sai lầm trong cuộc sống, có thể không khó để nhận thức đa số các vấn đề cơ bản,
vì nhìn trẻ con cũng có thể suy ra vấn đề. Nhưng nó thành rất khó đến ngoài khả
năng nhận thức, khi những sai lầm đã trở thành một bộ phận tất yếu của cơ chế vận
hành xã hội, mà từ đây sự sống chung được tạo ra.
Nó
đã tạo nên một qui định bất thành văn, ai sống trong qui trình sản xuất sự sống
của xã hội nào, thì đương nhiên phải chấp nhân hoà nhập hay tiếp thu mọi ưu
khuyết của nó, nếu không quyền sinh tồn sẽ không đảm bảo.
Cuối
cùng lực bất tòng tâm khi sự chênh lệch quá lớn giữa quyền lực cá nhân và xã hội.
Thế là phải tập sống theo với các cái chung sẵn có, mà nếu để tự nhiên chưa chắc
ý thức và lương tâm cho phép họ làm như thế.
Thời
gian cho con người thói quen, thói quen tạo cho con người kỹ năng chai lì hay
vô cảm, trước những sai lầm thường xuyên lập lại. Từ thoả hiệp chuyển sang nhu
cầu đòi hỏi, như ăn phải có uống vậy. Nó khác với giai đoạn đầu ‘dị ứng’, bây
giờ là ‘yêu thích’.
“Ăn
và uống nhiều” trở thành tiêu chí hàng đầu, thay vì “sạch hay dơ” như trước nữa.
Vì rõ ràng nó cho kết quả ‘sống’ cụ thể, còn khái niệm tương lai hay gì khác nữa
… đã thành vô nghĩa, hay không còn là vấn đề.
Nhiều
người tham gia vào bản ký kết không thành văn trên, là góp phần nuôi sống ông
trùm soạn thảo văn bản cam kết ấy. Với ông trùm, sự sai lầm không còn là một
khái niệm mơ hồ, mà đã hoá thành các ý đồ lớn chủ trương lớn. Đến đây mọi khái
niệm sai hay đúng, dơ hay sạch, … chỉ có trời biết.
Nó
như cơn nghiện đã nặng thuốc, thì cửa tử biết khi nào mở …
Khi
sự sống đã trở nên to lớn và phức tạp, con người “ngẫu nhiên” tin rằng, lời giải
cũng phải to lớn đồ sộ mới xứng, thì mới hiệu quả v.v… , thế là tàu bay, tàu
thuỷ, súng đạn theo đó nở to ra dần.
Mà
không thấy rằng, sự sống đơn giản, cũng như đáp án của nó cho mọi phức tạp.
Vấn
đề có thể chỉ là … “định hướng lại mục đích sống trong suy nghĩ”.
Phải
chăng tính tự ái, sự tự tôn, sức mạnh quyền lợi và quyền lực, v.v… đã cản trở
con người tìm về sự đúng đắn ban đầu.
Bản
chất sự sống là ‘thiện’ không ‘ác’.
Cái
ác là bất thường là ngoại lai đối với phạm trù sự sống. Nhưng vì không tìm ra
con đường sống đúng đắn (đến đích), nên tính ác được pht sinh để đối phó với hoàn
cảnh.
Nay
muốn phục hòi cái thiện, con người cần được giáo dục đúng đắn (theo nghĩa rộng,
bao gồm giao tiếp, thông tin, học tập, v.v…),
có hệ thống bài bản, khách quan, khoa học đến suốt đời.
Để
mọi người ai cũng nắm rõ đường đi nước bước của sự sống, từ mục đích gần đến mục
đích xa. Được như vậy cái ác sẽ không còn cơ hội tái sinh trường tồn.
Trách
nhiệm trên trước hết thuộc về xã hội, kế mới đến trách nhiệm của cá nhân. Vì
khái niệm ‘thiện – ác’ ngày nay đã bị phức tạp hoá cao độ, nên một cá nhân (kể
cả gia đình) đơn thân không thể tự hoàn thành tốt nhất cuộc sống đời của mình.
Trong
khi thực tế hiện nay, cá nhân (kể cả gia đình) phải tự xoay xở tất cả, … xã hội
chỉ hô hào kêu gọi, đòi hỏi, đặt chỉ tiêu … và trừng phạt.
IV.
TRÁCH NHIỆM THỜI ĐẠI
Loài
người trở thành trung tâm sự sống là nhờ có ‘ý thức’ và ‘tư duy’.
‘Tư
duy ý thức tích cực’ (thiện) là
điều kiện để quan hệ phát triển (thiện, phi bạo lực), cũng là để đời sống tinh
thần phát triển.
Nếu
thế giới chỉ có vài mươi người, có lẽ bài toán tinh thần không bao giờ đặt ra.
Sự
sống gồm ăn no, ngũ, chơi, ăn tiếp, v.v…
Nhưng
khi loài người đông lên, cái ăn cái mặc sự ham muốn nhu cầu cạnh tranh sinh tồn,
v.v… làm sự sống trở nên căng thẳng phức tạp khó hiểu dễ thất bại dễ đau khổ
v.v…, khi ấy vấn đề ‘tinh thần’ trở thành bài toán cấp bách cần sớm có lời giải.
Nếu
không các quan hệ sẽ càng lúc rối mù và bế tắc, cái ác (nhân cách xuống cấp) sẽ
thừa cơ hội càng nguy hiểm hơn.
Khi
tìm hiểu vấn đề, chũng ta thấy rằng sự sống con người không chỉ có ăn, ngủ,
chơi, …, mà còn có sở thích đa dạng, tư duy đa dạng, so sánh đa dạng, … cộng
chung lại thành một ‘tổng nhu cầu đa dạng’.
Trong
rừng nhu cầu kia, mỗi cá nhân chọn cho mình một đối tượng làm mục đích sống.
Và
để đạt mục đích sống ấy, con người cần có ‘tiền’.
Kết
quả là, ‘tiền’ lúc đầu ý nghĩa của nó chỉ là phương tiện, là phụ, nhưng quá
trình đi tìm nó con người ngẫu nhiên coi ‘tiền’ là MỤC ĐÍCH CHÍNH lúc nào không
biết.
Đến
khi ‘mục đích tiền’ đã được thoả, con người cảm thấy bất ngờ khi não chỉ xuất
hiện toàn ‘cảm giác tiến’. Trong khi các mục đích chính mơ ước ngày nào, giờ
đây như vô nghĩa cho dù mục đích đã đạt, vì các ‘cảm giác’ về chúng đã không
còn.
Tương
tự như thế, chúng ta bàn về cái gọi là “TINH THẦN tổng thể“ (TTtt), hay ”Ý THỨC
tổng thể” của một cá nhân.
Gọi
‘Cá Nhân’ (CN) gồm hai phần cơ bản:
- “Vật Chất” (Cơ Thể - CT)
- “Tinh Thần” (Tâm Hồn - TH).
Hay
ta viết :
Cá Nhân = Vật Chất + Tinh Thần
CN =
CT + TH
= TTtt
(
Chú
thích:
TINH THẦN tổng thể =
TINH THẦN vật chất + TINH THẦN
tinh thần Kết
quả cho: TTtt
= TTCT + TTTH
Trong
sự sống con người dù làm gì cuối cùng cũng tập trung về não (ý thức) xử lý, hay
‘TINH THẦN tổng thể’ xử lý.
Trong
xử lý, ý thức (não) chia ra hai nội dung:
1-
Quan hệ vật chất, do ‘TINH THẦN vật chất’ chịu trách nhiệm lý giải. – (Quan hệ
con người với vật chất)
2
- Quan hệ tinh thần, do ‘TINH THẦN tinh thần’ chịu trách nhiệm lý giải. –(Quan
hệ người với người)
-
Sau
lý giải (1) cho kết quả ‘TINH THẦN Cơ Thể’ (TTCT)
-
Sau
lý giải (2) cho kết quả ‘TINH THẦN Tâm Hồn’ (TTTH)
Kết
luận:
-
Con
người dù sống vì mục đích vật chất
(tiền) hay mục đích tinh thần (quan
hệ), cuối cùng đều có lợi cho ‘TINH THẦN tổng thể’.
-
Vì
thế khi con người chỉ tập trung lo làm giàu ‘MỤC ĐÍCH TIỀN’ (vật chất), thì nhận
thấy ‘TINH THẦN tổng thể’ có phần phát triền. nên ngộ nhận ‘TINH THẦN ĐÃ NO ĐỦ’.
-
Nhưng
kỳ thực nó mới no đủ về ‘TTCT’, còn thiếu
‘TTTH’ trầm trọng. Biết rằng thiếu một trong hai giá trị tinh thần,
đều gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống.
-
Khi
mục đích ‘TTTH’ không được đáp ứng đủ, nó sẽ là NGUYÊN NHÂN GỐC tạo ‘TÍNH ÁC’
hay ‘TỘI PHẠM’ nơi con người và xã hội, cũng là nguồn gốc phát sinh của mọi bất
ổn.
)
Lời
bàn như sau:
+ một là, một ‘cơ thể’ (vật chất) muốn khoẻ mạnh,
thì cần được chăm sóc ăn uống vệ
sinh, v.v… đầy đủ.
+ hai là, một ‘tâm hồn’ (tinh thần) muốn khoẻ
mạnh, thì cần được chăm sóc tư duy vệ
sinh, v.v… đầy đủ.
Tư duy vệ sinh có nghĩa là tư duy trí
tuệ cần được cung cấp LẼ PHẢI-CHÂN LÝ (LPCL) đầy đủ, mọi hiện tượng sự sống cần
được minh chứng lô-gíc có hệ thống hợp lý toàn diện, v.v… để sự sống không còn
quan hệ bằng bạo lực áp đặt, mọi sự
việc đều được công khai để mọi người (xã hội) cùng tham gia trách nhiệm bàn luận
và cùng giải quyết, v.v…
Chúng
ta thấy rằng:
+ Để phục vụ ăn, uống, v.v… có vệ sinh, không
khó với trình độ xã hội thời nay.
+ Để phục vụ tư duy có đầy đủ các LPCL, thì xã
hội hiện đại chưa làm được.
Phục
vụ Lẽ Phải bằng biện pháp bạo lực áp đặt
(vũ khí), thì không gọi là LPCL, mà là … LẼ PHẢI KHÔNG HỢP VỆ SINH. Nó sẽ gây hậu
quả “đau bụng” cho tâm hồn con người, nếu không kịp chửa trị, một là nó biến dạng
con người thành ‘tội phạm’, hai là stess nặng, ba là … ‘tự vận’ do bế tắc tâm hồn.
Vì
thế xã hội hiện đại cần đào tạo thêm một ‘Nghề Mới’, nghề cung cấp ‘LPCL’, tức
là chỉ đường cho con người tìm đến đích hạnh phúc của cuộc đời.
Với
lý do trên, “KHOA HỌC TINH THẦN” (KHTT) được đề xuất hình thành - (hay HTNT mà
chúng ta đang được giới thiệu).
Đối
với sự sống con người bản chất sự sống nằm ở ‘trí tuệ’ hay ‘tinh thần’, còn ‘vật chất’ chỉ là phương tiện để chứa. Mọi
sự no đủ đến thừa mứa về vật chất đều không thể thay thế sự ‘no đủ về tinh thần’.
Vì
thế khi món ăn ‘tinh thần’ bị thiếu (mất vệ sinh) thì sự sinh tồn của cá nhân
và xã hội đều bất ổn.
Chính
quyền là từ nhân dân cử ra, nhằm chăm lo việc chung xã hội, thực chất là NHIỆM
VỤ CHỈ ĐƯỜNG CHO NHÂN DÂN SỐNG HẠNH PHÚC.
Nhưng
đây là một công việc quá khả năng của chính quyền, với số lượng nhỏ cá nhân.
Hậu
quả là môi trường sống thất bại, từ các cá nhan đến đến từng đơn vị tổ chức xã
hội.
Có
nhiều người không hiểu, khi đơn vị mình (cá nhân, gia đình, quan hệ xã hội, đơn
vị kinh doanh, nghệ thuật, tài năng, v.v..) bị thất bại, cho rằng nguyên nhân
do nội tại.
Nhưng
kỳ thực là do cơ chế tổ chức vận hành xã hội đẵ mắc sai lầm.
Tức
là mô hình chính quyền hiện tại không đủ khả năng hoàn thành tốt trách nhiệm, dẫn
đến mắc sai lầm dây chuyền ngay từ bản chất đường lối. Cuối cùng nó gây khó cho
trước mắt và gây bế tắc trong lâu dài (một cách vô hình) cho xã hội và nhân
dân.
Theo
HTNT, lời giải căn bản cho sự sống không hoàn toàn thuộc về mô hình chính quyền
nào, mà phụ thuộc trước hết vào sự nghiệp giáo dục NHÂN CÁCH, cụ thể là phát
triển tâm A1.
Sự
nghiệp giáo dục trên do chuyên ngành KHTT đảm nhận, với phương thức truyền đạt
được đề xuất, là phải có hệ thống từ khi tuổi mới lớn cho đến hết đời người (hỗ
trợ tinh thần).
Nếu
xã hội ngày nay đã có các hệ thống tôn giáo làm nhiệm vụ định hướng phát triển
nhân cách cho đại bộ phận con người xã hội, thì nay KHTT cũng noi gường như thế
mà lập ra các hoạt đông tương tự. Tất cả đều vì mục đích đào tạo con người về đạo
đức và nhân cách, nhưng khác nhau về phương thức chứng minh và hình thức rèn
luyện học tập.
Để
thực hiện mục đích trên, dưới góc độ khoa học, xã hội có thể vận dụng mô hình tổ
chức “ĐẢNG” sẵn có để làm nhiệm vụ truyền đạt, ngoài hệ thống trường lớp văn
hoá phổ thông.
Theo
đúng nghĩa, tổ chức đảng chính là trung tâm phụ trách giáo dục về ‘KHTT’ cho
toàn xã hội.
Nó
có nhiệm vụ lý giải mọi hiện tượng sự sống con người và xã hội, trên cơ sở các
chân lý của KHTT. Nó xây dựng và truyên đạt niềm tin cho con người, bằng các chứng
minh khoa học hợp lý hợp logic. Và nó hoàn toàn không biết dùng bạo lực để áp đặt
mệnh lệnh như một số đảng hiện nay.
Nếu
đảng không đủ chân lý KHTT để thuyết phục nhân dân, thì đảng phải tuyên bố phá
sản. Tuy nhiên điều này khó có thể xảy ra, trừ phi tạo hoá- tự nhiên không có
‘chân lý sự sống’. Mà điều này đã được chứng minh thành công trong tác phẩm “Ý
THỨC”.
Nên
trường hợp phá sản như trên gần như không bao giờ có. Nhất là khi đảng luôn rộng
mở quan điểm nhận thức đến mọi người, để toàn dân rộng đường tham khảo và tham
gia tranh luận công khai để sửa chữa điều chỉnh.
Vì
thế ‘đảng’ là một tổ chức thuộc quần chúng xã hội, mà đại diện là các nhà khoa
học ưu tú hàng đầu trong lĩnh vực KHTT (kỹ năng sống). Vậy là mọi người ai cũng
có quyền gia xin nhập đảng, nó như một nhu cầu tự nhiên nhằm mục đích hoàn thiện
bản thân và sự sống.
Nó
rõ ràng không khác các hoạt động của các tôn giáo, luôn mở rộng cửa để khuyến
khích mọi người cùng tham gia vào con đường tu thân, vừa lời cho mình và lợi
cho xã hội. Từ người thông minh xuất chúng, địa vị xã hội thành đạt, v.v… đến
những người nhận thức kém, địa vị xã hội vô danh, v.v… đều là những đối tượng xứng
đáng được kết nạp vào tổ chức truyền giáo này, với tên gọi “ĐẢNG KHTT” (ĐKHTT).
(xem tác phẩm “Ý THỨC”)
V.
VĂN
MINH CHÍNH QUYỀN
Chính
quyền là người đại diện nhân dân, quản lý xã hội (quốc gia).
Muốn
làm tốt nhiệm vụ này, theo nguyên tắc, chính quyền phải đào tạo về kỹ năng nhận
thức sự sống, con người, và thế nào là qui luật tự nhiên trong phát triển.
Ngược
lại, nhân dân cũng cần có các kỹ năng nhận thức như trên, để mỗi khi chính quyền
có làm sai thì biết đưởng mà chỉnh sửa, phê phán, hay cách chức.
Xã
hội sẽ trở nên tốt đẹp, khi chính quyền và nhân dân là hai người bạn đồng hành,
trên con đường phấn đấu vì mục đích chung. Mỗi bên là một vị trí một trách nhiệm,
tất cả cùng cố gắng thi đua hoàn thành tốt nhất phần việc của mình.
Như
chúng ta đã phân tích, khi KHTT còn chưa hình thành thì sự sống tất yếu còn phức
tạp, không loại trừ trường hợp những mâu
thuẩn trong quan hệ giữa chính quyền với nhân dân.
Lúc
bấy giờ các lý lẽ của lẽ phải không còn giá trị sử dụng nữa, và các chính quyền
(mất chất) thường lạm quyền dùng bạo lực trấn áp nhân dân, nhằm duy trì trật tự
xã hội, cũng như quyền thế đang giữ …. Thay vì phải từ chức để một chính quyền
khác lên thay. Như thế mới phải đạo, mới xứng danh ‘người đầy tớ trung thành của
nhân dân’.
Nhưng
chính quyền mới lên, cũng lại xuất hiện nguy cơ mâu thuẩn mới, v.v… Vấn đề cho
thấy xã hội loài người đến nay, đang thiếu một lời giải cơ bản từ gốc về sự sống
nói chung, về quan hệ giữa chính quyền với nhân dân nói riêng.
Nguyên
nhân vì xã hội thiếu một cơ chế nhận thức hợp lý công minh, nên quan hệ con người
bằng ngôn ngữ không đem lại hiệu quả.
Khi
xảy ra mâu thuẩn giữa chính quyền với nhân dân (số đông hoặc cá nhân nhưng nhiều
lần mâu thuẩn trên cùng một sự việc), thì mười phần hết mười lỗi thuộc về chính quyền.
Nguyên
nhân đơn giản là do chính quyền kém.
Nguyên
nhân kế là do bộ máy chính quyền thiếu cơ chế kiểm tra chéo (tam quyền phân lập).
Nguyên
nhân xa là do kiến thức về sự sống còn thiếu, trên phạm vi xã hội (loài người).
Cộng
chung lại là ‘chính quyền kém’. Nếu cộng thêm quyền lực trấn áp, sẽ thành
“chính quyền độc tài”. Khi ấy cơ hội để nhân thay đổi chính quyền rất khó.
Khi
chính quyền kém thì nhiều việc rất đơn giản nhưng thực tế không thực hiện được.
Ví
dụ:
-
Chính
quyền lấy lý do, đã có cơ chế đại diện nhân dân (quốc hội) rồi, thì không nghe
ai khác. Như thế là sai. Vì nếu dân
bên ngoài còn kêu, tức là còn có vấn đề. Thì bổn phận chính quyền là phải
tiếp tục lắng nghe để giải quyết. Còn việc gì khác để tính sau, vì họ cũng là
nhân dân. Nếu cần thì công khai vấn đề, để toàn xã hội cùng tranh luận v.v…
-
Tuy
nhiên có mấy khi chính quyền làm được như trên, dù nó không khó. Đơn giản vì
chính quyền hiện nay quá kém.
Tất
cả chung qui là do thiếu kiến thức làm người sao cho đúng đắn phải đạo, dù người
đó là ai đang ở cương vị nào trong xã hội.
Do
không biết nên làm sai không biết sợ, không thấy đang gây hậu quả cho người
khác. Như thế là tội ác.
Vì
thế xã hội cần có “VĂN MINH CHÍNH QUYỀN” (VMCQ), để giáo dục họ biết sợ mỗi khi
làm sai với nhân dân, đồng nghĩa với sẽ bị trị tội. Vì đã làm việc ác với nhân
dân, tức họ là ‘kẻ ác’ (ngang tội với kẻ cướp, kẻ gian, kẻ xấu, v.v…).
Và
KHTT được đề xuất là cơ sở luận, để hình thành nên mô hình “VMCQ”.
Bản
chất con người sinh ra là để sống và hạnh phúc.
Đây
cũng là nhiệm vụ phải hoàn thành của VMCQ.
Để
hoàn thành trọng trách trên, trước mắt VMCQ (người giữ vị trí lãnh đạo cao nhất)
phải có khả năng dùng lời lẽ để hướng mọi người cùng hoàn thành các công việc
chung của xã hội.
Như
thế VMCQ phải có kỹ năng quan hệ. Kỹ năng này sẽ giúp VMCQ dùng quyền lực chân
lý để thuyết phục mọi người hành động, thay vì dùng quyền lực chủ quan để áp đặt.
Vì
về nguyên tắc, nhân dân trả tiền thuê VMCQ để làm “người đầy tớ” hay “người thư
ký” cho nhân dân, trong việc điều hành xã hội. Vậy nên “người thư ký” phải biết
nghe lệnh dân, chứ không phải ngược lại bắt ‘DÂN’ phải nghe theo mệnh lệnh (nghị
quyết …) của “người thư ký” khi có mâu thuẩn.
Biết
rằng nhân dân có quyền sa thải “người thư ký” nếu trái ý dân, chứ không phải
ngược lại …
Bản
chất quyền lực của VMCQ là dùng để bảo vệ LPCL, tức bảo vệ quyền lợi của toàn
dân. Ngoài ra không được dùng vào bất kỳ mục đích gì khác, hoặc nhân danh bất kỳ
nội dung gì (chân lý gì) để chống lại nhân dân.
Lẽ
phải có thể có nhiều chiều trong nhận thức, nên cần có công khai tranh luận để
xã hội làm trọng tài. Không ai được quyền nhân danh lý do gì, để tự mình ‘độc
quyền chân lý’ nhằm ưu tiên hưởng lợi riêng tư hay cho phe nhóm.
Người
lãnh đạo cao nhất trong VMCQ, không phải là người dám bạo quyền nhất, dám xem
thường dư luận nhân dân nhất v.v…, mà là người am hiểu LPCL thuộc nhóm hạng đầu
xã hội. Vì thế họ luôn chủ trương và hướng dẫn mọi người hình thành thói quen
cùng ‘đối thoại công khai’ trước
xã hội, mỗi khi có mâu thuẩn khó giải quyết.
Trong
VMCQ, người lãnh đạo phải nhận trách nhiệm giải quyết trực tiếp, khi có vấn đề
thuộc cấp dưới có biểu hiện dậm chân tại chỗ.
Giải
quyết không cần nghĩa hợp hành chỉ đạo, nói một chiều, lệnh một chiều, không cần
biết người nghe có đồng ý hay không, có ý gì khác hay không.
Xuống
giải quyết trực tiếp không có nghĩa đi gặp cấp dưới của mình, để mọi người cùng
hùa theo một ý của lãnh đạo, mà là đối thoại trực tiếp với nhân dân một cách
bình đẳng. Đây là nhiệm vụ cơ bản và
then chốt của thời bình, mà người lãnh đạo VMCQ phải hoàn thành.
Nói
một chiều, bên cạnh có quyền lực răng đe, … cách này kẻ cướp làm cũng được đâu
mắc gì phải đến lãnh đạo, học cao hiểu rộng. Thời bình ‘đối thoại được với dân’
một cách bình đẳng, mới là việc khó đáng làm của lãnh đạo VMCQ. Không thể đùn đẫy
trách nhiệm này cho cấp dưới “chịu trận”, để cấp trên né tránh.
Nếu
người lãnh đạo VMCQ không đối thoại thông suốt, thì từ chức, hoặc nhân dân cách
chức.
Trong
VMCQ, quyền lực (vũ khí) chỉ là phụ, LPCL mới là quyền lực (lương tâm) mới là
chính. Đây là điều kiện cơ bản để xã hội phát triển tự nhiên ổn định và bền vững.
Chính
quyền chưa biết đối thoại thì học đối thoại, nhân dân chưa biết đối thoại thì
cũng học như thế. Để khi đụng việc mọi người đều biết dùng lợi lẽ mà giải quyết
ổn thoả, thay vì …
Xã
hội có một chính quyền cởi mở như trên, thì nhân dân nào mà không vui, xã hội
nào lại không thịnh.
Nhưng
đồng thời nó cũng đòi hỏi, người lãnh đạo trong VMCQ phải thật sự có tài đức vẹn
toàn, thì mới đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ.
Bên
cạnh lãnh đạo VMCQ, còn có các lãnh đạo trong ĐKHTT hỗ trợ, cộng với DĐND (diễn
đàn nhân dân) giám sát điều hành, thì xã hội lo gì không phát triển đúng theo
quĩ đạo qui định của QLTN.
IX.
DIỄN ĐÀN NHÂN DÂN (DĐND)
Có
VMCQ tất yếu phải có “VĂN MINH XÃ HỘI” (VMXH).
Trong
VMXH, vai trò của DĐND chiếm vị trí trung tâm quyền lực.
Vì
thế người dân cần nhiều diễn đàn như cá cần nhiều nước, để tiện lợi trong thể
hiện quyền lực đối với xã hội.
Nên
cách tốt nhất là nơi đâu có nhân dân, thì nơi đó có tổ chức DĐND phù hợp.
Diễn
đàn là nơi để mọi người được giãi bày hay nêu câu hỏi về những vấn đề cuộc sống,
mang tính riêng tư hay chung xã hội, mà
cá nhân quan tâm nhưng chưa tìm ra lời giải đáp thoả đáng.
Diễn đàn cũng là nơi tập trung trí tuệ (cộng sản)
của toàn xã hội
(chú thích: cộng sản: cộng tài sản
trí tuệ, tư liệu sản xuất gốc của mọi tư liệu sản xuất),
nhằm
giúp nhau giải đáp các vấn đề phức tạp do cuộc sống đặt ra.
DĐND
là một phần không tách rời của VMXH.
Đây
cũng là nơi đảng truyền bá các kiến thức KHTT đến mọi người dân. Một hình thức
giáo dục phổ cấp kiến thức về tình hình xã hội và các diễn biến về trình độ sống
của xã hội nói chung.
Nơi
đây cũng là điểm hội tụ các tai mắt của nhân dân và của chính quyền, vi mục
đích thông hiểu lẫn nhau. Mọi mâu thuẫn, mọi yêu cầu giải đáp trong quan hệ con
người, trong đời sống cá nhân hay xã hội, đều có thế được giới thiệu ra công
khai hợp pháp, để được giải đáp một cách có trách nhiệm, có cớ sở bài bản khoa
học.
Tất
cả hợp thành những chứng lý khoa học, để từ đây nhận thức ra, thế nào là qui luật
phát triển tự nhiên của xã hội.
“Chín
người mười ý” nói lên tính đa dạng trong tư duy con người.
Do
tính chất trên mà một số chính quyền (độc tài) ngăn cấm hình thành những diễn
đàn tự do ngôn luận như trên, vì e rằng không thể giải đáp các câu hỏi từ nhân
dân đặt ra. Như thế sẽ mất uy tín lãnh đạo, hay nếu có liên quan đến cơ chế
chính trị xã hội, thì hậu quả có thể còn lớn hơn.
Nhưng
trái lại, chỉ khi quyền tự do ngôn luận của người dân được tôn trọng, thì xã hội
mới thật sự phát triển bền vững, vì nó thể hiện đúng khả năng và bản chất.
Theo
HTNT, đây là con đường ĐỘC ĐẠO giúp con người tìm thấy chân lý sống, tìm ra qui luật phát triển xã hội, điều
kiện để nâng cao mức sống nhân dân một cách vững chắc.
Vì
thế trong VMXH, mọi người đều được khuyến khích trau dồi nhận thức, nâng cao
trình độ cảm nhận chân lý sống, thông qua các hình thức học tập khác nhau,
trong đó không thể thiếu quyền tự do tranh luận, hội họp, mở diễn đàn đa dạng,
để mọi người dễ dàng tham khảo học hỏi tranh luân lẫn nhau về mọi vấn đề mình
quan tâm.
Trong
sự sống, lý có thông thì tình mới phát, tình phát thì lao động mới hăng sai
tăng năng suất, đời sống mau nâng cao, tội phạm suy giảm, xã hội ổn định, đất
nước vững mạnh, v.v….
Trong
cơ chế tự do tranh luận công khai bình đẳng trên các diễn đàn, xã hội sẽ có cơ
hội giải phóng mọi bất công xã hội cũng như tiêu trừ tận gốc các mầm móng tiêu
cực xã hội. Vì nơi đâu có vấn đề thì nơi đó đã có diễn đàn nhìn thấy và nêu ra
để giải quyết.
Vì
không cặp mắt chính quyền nào rộng và phủ khắp bằng cặp mắt của nhân dân.
Xoá
bỏ quyền tự do tranh luận bình đẳng công khai trong xã hội và với chính quyền,
là làm mất hết chín phần sức mạnh của nhân dân, chỉ chừa lại một phần cho sức sống
thụ động, phải luôn vâng lời theo mệnh lệnh từ trên.
Một
chính quyền đối xử với nhân dân như thế, khác nào đang gây tội ác với họ.
Trong
VMCQ, các nhà lãnh đạo cũng đồng thời là những nhà KHTT (Người Chỉ Dẫn). Họ
luôn tha thiết kêu gọi nhân dân tham gia diễn đàn, tự do tranh luận v.v… để qua
đó nâng cao trình độ sống của mọi người. Đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của VMCQ
đối với mọi công dân mình phụ trách.
Việc
nào biết nói biết, việc nào không nói không. Khả năng VMCQ và xã hội thế nào phản
ánh đúng đến đấy. Không ai có quyền phủ nhận hay làm sai lệch sự thật khách
quan, về trình độ nhận thức chung. Nếu không sẽ làm mất dấu qui luật phát triển
tự nhiên của xã hội, là nguy cơ tái hiện bất ổn, là mức sống xã hội bị đe doạ.
Có
những vấn đề cần giới hạn thông tin, nhưng tất cả cũng phải được giải thích một
cách rõ ràng hợp lý, đồng thời thông báo khi nào công các thông tin bí mật trên
… Vì đây là quyền lợi của người dân, VMCQ phải có nhiệm vụ đáp ứng.
DĐND
được dựng lên trên nguyên tắc, nơi đâu có phát sinh vấn đề nơi đó phải có tổ chức
DĐND phù hợp. Hay diễn đàn được dựng lên sao cho bất kỳ người nào có yêu cầu giải
đáp về mọi vấn đề cuộc sống (dù nhỏ hay lớn) đều được đáp ứng, với qui mô phù hợp
với tính chất vấn đề đặt ra.
Hay
tùy nhu cầu mà đối tượng đề nghị được vượt cấp diễn đàn (lên cấp cao hơn), với
điều kiện phải chịu trách nhiệm chi phí vượt cấp. Nếu cuối cùng kết quả vượt cấp
như trên là đúng và hợp lý, có lợi cho xã hội, thì xã hội phải có trách nhiệm bồi
hoàn lại chi phí cho đương sự một cách xứng đáng.
Diễn
đàn nhỏ nhất có thể chỉ cần hai ba người (nhỏ nữa là ta với ta vậy). Nếu lớn hơn thì từ ba hay bốn người
trở lên. Các diễn đàn nhỏ thường là tự phát, nhưng nó là một phần không thể thiếu
của hệ thống DĐND chính qui.
Vấn
đề liên quan đến địa phương nào thì nơi đó có trách nhiệm tổ chức các diễn đàn
theo yêu cầu của nhân dân. Nếu diễn đàn không thuộc ai trách nhiệm lập ra, thì
chính quyền cấp cao hơn phải đảm nhận tổ chức thay.
Hoặc
không nữa, thì nhân dân có quyền tự dựng lên các diễn đàn một cách công khai và
hợp pháp, khi mọi cửa trách nhiệm vì lý do gì đã bít.
Cơ
chế tổ chức linh hoạt như trên nhằm tạo điều kiện khai thông tối đa các tâm tư
tình cảm của mọi người trong xã hội, sao cho không còn ai còn những nỗi niềm
riêng tư bất ổn cần được trợ giúp (giải đáp) mà không được xã hội quan tâm giúp
đỡ kịp thời.
Ta
gọi mô hình tương tác giữa người dân và xã hội như trên là, “văn
minh dân chủ” (VMDC)
trong VMXH.
Muốn
người dân có đủ năng lực làm chủ xã hội, thì yêu cầu phải ‘chăm lo sức khoẻ
tinh thần’ cho họ. Tức là họ phải được giải đáp mọi nhu cầu về nhận thức, một
cách khách quan đa chiều (không nhồi sọ một chiều). Đây là kế khoan sức dân lâu
dài, từ cổ chí kim ai cũng biết như thế.
Còn
ngược lại muốn hại dân hại nước, thì tiến hành chia rẻ họ ra, không cho hội họp
bàn luận tìm hiểu sự sống v.v… Lâu dần chắc chắn trí tuệ họ sẽ yếu, nhận thức sẽ
mê muội khờ khạo, v.v… và xã hội sẽ không còn đủ sức mạnh đối phó khi việc khó ập
đến bất ngờ.
Như
thế không quyền làm chủ nào có thể được thực thi hiệu quả, khi trí năng của người
dân bị cố tình làm cho xói mòn.
Nguyên
khí quốc gia suy cho cùng là từ đây. Từ sức mạnh trí tuệ của nhân dân.
Sức
mạnh thời đại bắt đầu bằng từ trí tuệ. Trí tuệ bắt đầu từ môi trường ngôn luận
tự do, cộng với thời gian thâm nhập từ nhiều năm, để cuối cùng mới tổng hợp
thành một nguyên khí có đủ nội lực.
Nếu
nay chính quyền quyết phá nội lực của dân để dễ “cai trị”, thì hậu quả gì sẽ xảy
ra …
Sự
sống vẫn diễn biến.
Con
người vẫn bàn luận theo cách này hay cách khác, dù cấm hay không cấm.
Vì
tạo hoá sinh con người ra đã là như vậy.
Nay
nếu may mắn các bàn luận trên có thêm sự giúp sức từ các nhà chuyên môn, thì kết
quả càng thuận lợi.
Trong
VMXH, đảng KHTT nhận lãnh trách nhiệm này.
Nó
giống tổ chức “đảng” (kiểu M-L) nhưng hình thức hoạt động giống kiểu của các
tôn giáo hơn, về nội dung thì đề nghị dùng KHTT.
Mục
đích của KHTT là giúp con người tự tin vào vốn nhận thức sự sống, sau khi đã học
tập rèn luyện. Sự sống có thành công tốt đẹp và hạnh phúc hay không là tuỳ vào
mỗi cá nhân phấn đấu nâng cao trình độ sống.
DĐND
là nơi thuận lợi để mọi người gặp nhau giao lưu nâng cao trình độ sống.
Ngoài
ra người dân có thể trả chi phí để xin tư vấn (học tập) nhanh từ các nhà chuyên
môn thuộc ‘đảng KHTT’. Nếu họ tư vấn tốt, khách hàng sẽ đông lên, nhờ vậy đảng
viên có thu nhập (nhiều ít tuỳ người, tuỳ khả năng).
Nếu
cần mọi người có thể chọn học theo chuyên ngành KHTT làm nghề nghiệp, do đảng
KHTT đào tạo.
Tóm
lại, lợi ích của DĐND trong VMXH là rất to lớn, vì nó là trung tâm điều hành xã
hội, cũng là nơi để mọi người nâng cao trình độ sống, cũng là nơi cập nhật các
thông tin kiến thức về xã hội hay sự sống nói chung.
Đây
cũng là mô hình VĂN MINH DÂN CHỦ
(VMDC) kiểu mới, nó khác với các mô hình dân chủ khác.
Vì
mọi tiếng nói của người dân đều được tôn trọng, và là một phần quyền lực lãnh đạo
trực tiếp đối với xã hội.
Quyền
lực ấy được thể hiện qua TRÌNH ĐỘ NHẬN THỨC LÝ LUẬN (bên cạnh sự phát huy tối
đa ý thức lương tâm A1 trong quan hệ) về các vấn đề sự sống và xã hội.
Trình độ lý luận ấy phải phản ánh tính logic, khách quan, khoa học, hợp tình hợp
lý, v.v… đối với từng vấn đề, cuối cùng phải được mọi người trong xã hội công
nhận (tuỳ tính qui mô và phức tạp của vấn đề)
Mục
đích của đảng KHTT là nhằm nâng cao trình độ nhận thức, trình độ tinh thần,
trình độ sống của mọi người dân nói riêng, của xã hội nói chung.
Vì
đây là những điều kiện cần thiết, đem lại mức sống cao, hạnh phúc cho mọi người
đến loài người.
X.
BẰNG CẤP TINH THẦN
Trong
thời loạn lạc con người cần được trang bị một vài thế võ, một ít vũ khí để
phòng thân.
Nhưng
trong thời thanh bình, ‘bằng cấp nghề nghiệp’ là một trong các “vũ khí” phòng
thân hiệu quả.
Trong
các loại nghề nghiệp, ‘kỹ năng sống’ là một nghề mới được đề xuất hình thành,
trong giới khoa học và trong đời sống xã hội.
Nghề
‘kỹ năng sống’, nghề ‘sống’, nghề ‘tinh thần’, nghề ‘kỹ sư tâm hồn’, nghề ‘quan
hệ’, v.v… đều có nghĩa như nhau.
Khi
mức sống vật chất phát triển, vấn đề ‘mức sống tinh thần’ được đặt ra.
Nếu
hiểu theo VMXH, thì kỹ năng “Văn Minh
Đạo Đức” (VMĐĐ) (hay “Đạo Đức Nhân Tâm”) là thước đo ‘mức sống tinh thần’
của mỗi cá nhân.
VMĐĐ
là mọi hành động (việc làm, suy nghĩ) đều phải dựa trên cơ sở các chứng lý khoa
học cụ thể, như lợi chích cho ai, hay gây hại thế nào, hợp lý hay không hợp lý,
vì sao có hành động đó, ai khiến, v.v…
Tức
là con người không được tuỳ tiện làm sai ăn ớt nói càn, rồi đỗ thừa tại người
khác lệnh hay kêu.
Mà
làm việc gì phải do mình tự chịu trách nhiệm. Không biết thì hỏi, nếu thấy
không đúng thì không làm. Nếu làm sai thì sửa, làm đúng thì phát huy.
Vì
vậy khi làm là phải hiểu lý do, dù mình tự làm hay do người khác ra lệnh, để
khi cần có thể chứng minh công khai về tính đúng đắn của nó.
Muốn
chứng minh lý do cho hợp lý, con người cần có kiến thức và kỹ năng lý luận về đạo
đức quan hệ. Cơ sở của đạo đức đó là gì, từ đâu lập nên, đúng sai thế nào.
Nếu
cần sẽ lên DĐND tranh luận phản biện bảo vệ quan điểm của mình, cũng như đấu
tranh đẩy lùi những quan điểm sai lầm khác.
Tất
cả vì sự sống, vì quyền lợi sinh tồn hợp lẽ phải, hợp với qui luật tự nhiên. Là
cơ sở cho mức sống tâm hồn hay tinh thần phát triển. Là tiền đề sở hữu kỹ năng
sống hạnh phúc toàn diện, trong trước mặt và cho tương lai lâu dài của cá nhân
và xã hội.
VMĐĐ
khác với các mô hình đạo đức phổ biến khác.
Ở
đấy con người chỉ cần tuân thủ vô điều kiện những qui định đạo đức đã sẵn có,
là đã được khen, được yêu mến, được cho thăng chức, v.v…
Hoặc
dùng đe doạ, gây sợ hãi, nhằm buộc đối tượng phải thi hành, đã trở thành một phần
đạo đức tự nhiên trong xã hội. Người ra lệnh, người chấp hành lệnh, đều ngầm
thoả thuận như đây là một kiểu quan hệ đạo đức tự nhiên của cuộc sống.
Sự
thật trên đây là những kiểu đạo đức trái tự nhiên, không hợp với qui luật tiến
hoá xã hội loài người.
Bản
chất con người là sống bằng trí tuệ.
Đạo
đức mà không có trí tuệ tham gia, cũng khác nào con vật vận động không cần có ý
thức.
Đạo
đức có thể tạo thành hành động. Hành động mà không hiểu ý nghĩa kết quả của nó,
sẽ đem lợi cho ai hay hại ai, thì rất nguy hiểm. Con người dễ bị các kẻ xấu lợi
dụng quyền lực sai khiến làm những việc, chống lại giống nòi mình, gia đình
mình, kể cả chính bản thân mình mà không biết.
Biết
rằng mọi hành động, việc làm, sinh hoạt, v.v…
của con người đều mang một giá trị đạo đức nhất định.
Kẻ
cướp phạm tội bao giờ cũng giấu mặt.
Con
người sống sinh hoạt theo một qui định đạo đức nhất định. Nhưng không hiểu giá
trị đạo đức đó đúng hay sai, chứng lý nguồn gốc cấu tạo nó thế nào, … Thì khác
gì đạo đức đang là kẻ cướp giấu mặt, nó đang cướp đi các giá trị tinh thần,
nhân cách, cũng như kỹ năng sống hạnh phúc toàn diện của con người.
Đạo
đức không rõ nguồn gốc, hoặc có nguồn gốc nhưng không đúng đắn hợp lý, là mối
nguy lớn cho xã hội loài người.
Nhưng
thực tế con người chưa quan tâm điều này, vì nghĩ nó là việc nhỏ. Vũ khí, tiền,
phi thuyền vũ trụ, v.v … mới là việc lớn.
Ngược
lại đạo đức sai, như máy chạy thiếu nhớt, lâu dần máy sẽ cháy không dùng được nữa.
Vậy
giữa ‘nhớt’ và ‘máy móc’ cái nào giá trị hơn. Cả hai đều cần. Nhưng cần gấp lúc
này là nhớt đúng chuẩn. Vì máy móc thời đại đang chạy tốc độ cao, nhưng nhớt
đang dùng kém chất lượng, không rõ nguồn gốc …
Đúng
lúc có “nhớt” hiệu “VMĐĐ” … đang quản cáo chào hàng. Bảo đảm có nguồn gốc và chất
lượng rõ ràng, có thời gian bảo hành sử dụng lâu dài. Ai tin thì hãy mua về
dùng, chất lượng uy tín.
Vấn
đề là mỗi người phải tập tự sản xuất lấy … ở đây chỉ hướng dẫn công nghệ …
Mọi
con người sinh ra lớn lên đều cần được trang bị kỹ năng VMĐĐ cơ bản, để phòng
khi trong quan hệ gặp sự cố khó khăn, ví dụ các ‘lệnh miệng’, các qui định khó
hiểu, v.v… thì biết cách từ chối hay phản biện lại để tìm hiểu xem tính hợp lý
đúng đắn nằm ở đâu, trước khi kết luận có nên thực hiện hay không.
Nâng
cao mức sống tinh thần bằng cách trau dồi vốn sống lương tâm A1,
là điều kiện phát triển kỹ năng VMĐĐ.
Có
VMĐĐ xã hội sẽ phát triển tốt hơn, những hiện tượng vô lý không còn tồn tại phổ
biến. Cái tốt cái hợp lý cái công khai sẽ là những vũ khí ‘chuyên chính’ đối với
cái xấu, cái bất hợp lý, cái giấu mặt, v.v…
Sự
sống cần có VMĐĐ, để lẽ phải- hợp lý- công khai trở thành tiêu chí chính trong quan hệ xã hội, thay vì quyền của “kẻ mạnh” là
lý lẽ cuối cùng.
Có
VMĐĐ môi trường sống xã hội sẽ an toàn bình yên hạnh phúc, không gì tốt bằng.
Nhờ vậy phúc lợi nhân dân sẽ được nâng cao không ngừng.
Cứ
như thế sự sống sẽ dần thay đổi, số lượng người có vốn sống tinh thần cao sẽ
ngày càng tăng lên. Các “kẻ mạnh” về quyền lực và vật chất sẽ thay đổi quan điểm,
từ “lộng quyền” chuyển sang “thân thiện” sống hoà đồng với xã hội với nhân dân,
có ý thức tôn trọng và đóng góp cho quyền lợi chung xã hội, thay vì xem “cái
tôi, cái quyền lợi cục bộ” là cứu cánh của sự sống.
“Kẻ
mạnh” mà chịu trau dồi VMĐĐ, thì người nghèo người thất thế v.v… nói chung những
“kẻ yếu” sẽ được hưởng lợi rất lớn. Xã hội sẽ không còn người thiếu ăn thiếu mặc
thiếu ở thiếu kiến thức. Mức sống cơ bản trở thành phổ cập trong xã hội.
Như
thế là đủ điều kiện để xã hội tiến lên mức sống hạnh phúc toàn diện của “thế giới
đại đồng”, không khó.
Đấy
là bằng cấp tinh thần cao nhất mà con người muốn được cấp.
Ông
bà ta đã dạy, có tài phải có đức.
Cái
đức không phải là cái do áp đặt hay bắt buộc mà có, như lâu nay vẫn làm.
Cái
đức là cái rèn luyện lâu dài và tự nguyện của cá nhân, thì kết quả đạt mới
đúng, bền và hữu dụng.
Cái
đức là thành phần cơ bản của kỹ năng sống, bên cạnh các nhu cầu ăn mặc ở. Nó
cũng là một dạng của TÀI NĂNG, không phải ai cũng rèn đức giỏi, tốt như nhau.
Có
nhiều người thiếu tài năng về ‘ĐỨC’ nhưng giỏi về “tài” ‘VÔ ĐỨC’, nên sống giả
vai ‘người ‘tài đức’ rất khéo khó phát hiện. Nhờ vậy họ trở thành “kẻ mạnh” bằng
con đường bất chính. Nếu may nữa họ đi thẳng lên làm lãnh đạo xã hội. Vậy là
khó sống, khó lý giải, nếu muốn tìm nguyên nhân gốc.
Như
thế đạo đức không phải chỉ cần đối với người nghèo,người khổ (vì sợ mất lòng chủ).
Mà nó hữu ích cho tất cả mọi người, nhất là những người giàu tận đỉnh, đến những
người có chức có quyền tột bậc trong xã hội.
Vì
họ là những người dễ trở thành mất đạo đức hơn ai hết:
-
Một
là, vì khi họ đã cấu kết với nhau thành một khối thế lực thống nhất, thì toàn
xã hội sẽ dễ dàng trở thành những nạn nhân phải sống cuộc đời đen tối trước mức
sống cách biệt rất lớn của họ.
-
Hai
là, vì họ không ý thức rằng sự chia sẻ những lợi thế (tiền bạc và quyền lực)
sang những người bất hạnh, là một QUI ĐỊNH BẮT BUỘC CỦA CHÂN LÝ SỐNG. Nếu không
mãi mãi họ sẽ là những người sống không
đạo đức, có mức sống tinh thần rất
thấp, và không bao giờ đạt được mục đích sống ‘HẠNH PHÚC TOÀN DIỆN’ trong đời.
Biết
rằng người nghèo, người mức sống trung lưu, dễ đạt mức sống ‘hạnh phúc toàn diện’
hơn “kẻ mạnh” nhiều. Trong khi “kẻ mạnh” có tất cả, chỉ trừ ‘hạnh phúc toàn diện’.
Đây là cái giá phải trả lớn nhất, cho những ai có lối sống ích kỹ bạo quyền trái tự nhiên với đồng loại.
Nếu
kết quả cuối cùng trong VMXH, ai cũng đạt kỹ năng VMĐĐ, thì hạnh phúc sẽ chia đều
hết mọi người.
Vì
thế trong VMXH, VMĐĐ (hay KHTT) là một môn học không thể thiếu trong sách giáo
khoa của các trường phổ thông, ở mọi cấp học. Nó là môn học về tinh thần nhằm
rèn luyện xây dựng nhân cách, và kỹ năng sống thiện, tình thương, và kỹ năng
dùng lý trí trong quan hệ sao cho đạt hạnh phúc cá nhân và xã hội.
KHTT là một nghề cao quý, nó chọn người có năng
khiếu để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này, và nó phù hợp với bất kỳ ai
muốn sống đời tốt đẹp. – Mọi thực khách đều muốn ăn ngon, bù lại phải có đầu bếp
giỏi năng khiếu đặc biệt (cái tâm).
Bằng
cấp về KHTT là sự cảm nhận giá trị lương tâm (A1) trong bản
thân cá nhân, đồng thời biến nó thành hành động công khai hữu ích được xã hội
công nhận.
Bằng
cấp sẽ được nâng cao, khi trình độ nhận thức lý luận được nâng cao, hiệu quả
hành động cũng được nâng cao (chiều rộng và sâu) tương xứng.
(Ghi
chú: “Cách Sống Học”, “Khoa Học Tinh Thần”, “Học Thuyết Nhân Tâm” đều có nghĩa
gần như nhau, tác giả gọi thay đổi tùy theo ngữ cảnh)
XI.
VĂN MINH LÃNH ĐẠO
Thói
quen lãnh đạo muôn đời là thích trên phán dưới nghe, không nghe ắt sinh chuyện
lôi thôi khó sống với trên.
Ngược
lại dưới góp ý, trên nghe hay không thì tùy, vì vậy làm kẻ dưới phải chịu thiệt
thòi bất công đủ điều.
Trên
đây là kiểu quan hệ một chiều từ thời nô lệ phong kiến. Nó tùy tiện không văn
minh.
Nhưng
nhiều người trong thời đại văn minh vẫn thích dùng phương thức quan hệ này, vì
nó rất có lợi cho người đang nắm ưu thế uy quyền. Họ được tự do muốn làm gì thì
làm, còn người khác thế nào thì mặc – lâu dần con người thành vô tâm và ác.
Sự
tác hại của kiểu quan hệ như trên là rất lớn. Nhất là khi người có quyền thế
trên phạm vi rộng (xã hội …), vừa mắc bệnh dốt (về qui luật tự nhiên), vừa kém
đạo đức, vừa chủ quan, vừa quyết tâm kiên trì thực hiện những mục tiêu hành động
mù quáng, v.v…không cần quan tâm tham khảo dư luận xã hội rộng rãi, hay tranh
luận công khai tính đúng sai của vấn đề với mọi người, … thì hậu quả đem lại là
vô cùng.
Khi
ấy các cấp dưới tha hồ lợi dụng lổ hỏng của trên, để thu lợi bất chính, gây thiệt
hại dây chuyền tiếp theo.
Trong
khi mọi phê phán giám sát từ phía nhân dân, đều bị triệt tiêu theo cách này hay
cách khác.
Mô
hình quan hệ một chiều như trên, dễ lây lan đến mọi người, từ xã hội đến gia
đình … đến các em học sinh. Họ bắt chước những hiện tượng xảy ra công khai tiêu
biểu trước bàn dân thiên hạ như trên. Vì nó như là tấm gương cho thấy như thế
là hợp lý là đúng, là hợp đạo lý sống của mọi người và xã hôi.
Vì
người ta không cho phê phán khi “người lớn” làm sai, đặc biệt giữa chính quyền
với nhân dân.
– (Mặc dù về nguyên tắc nhân dân là cấp trên của
chính quyền, nhưng thực tế chính quyền là cấp trên của nhân dân, vì lý do … hiến
pháp qui định. Mà hiến pháp thì chính quyền không cho sửa … chỉ chờ khi nhân
dân nỗi dậy … nhân dân thì chần chừ vì sợ … tội nghiệp chính quyền đau, con em
mình đau … ai cũng khổ … nhưng bí quá cũng phải liều … dù sợ …!).
Những
thiếu hiểu biết ban đầu (trong quá trình tiến hoá) đã cho con người những kỹ
năng sống sai lầm như trên, đến những qui định kỳ lạ của hiến pháp …. Lý do vì
thiểu số người được bầu chọn (theo cách kém hiểu biết) đã “chính thức thành
nhân dân – hợp pháp”, còn số rất đông người còn lại đã bị ‘MẤT HẾT QUYỀN CÔNG
DÂN’ (do mất quyền quyết định mỗi khi bất đồng ý với chính quyền).
Nếu
xét từ lòng tham và sự vô lương, thì ai cũng thích cơ chế một chiều, bởi nó rất
dễ làm và rất dễ để tư lợi bất minh.
Đây
là cách … “làm theo sở thích, hưởng theo bất lương”.
Nếu
ai chống lại cách làm trên, đã có súng ống sẵn sàng ...
Sự
kín kẽ của cơ chế một chiều càng hoàn hão, mối nguy hại cho xã hội càng lớn.
Người thật tài dễ trở thành nạn nhân trực tiếp của cơ chế này. Vì nó chỉ cần
người bất tài nhưng biết … vâng lời là đủ.
Trong
VMXH không cho phép cách làm trên tồn tại, vì nó phản khoa học phản tự nhiên phản
đạo đức, phản lại lợi ích xã hội một cách trầm trọng và trắng trợn.
Mà
nó chủ trương mọi quyền lực đều phải thông qua hệ thống diễn đàn (DĐND hay
VMDĐ) chứng minh công khai, khi muốn dùng nó để giải quyết một vấn đề mà có nhiều
người không đồng ý. Quyền quyết định cuối cùng thuộc về nhân dân toàn xã hội (tất
cả những ai quan tâm, dựa trên các kỹ năng lý luận phân tích hợp lý – lương tâm
A1
và HTNT).
Đến
nay chưa có mô hình xã hội nào trên thế giới làm theo cách này, hoặc đã có làm
nhưng chưa triệt để chưa đạt trọng tâm, vì thiếu ngôn ngữ trung gian làm phương
tiện hợp nhất ý chí toàn dân.
HTNT
và DĐND là phương tiện thống nhất quyền lực của nhân dân hiệu quả. Nó giúp nhân
dân tạo thành thế mạnh, đủ lực, đủ khả năng quản lý thành công chính quyền.
Để
người lãnh đạo trong chính quyền trở lại đúng nghĩa, là “anh thư ký” năng động và tốt bụng phục vụ nhân
dân.
Trong
VMXH, khi ‘lãnh đạo’ đã được nhân dân tin cậy giao cho quản lý xã hội, thì phải
có mức sống tinh thần, hay kỹ năng sống, hay trình độ KHTT, giỏi hơn mọi người.
Khi ấy người ‘thư ký’ (lãnh đạo) sẽ biết đưa ra những lý giải tốt nhất, nhằm
THUYẾT PHỤC mọi người CÙNG ĐỒNG HÀNH theo quan điểm của mình.
Nếu
được mọi người ủng hộ, chứng tỏ người ‘thư ký’ ấy có thực tài và đức độ, cũng
như đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ lâu dài.
Làm
cách nào hóa giải thành công những mâu thuẫn trong xã hội, đồng thời nâng cao
trình độ dân trí trong nhân dân, là trách nhiệm vinh quan của người ‘thư ký’.
Người ‘thứ ký’ bất tài thiếu tâm nhất định sẽ không thể trụ vững trong môi trường
VMXH như trên.
Ta
gọi người ‘thư ký’ như trên, là một … “VĂN MINH LÃNH ĐẠO” (VMLĐ).
VMLĐ
là người biết tạo niềm tin và uy tín bằng trình độ đạo đức, phẩm chất tinh thần,
kỹ năng phân tích tình huống sự việc (quan hệ, tâm lý, nhân cách), vạch ra phướng
hướng chiến lược phát triển tương lai, một cách hợp tình hợp lý hợp logic, được
mọi người trong xã hội đồng lòng ủng hộ, v.v…
và cuối cùng đem lại hiệu quả cao cho đời sống nhân dân và sự nghiệp
phát triển xã hội.
Tất
yếu để đạt thành công như trên, khái niệm dùng quyền lực chủ quan (bạo lực) để
áp đặt nhân dân, là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ đối với VMLĐ.
Ngoài
ra kỹ năng xét đoán con người về nhân cách, kỹ năng sống, phẩm chất tinh thần,
v.v… trong chọn lựa người tài phục vụ hiệu quả cho xã hội, cũng là một ưu thế đặc
thù của một nhà VMLĐ tài năng.
Dưới
sự điều hành của VMLĐ, bao giờ cũng tạo thuận lợi cho mọi người, mọi ngành nghề,
hoạt động tốt hơn thuận lợi hơn, trong khi các hiện tượng tiêu cực bế tắc trong
mọi hoạt động xã hội giảm dần. Trình độ của VMLĐ càng cao thì thành quả mang lại
càng có giá trị lan toả sâu rộng.
Ngược
lại nếu người lãnh đạo kém hay xấu, thì kết quả tiêu cực sẽ xảy ra phổ biến
trong xã hội, với tiến độ ngày càng tăng và bế tắc.
Đâu
đâu cũng thấy phát sinh tiêu cực, mất đoàn kết, quyền lực bị lạm dụng, đạo đức
xuống cấp, người tốt tích cực bị chèn ép ngày càng nhiều, kinh tế xã hội không
thuận lợi, v.v…
Trong
khi người lãnh đạo thì như luôn ẩn mình vô can, vô trách nhiệm trước mọi diễn
biến đáng lo, v.v ...
Nếu
có đặt câu hỏi thì người ta sẽ có trăm ngàn lý do để biện minh (một chiều) ...
cho mọi thất bại là đúng đắn hợp lý.
‘Kẻ
cướp’ bao giờ cũng thích ‘một chiều’ … để không ai bắt tội được mình. Nhưng ‘nạn
nhân’ bao giờ cũng cần ‘hai chiều’, từ lý lẽ đến hành động, để đưa tội phạm vào
tròng.
Vì
thế một xã hội đã chọn sai người lãnh đạo cao nhất, và chọn sai đường lối phát
triển, thì người lãnh đạo hết mười phần có nguy cơ trở thành ‘kẻ cướp’. Họ cướp
về vật chất lẫn tinh thần của nhân dân.
Trong
khi VMLĐ chỉ dựa trên chân lý để hành xử trong quan hệ, dưới sự giám sát chặc
chẽ của toàn dân (DĐND), nên không ai ‘cướp’ được của ai cái gì, khi quyền lực
thật sự đã thuộc về nhân dân. Nên mọi việc trong xã hội vận hành rõ ràng, minh
bạch, công khai, hiệu quả.
Một
VMLĐ giỏi còn là người biết cách đưa mọi người tiến lên vị trí lãnh đạo thay
mình, nếu cảm thấy xã hội đã có đủ năng lực.
“Nhân dân lãnh đạo nhân dân thành công”, là mục
đích lớn nhất và cơ bản nhất của sự nghiệp VMLĐ.
Trên
đây là những tiêu chí phải hoàn thành của VMLĐ, mà không bất kỳ một nhà lãnh đạo
nào khác hiện nay có thể đáp ứng, cho dù nhân dân luôn mong mỏi.
Bằng
con đường khai thác hệ thống DĐND, nhân dân dưới sự hướng dẫn của VMLĐ, sẽ từng
bước hình thành khả năng tự lãnh đạo.
Hay ‘ý chí’ của người ‘thư ký’ với nhân dân hoà làm một. Lúc bấy giờ khái niệm
‘thư ký’ hết sức linh hoạt, bởi mọi người ai cũng có thể lên thay thế lẫn nhau
trong vị trí này, nếu thấy lợi trong công việc.
Chỉ
khi ấy người dân mới thật sự thỏa mãn với cuộc sống.
Từ
cơ chế DĐND, nhân dân học cách lớn lên với thời đại, lớn lên với tư cách những
người chủ tập thể. Để từ đây họ có thể chủ động chọn và thuê những ‘thư ký’ mà
không sợ bị phản bội - (hành dân).
Một
người chủ kém sẽ không quản lý được “thư ký” gian.
Trong
VMXH, khi chủ tớ đều ngang tài ngang sức, thì không việc gì không giải quyết
thành công, không cái gian nào tồn tại trước ý chí thống nhất (nhân dân).
Một
xã hội đạt trình độ phát triển như trên, thì nhân dân xứng đáng với tên gọi … “VĂN MINH QUẦN CHÚNG”.
XII.
VĂN MINH QUẦN CHÚNG
Xưa
nay quần chúng được tiếng là thấp cổ bé miệng trước chính quyền.
Ngược
lại trong VMXH, chính quyền trở thành thấp cổ bé miệng (nhưng cho tự do nói)
trước “VĂN MINH QUẦN CHÚNG” (VMQC).
Vì
VMQC nay đã trở thành những nhà lãnh đạo xã hội, và chính quyền trở lại là những
‘thư ký’ dưới quyền.
Đã
là VMQC thì không còn quyền đỗ thừa ai khác, khi thành quả phát triển xã hội bị
thất bại.
Tất
yếu mỗi người trong xã hội phải gánh một phần trách nhiệm, hoặc số người là tác
giả liên quan trực tiếp (trong diễn dàn) phải chịu trách nhiệm chính.
Vì
vậy đã là VMQC, thì trong xã hội ai cũng phải có ý thức trách nhiệm đối với việc
chung, nhất là về ‘Chính Trị Xã Hội’. Không biết nhiều cũng phải biết ít, không
chuyên nghiệp cũng phải cơ bản. Đây là nguyên tắc, đây là qui luật sinh tồn tối
thiểu của mỗi công dân.
Là
VMQC không ai trong xã hội có quyền nói “tôi không biết đến chính sự” hoặc “tôi
không thích …” v.v...
Nó
giống như làm người thì không ai có quyền nói “tôi không thích ăn, mặc, ở,
v.v…”. Nếu không thích thì “đừng ăn đừng mặc đừng ở v.v…”
Trước
người dân do bị chính quyền làm cho “dốt quá”, bằng cách bị hù doạ và sát hại
những ai muốn tham gia chính sự trái ý.
Nhưng
nay đã là VMXH, thì mọi người phải ý thức hoàn thành chức năng ‘chủ’ xã hội của
mình, Vì vậy phải biết quản lý chính sự. Nếu không ‘kẻ ác kẻ gian’ sẽ lợi dụng
sự “bê bối và lười nhát trong canh cửa” của ‘chủ’, để tha hồ lẽn vào chiếm quyền
‘làm chủ’ thì nguy.
Việc
‘làm chủ xã hội’ suy cho cùng không khó với bất kỳ ai.
Chỉ
cần mỗi người dân “cho ý kiến trung thực khách quan” theo quan điểm riêng, về
những vấn đề xã hội đặt ra trong phạm vi cá nhân có thể hiểu.
Biết
ít nói ít, biết nhiều nói nhiều. Không biết việc này thì biết vấn việc khác,
v.v… Nếu nói không biết gì cả là vô lý, là vô trách nhiệm, là không xứng đáng
làm VMQC. Phải quay lại học “kỹ năng làm người”.
Nếu
cá nhân đạt sự quan tâm tối thiểu như trên, như thế là đã làm tốt vai trò lãnh
đạo quần chúng rồi. Nếu có điều kiện mở rộng hơn kiến thức, mở rộng hơn pham vi
quan tâm các vấn đề chung xã hội, thì không còn gì tốt bằng. Nó vừa có lợi cho
bản thân (trí tuệ phát triển toàn diện), vừa có lợi cho xã hội (kẻ xấu không
giành được chính quyền).
Tuy
các việc quan tâm trên không khó, không lớn, nhưng tiếng nói nhiều người cộng lại,
sẽ tạo nên quyền lực nhân dân trong mục đích làm chủ xã hội (đất nước).
Làm
người lãnh đạo xã hội hóa ra không khó, cho dù nhận thức của người dân còn giới
hạn. Thế mà lâu nay nhiều chính quyền không tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ
của những người dân (bình thường và trí thức). Không biết rằng họ là số đông,
là nguồn lực cơ bản của xã hội.
Mỗi
người góp một ý cũng là điều kiện để tìm ra ‘chân lý sống’ của xã hội và thời đại.
Từ chân lý này sẽ được dùng trong điều hành và định hướng phát triển xã hội,
phát triển mức sống của mỗi người dân.
Mỗi
ý kiến là một khái niệm mù mờ, nhiều ý kiến sẽ tạo thành một ‘quan điểm nhận thức
chính sự’ rõ ràng, rất quan trọng, rất quyết
định.
Để
biết quan điểm chính sự sai hay đúng, mọi người tham gia diễn đàn tranh luận sẽ
kết luận được vấn đề. Nhiều lần như vậy, dân trí sẽ tăng dần. Lúc này dễ còn mấy
ai qua mặt được người dân, kể cả người ta muốn tái lập lại chính quyền tiêu cực
(như kiểu ML ...).
Cứ
thế xã hội ngày càng mạnh, thế nước càng vững chắc.
Khi
mọi người dân biết và dám nhận xét góp ý các vấn đề chung của xã hội, thì không
còn chính quyền nào dám cỡi đầu dân, biến họ thành “thấp cổ bé miệng”, để tự do
thu lợi bất minh, đẫy vận nước vào thế cờ tàn …
Nhân
dân lãnh đạo nhân dân, đó là con đường tất yếu để đưa xã hội tiến lên thịnh vượng
ngắn nhất, nhanh nhất.
Vấn
đề còn lại, là chính quyền (hiện tại) có dũng cảm chuyển đổi, mở cửa cho nhân
dân tiến lên hay không. Hay phải đợi nhân dân tức nước vỡ bờ tìm đường sống ...
Khi
cánh cửa xã hội đã mở, quyền lực đã bàn giao.
Mỗi
người sẽ là một thế lực nhỏ, một viên gạch chân lý thô. Nhiều viên gạch liên kết
lại, sẽ kiến tạo nên ngôi nhà chân lý hoàn thiện. Ngôi nhà chân lý ấy không một
cá nhân thiên tài hay một tập thể siêu việt nào, có thể kiến tạo thay.
Cuối
cùng sẽ có những việc ngoài tầm giải quyết của trình độ số đông đương thời, khi
ấy mới cần có những nhà khoa học tài năng (Người Chỉ Dẫn - NCD) nghiên cứu mở
nút thắt.
Sau
khi được nghe những gợi ý tham khảo của những người NCD, mọi người trong diễn
đàn sẽ đưa ra quyết định kết luận cuối cùng cho thực thi. Và bao giờ trong cái
quyết định tập thể ấy, cũng có người chủ trương chính, đứng ra chịu trách nhiệm
cá nhân về tính đúng đắn của quan điểm đề xuất kết luận. Để sau này tiện việc
truy nguyên rút kinh nghiệm, dù hay dở đúng sai thế nào.
Quyền
và trách nhiệm là hai mặt của một hành động.
Nhân
dân muốn có quyền mà không muốn chịu trách nhiệm, là vô lý.
Xã
hội (chính quyền) không giao quyền cho dân, mà đòi hỏi họ phải gánh trách nhiệm
mỗi khi tai hoạ (giặc) ập đến, cũng là vô lý bất công.
Vì
thế tốt nhất, ‘Quyền và Trách Nhiệm’ nên chia đều cho hai bên, thì việc chung sẽ
thu được kết quả cao.
Sự
phân chia quyền lực và trách nhiệm như trên nghe rất đơn giản và hợp lý, đối với
mọi người dân.
Nhưng
xưa nay không chính quyền nào muốn áp dụng. Một là không biết phải làm sao hay
phải dựa trên cơ sở lý thuyết nào, hai là năm khi mười hoạ được “đứng trên thiên
hạ” thì “dại gì” đem chia quyền cho dân … uổng phí quá.
Như
thế là sai, phải nghĩ rằng, “dịp may hiếm có … không ai chia, ta phải mạnh dạng
chia quyền cho dân, để cứu dân, cứu vận nước”.
Nay
lý thuyết đã có, thực tế đã chính mùi, vấn đề còn lại là chính quyền có muốn thực
hiện hay không mà thôi.
Nếu
thực hiện … thì rõ là chính quyền hiện nay thật lòng thương yêu nhân dân.
Nếu
không thực hiện … thì rõ là chính quyền hiện nay có quyền lợi nghịch với lòng
dân.
Qui
luật tiến hoá luôn là người thầy sáng suốt đối với loài người. Lúc dễ lúc khó,
có lúc rất chiều chuộng con người nếu đã lỡ sinh lỗi lầm ...
Nhưng
chớ lạm dụng quá đáng sự ưu ái ấy, để gây ra sự thống khổ kéo dài cho nhân dân.
Như thế “Ông …” sẽ nỗi giận ... nhân dân dậy sóng …
PHẦN
II: CHỦ NGHĨA GIÁO DỤC
Để
xây dựng VMXH, con người cần hoàn thành hai nhiệm vụ cơ bản, VĂN MINH GIÁO DỤC và xây dựng hệ thống
DĐND - (trên nền mức sống vật chất đã đạt khá cao hiện nay).
Trách
nhiệm của giáo dục là truyền tải kiến thức cho các thế hệ đi sau.
Tuy
nhiên kiến thức nhà trường dù phong phú đến đâu, cũng không thể theo kịp những
diễn biến phức tạp và nhanh ngoài xã hội, nhất là trong thời đại thông tin ngày
nay.
Vì thế DĐND
sẽ là một bổ khuyết hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục.
Với
cơ chế giáo dục bổ khuyết này, sẽ giúp người học viên không còn cảm thấy bơ vơ
bỡ ngỡ khi phải một thân một mình bước vào đời. Những cạm bẫy của cuộc sống sẽ
không còn là gánh nặng hay mối đe doạ cho bất kỳ ai. Một môi trường sống như vậy
là rất lý tưởng.
Hoàn
thành được trách nhiệm trên, ngành giáo dục sẽ chính thức trở thành trung tâm
quản lý xã hội, vì từng bước chốt chận được mọi sai lầm (tội phạm) phát sinh
trong xã hội.
Như
thế trong thời đại văn minh xã hội, ngành giáo dục sẽ trở nên cao quý và vinh
quang hơn bất kỳ mọi ngành nghề khác. Vì nó đã là nhân tố quyết định, cho sự
bình an của con người và xã hội.
I.
VĂN MINH GIÁO DỤC (VMGD)
Nhưng
nhìn lại tình hình giáo dục hiện nay, hình như đây đó nghe nhiều tiếng đồn về sự
kém hiệu quả của nó, nhất là mặt đạo đức tinh thần (kỹ năng sống và phát triển
tâm hồn).
Nguyên
nhân vì phạm trù tinh thần ngày nay chưa được khai thông trong khoa học. Kết quả
dẫn đến, giáo dục luôn bị khiếm khuyết trong mảng đào tạo “kiến thức nhân cách và kỹ năng phát
triển tinh thần”.
Trong
văn minh thời đại vai trò của giáo dục hoàn toàn khác.
Vì
nó có khả năng hoàn thành xuất sắc các yêu cầu trên. Tức là khoa học tinh thàn
là một phần tất yếu trong chương trình giản dạy kiểu mới.
Con
người là sản phẩm của giáo dục.
Nên
không ai khác ngoài giáo dục, phải chịu trách nhiệm trước xã hội và trước mỗi
công dân, nếu con người không hoà nhập và phát triển thành công trong môi trường
xã hội văn minh hiện đại.
Ai
đó bị tù tội ư, giáo dục phải lên tiếng. Đất nước bất ổn chậm tiến ư giáo dục
phải trả lời. Nhân dân chưa sống hạnh phúc ư, giáo dục phải nhận lên tiếng nhận
trách nhiệm. v.v…
Vâng,
tất yếu không phải một mình giáo dục phải chịu tất cả, nhưng nó phải chịu phần
chính. Vì mọi nhà lãnh đạo cũng từ giáo dục mà ra, mọi công dân cùng được đào tạo
từ giáo dục.
Vì
thế một giáo đục đúng nghĩa, mạnh và hiệu quả, sẽ đủ khả năng nhận lãnh tất cả
những trách nhiệm trên.
Đồng
nghĩa với khái niệm khoa học kiểu mới, cũng phải đủ mạnh để làm bệ phóng cho
giáo dục hiện đại.
Hay
ta nói rằng, cả hai phải tiến lên … “văn minh khoa học” và “văn minh giáo dục”.
Trong
văn minh thời đại, tất yếu phải có ‘văn minh khoa học’, đồng nghĩa ‘khoa học vật
chất’ và ‘khoa học tinh thần’ cùng có cơ hội phát triển cân đối.
Khác
với khoa học vật chất, trong “khoa học tinh thần” ai sẽ là nhà khoa học?
Mọi
người cần thiết phải phấn đấu trở thành ‘những nhà khoa học tinh thần’.
Vì
sao?
Vì
mỗi đời người là một bài toán độc lập nhất định. Mà chỉ có chủ sở hữu (cá nhân)
mới đủ điều kiện tìm ra lời giải tối ưu cho nó.
Năng
lực chủ sỡ hữu kém lời giải sẽ kém và ngược lại.
Thực
tế trên là một định mệnh ngẫu nhiên mà tạo hóa đã an bày cho mỗi đời người. Mọi
người muốn tham gia giúp làm thay cũng không được. Ngoại trừ một số góp ý định
hướng đào tạo …
Mọi
con người sinh ra lớn lên đều không thể từ chối trọng trách thiêng liêng này.
Theo yêu cầu, cá nhân phải cố gắng hoàn thành mục đích trên một cách tốt nhất.
Đó
là phải hoàn thành công trình nghiên cứu về con đường trưởng thành của riêng
mình.
Ta
gọi họ là “những nhà khoa học tinh thần nghiệp dư”.
Nếu
không như thế sự sống sẽ đóng cánh cửa lại với họ.
Để
hoàn thành công việc khó nhọc trên, các nhà khoa học tinh thần chuyên nghiệp sẽ
có những trợ giúp thích hợp, thông qua các chương trình giáo dục trong nhà trường,
và sau nhà trường. - Cụ thể là hệ thống VMDĐ (DĐND).
Tất
cả tạo thành một chu trình giáo dục khép kín, nhằm giúp mọi người có điều kiện
hoàn thành tốt nhất công trình nghiên cứu khám phá và thiết kế cuộc đời mình
thành công.
Đây
là một sự nghiệp đáng được trân trọng, đối với bản thân và đối với xã hội.
Thành
quả trưởng thành là một công trình khoa học của mỗi cá nhân, những khoa học gia
trong thời đại văn minh tinh thần.
Và
KHTT sẽ là bà đỡ cần thiết,
giúp tất cả các cá nhân hoàn thành tốt đẹp sản phẩm công trình “ĐỜI NGƯỜI” của
riêng mình.
II.
SỨC MẠNH GIÁO DỤC
Văn
minh giáo dục là sự kết hợp giữa giáo dục vật chất và giáo dục tinh
thần cho từng học viên.
Trong
giáo dục hiện đại, tinh thần luôn đóng vai trò trọng tâm, vì nó có ảnh hưởng
quyết định đến sự hình thành nhân cách con người, đến kỹ năng quan hệ giữa người
với người.
Nếu
giáo dục nói một đàng thực tế đi một nẻo, giáo dục như thế là hỏng là xáo rỗng
là ảo là hư … không thật, không lợi, không hiệu quả ...
Nhiệm
vụ của giáo dục là làm sao cho học viên khi ra trường, phải thông thạo những hiện
tượng thực tế ngoài đời, ngoài xã hội, như chính những gì đã được giản dạy
trong lý thuyết. Tức là lý thuyết và thực tiễn cuộc sống phải đi đôi.
Hay
chính xác hơn người học viên khi rời khỏi mái trường để tham gia vào môi trường
xã hội, thì phải thành thạo đâu là công đoạn tiếp theo mình phải làm, để đạt kết
quả tốt nhất. Tốt từ lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn đến kỹ năng nhận thức toàn
diện xã hội.
Để
thực hiện tốt hoài bão trên, rõ ràng các cơ chế vận hành xã hội đang có như hiện
nay, cần được rà soát lại đồng bộ sao cho khơp với nội dung giảng dạy kiểu mới
trong nhà trường.
Ví
dụ: nhân cách mọi người ngoài xã hội phải đúng đắn theo qui định ... - một vấn đề không tưởng chăng? nhưng trong văn
minh thời đại nó sẽ là điều hợp lý tất yếu theo thời gian.
Bởi
KHTT sẽ là cứu cánh của vấn đề.
Nó
sẽ giúp con người vượt qua thành công mọi nan giải về nhân cách, về mục đích sống,
về hạnh phúc đời người v.v…, mà trong thời đại hiện tại không thể.
Nếu
những dự kiến trên đều trở thành hiện thực trong tương lai, thì giáo dục đã
phát huy đúng với sức mạnh vốn có.
Và
đấy là sức mạnh của giáo dục.
Lịch
sử đã tạo ra chuyên ngành “Giáo Dục” nhưng cũng gây cho nó những khiếm khuyết.
Nay nếu được đổi mới, hi vọng “khoa học giáo dục” sẽ tìm thấy lại chính
mình.
III.
CHÂN LÝ GIÁO DỤC
Bản
chất con người là sống và hành động theo tâm A1.
Trong
tâm A1 bao gồm “KHOA HỌC VẬT CHẤT” (KHVC) và “KHOA HỌC
TINH THẦN” (KHTT).
Tâm A1 có đặc điểm là không
thể phát triển nhanh và thuận lợi, khi nó được đào tạo theo phương thức giáo dục
áp đặt, nhồi sọ, ép buộc, mệnh lệnh một chiều, sợ hãi, bạo lực, chủ quan, vô
lý, vô tình, vô cảm, vô nhân, v.v…, gọi chung là không hợp TÌNH và LÝ và cũng
không hợp tự nhiên.
Giáo
dục tốt là phải có nội dung truyền đạt hợp lý đúng đắn, mọi người được tự do
tranh luận công khai đa chiều rộng rãi, trong sự thân thiện tình người, v.v… để
cuối cùng kết quả tiếp thu tự động chạy đúng vào trọng tâm chương trình đã hoạch
định.
Yêu
cầu này, trong KHVC, con người đã hoàn thành tốt.
Nhưng
đối với KHTT, con người chưa làm được ... vì chưa có KHTT.
(Chú thích:
-
Biết
rằng KHTT là chuyên ngành đạo tạo về sự sống, về quan hệ giữa người với người,
về quan hệ giữa cá nhân với nội tâm, về kỹ năng quản lý vận hành trí tuệ của
não, về kỹ năng sống hạnh phúc nói chung, v.v... Gọi chung là đào tạo “kỹ năng sống và quan hệ”.)
Vì
chưa có KHTT, nên nhận thức con người trong quan hệ, đến giáo dục chính trị xã
hội (quan hệ chính quyền với nhân dân) v.v… , còn mang tính tuỳ tiện nên dễ
phát sinh ‘bạo lực áp đặt’ làm phương tiện, khi lý lẽ bị thiếu trầm trọng.
Trong
VMXH, KHTT đã được hình thành.
Đặc
điểm của KHTT là tính trừu tượng cao, nên các khái niệm “chân lý” rất khó để nhận
diện và cũng như rất khó để mọi người thống nhất đồng tình.
Nên
một nội dung truyền đạt có thể đúng về hình thức (nghe “mát tai” hợp lý …),
nhưng sai về bản chất nội dung. Nhưng người nghe nếu thiếu cảnh giác, thiếu
kinh nghiệm sẽ rất khó phát hiện.
Đặt
biết nếu mới nghe lần đầu thấy hay lạ, dễ ngộ nhận nó là chân lý.
Cộng
với uy tín người (bằng cấp lý thuyết) giới thiệu, thì sự ngộ nhận càng lớn hơn.
Nhưng
quên rằng trong khoa học, cái đúng, cái chân lý, phải được kiểm tra trong thực
tiễn về thời gian và trong mọi hoàn cảnh. Chỉ khi nó đạt thành công tuyệt đối
thì mới được công nhận.
Thế
nhưng trong thực tế, do nhiều áp lực và do tính phức tạp của chân lý trong
KHTT, nên nhiều người đã vội kết luận đây đó …
là ‘chân lý’, trong khi thời gian và điều kiện kiểm nghiệm chưa hội đủ.
Lâu
dần cái “đúng” giả được công nhận, lần sau và sau nữa v.v… cũng công nhận (cho
dù thật bại ứng dụng đã xuất hiện nhiều), nhưng vì do thành quen, do lười kiểm
tra, do tham vọng, do hoàn cảnh, v.v… Nên lâu dần thành quen, thành khó sửa,
thành “hè nhau” tung hê … cái ‘đúng giả’ là ‘đúng thật một trăm phần trăm’, là
“chân lý”, v.v…
Đến
khi đối diện trước cái ‘đúng thật’ hay ‘chân lý thật’, thì con người không còn
khả năng phân biệt, hoặc có phân biệt do bản chất lương tâm, nhưng từ chối công
nhận lẫn tiếp thu … vì hoàn cảnh vì lòng tham v.v … không cho phép.
Trong
KHTT, một giá trị được gọi là chân lý, là khi nó công khai ra, và đươc mọi người
công nhận từ nhận thức đến kết quả thực tiễn trên mọi khía cạnh không thời
gian.
(Chú thích:
-
Một
nội dung đúng (lẽ phải -chân lý) được mọi người đa số công nhận, nhưng có một
thiểu số người không công nhận do bị thói quen của tâm A2 chi phối.
Trường
hợp này nếu phân tích kỹ, họ có thể chấp nhận về lý nhưng về tình thì chưa.
Nếu
trường hợp tình và lý đều không chấp nhận (A2 mạnh), thì tối thiểu họ
cũng không đưa ra được một phản biện hợp lý nào để mọi người công nhận (xã hội
hay thế giới).
-
Đến
đây chân lý có thể tạm kết luận về lý thuyết, phải chờ chứng minh thêm trong thực
tiễn.- Có những trường hơp phải kéo dài thời gian (nhiều năm).
Tuy
nhiên lúc này, ai giác ngộ trước (công nhận chân lý) vận dụng trước, ai chưa
thì chờ kết quả chứng minh.
-
Vì
thế vai trò của giáo dục từ sớm rất quan trọng, sai một li đi một dặm, … gây
giác ngộ chậm.)
Trong
thực tế phương pháp giáo dục “đúc
khuôn”, thường được áp dụng trong lĩnh vực tinh thần. Khi việc chưng
minh ‘chân lý tinh thần’ quá nan giải.
(Chú
thích:
-
KHTT
chứng minh, bản thân nó có chân lý
như KHVC. Nó chỉ khác về phương thức biểu hiện - chủ yếu bằng cảm nhận của ‘tâm giác’ là chính, kỹ
năng này có thể được đào tạo hoàn toàn bằng con đường giáo dục. (xem thêm tác
phẩm “Ý Thức”)
-
Bên
cạnh có thêm lý lẽ minh chứng, kết hợp với kết quả ứng dụng thực tiễn.
-
Tuy
nhiên kết quả ứng dụng thực tiễn, thường bị trãi rộng ra về không thời gian,
nên nhiều người khó quan sát thấy. – Vì vậy đây là lý do phổ biến để các học
thuyết hay quan điểm ‘phi chân lý’, có cơ hội nhảy vào tự khai là “chân lý”, để
tồn tại và gây kết quả tiêu cực.
-
Nhưng
theo qui luật tự nhiên, các giá trị ‘phi chân lý’ sẽ tự động tàn lụi, chỉ chừa
lại các giá trị ‘chân lý’ đúng nghĩa trường tồn với thời gian.
-
Cuối
cùng là nguyên tắc công khai tranh luận (rộng khắp xã hội), sẽ là liều thuộc thử
đặc biệt hiệu nghiệm, để phát hiện ra ‘phi chân lý’ ngay tức thời, trong điều
kiện xã hội đã tìm ra ‘chân lý’ đúng nghĩa thành công.
)
Đặc điểm của “đúc khuôn” là áp đặt bằng mọi
hình thức, từ quyền lực đến tình cảm lý lẽ, v.v… nhằm mục đích đào tạo nhân
cách phát triển theo mẫu đã định trước (nhưng trái tự nhiên).
Thông
thường người tiếp thu có thể biết hoặc không biết mình đang bị “đúc khuôn” nhân
cách, quan điểm.
Vì
họ bị nhầm lẫn bởi HÌNH THỨC LÝ LUẬN của nội dung giáo dục là tốt và hợp lý, kể
cả được cho tranh luận tự do thoái mái (nhưng không thấy bị qui định một chiều,
không được lý luận chứng minh ngược) nên càng tin hơn.
Kết
hợp với nó là những lôi kéo về tình cảm, về quyền lợi vật chất, về các lợi thế
đời sống xã hội, về những hứa hẹn tương lai (khó kiểm chứng), … kể cả đe doạ
quyền sinh tồn …
Người
thường, nếu không để ý, sẽ không thấy phương thức nội dung giáo dục như trên là
phiến diện, là sai lầm, là ngộ nhận, là độc ác, là bất lương, v.v...
Vì
trong giáo dục tinh thần, BẢN CHẤT CỦA NỘI DUNG LÝ LUẬN so với QLTN mới có giá
trị quyết định. Tức là CÁI LÝ CỦA TÂM phải thông, sau khi mở rộng tranh luận đa
chiều trên phạm vi toàn xã hội (nhiều người, đa dạng quan điểm) nếu cần.
– Đây là vấn đề khó thực hiện khi chính quyền
cố tình ngăn cản một cách bất chính. Với lý do khó thực hiện, tốn kém, không cần
thiết, trình độ dân trí thấp (cho dù đã giúp đánh thắng bao nhiêu giắc to đầu),
xem thường lãnh đạo, phản động, muốn phá hoại khối đại đoàn kết, chống lại nhân
dân, chống lại đường lối sáng suốt, v.v… Và nhất là khi ‘chân lý sống’ đúng
nghĩa chưa được xác lập để cạnh tranh song song.
Tất
cả như trên gọi chung là giáo dục áp đặt theo kiểu “đúc khuôn”.
Sự
sống từ lâu đã có chân lý riêng của nó.
Để
tiếp thu chân lý sống, con người cần được giáo dục một cách tự nhiên hợp lý. Tức
là ngoài các kỹ năng giáo dục thông thường, người học còn được khuyên khích
tranh luận công khai đa chiều không giới hạn, kể cả trên phạm vi xã hội loài
người (internet).
Vì
phạm vi tranh luận càng rộng thì tính chân lý trong lý luận nhận thức càng thêm
sáng tỏ và đúng đắn. Nên không gì phải ngại hay cấm đoán.
Trong
khi các “chân lý” khác thì sợ nguy cơ vượt rào, phá sản “chân lý”.
Ngược
lại một ‘chân lý đúng’ không bao giờ sợ bị phá sản, cản mở rộng càng tăng giá
trị thành công.
Bản chất của tinh thần
là một phạm trù mang tính khoa học.
Do
vậy mọi tranh luận theo phương pháp luận lôgíc khách quan đa chiều đều dẫn đến
kết quả tốt đẹp, đúng với dự kiến kết quả.
Trong
khi những giá trị phi chân lý không bao giờ thực hiện được như trên, cho dù về
hình thức nó cho cảm giác rất hợp lý rất đúng, kể cả rất hợp tình nữa.
Chân
lý giáo dục trong KHTT có tính ưu việt hơn ở nguyên tắc này.
Như
thế nó là chân lý khách quan, còn lại
là chân lý chủ quan.
Ngoài
ra không còn một phương pháp nào khác hiệu quả hơn, trong phân biệt ‘chân lý sống’
(cá nhân hay xã hội).
HTNT
là một gợi ý mở đường để con người cùng tranh luận tìm ra chân lý trong KHTT.
Sự
sống bắt đầu từ chân lý gốc (CLG). Nó có nhu cầu được mọi người mở rộng thành
các lẽ phải- chân lý (LPCL) đa dạng, nhằm lý giải các hiện tượng mâu thuẩn
trong sự sống, trong quan hệ. (xem “Ý THỨC”).
Chân
lý suy cho cùng là các nhận thức lẽ phải thông dụng, mà con người đã vận đụng từ
lâu trong đời thường. Nhưng thực tế nó thành không có, không thấy, là vì con
người chưa tìm ra phương thức (học thuyết) chứng minh giá trị đúng đắn của nó.
Vì
chưa chứng minh được, nên tưởng nó không có.
Do
không có, nên ‘chân lý’ được hiểu là ‘không chân lý’, tức là điều sai trái. Ngược
lại điều sai thì cho nó là ‘chân lý’ -
thường là do “kẻ mạnh” qui định.
Nhưng
thực tế chứng minh, không ‘chân lý- kẻ mạnh’ nào đúng cả, vì chúng không nhất
quán nên phủ quyết lẫn nhau, thành không ai chịu nghe ai. Sinh loạn và sụp.
Cuối
cùng chân lý tuỳ mỗi người cảm nhận và kết luận theo cách riêng.
Hay
người ta nghĩ rằng chân lý phải do các cá nhân đặc biệt nghĩ ra, nhờ thần linh
mách bảo, hay do bẩm sinh thiên phú, v.v...
Xã
hội thành đa chân lý, sự sống thành lộn xộn.
“Lộn
xộn” là môi trường lý tưởng của bạo lực và cái ác lên nắm quyền.
Cái
ác phát sinh, lại nhân danh quyền duy trì trật tự “chống lộn xộn” … để triệt hại
những biểu hiện tích cực nào không lợi cho “ác”.
Ác
chồng ác, rối thêm rối … đời sống tinh thần bị bế tắc, xã hội bất ổn, bệnh tâm
thần gia tăng, v.v…
Hướng nhìn về lương tâm (A1) sẽ giúp con người tìm
thấy lối thoát.
Mục
đích lớn nhất của giáo dục là phát huy bản chất sống tích cực của con người.
Làm
người mà không làm chủ được bản chất tích cực của tinh thần, là sự sống xem như
mới chạy được nửa công suất. Sự sống thành kém.
Chỉ
vì thiếu chân lý dẫn đường, nên mọi người chạy bổ vào nhau để tìm đường sống,
thành gây tai nạn mọi nơi. Công suất người khoẻ mạnh giảm.
Vật
chất có nguyên tử làm nhân trung tâm điều khiển.
Con
người sống bằng tinh thần, có trung tâm A1 làm tâm điểm điều khiển.
Biết
tâm, con người sẽ làm chủ chân lý, làm chủ nhân cách, làm chủ cuộc sống cá nhân
và xã hội, cũng là làm chủ tương lai.
Khi
mức sống vật chất đã cơ bản, thì vốn phát triển giá trị tiếp theo của đời người,
chỉ có thể là vốn sống tinh thần. Vốn sống tinh thần chỉ có thể là kỹ
năng làm chủ tâm A1.
Làm
chủ tâm A1 là làm chủ kỹ năng tư duy ý thức và tư duy vô thức
(tiềm thức), tức là làm chủ sự sống và quan hệ.
Thiếu
nó mục đích đường dài sẽ thất bại, lợi ích bề rộng kém phát triển, chất lượng bề
sâu kém.
Loài
người từ lâu sống trong kém chất tinh thần như trên.
Vì
thế, từ một dân thường đến các nhà lãnh đạo, đến các khoa học gia v.v… , đều ít
nhiều khổ tâm trước những bất thường của cuộc sống.
Tiềm
thức
(vô thức hay tâm) là do ý thức , cộng bản năng , cộng thời
gian , tạo thành.
Ý thức do ý chí quyết định, bản năng tích cực do A1
định hướng, thời gian tạo kết quả ổn
định.
Công
thức trên đã do tạo hóa định luật từ muôn đời.
Muốn
làm chủ sự sống, đạt kết quả tốt đẹp lâu dài toàn diện, công thức trên cần được
con người vận dụng nhuần nhuyển thành công.
Loài
người đã thử vượt qua giới hạn của công thức trên từ nhiều ngàn năm qua, nhưng
thất bại đến nay đã rõ.
“Đời
cha ăn mặn, đời con uống nước” kéo dài, vô tình cản trở các thế hệ sau tìm ra
chân lý sống. Do bị che phủ bởi dưới nhiều tầng lớp tập quán nhận thức đè lên
lý trí tình cảm, đến giáo dục cũng bị sai lệch mục tiêu.
Nay
có điều kiện từ tốn nhìn lại toàn diện và xuyên suốt cuộc sống, hi vọng mọi người
sẽ khám phá ra chân lý giáo dục, cũng là chân lý sống.
Biết
nguyên nhân gốc tại đâu, sự sống sẽ thoát được vòng lẩn quẩn, không còn đúng
sai xoay vòng lẫn lộn.
Có
chân lý giáo dục, sự sống con người và xã hội sẽ sớm đi vào ổn định trật tự và
phát triển lành mạnh.
Đó
là nhiệm vụ vinh quan của VMGD trong một VMXH.
IV.
LỢI ÍCH CỦA VMGD
Sản
phẩm của giáo dục là “con người trưởng
thành toàn diện tốt đẹp”.
Con
người trưởng thành là tính từ cơ thể đến trí tuệ.
Trí
tuệ trưởng thành là vốn tinh thần, là nguồn lực của phát triển.
Muốn nguồn lực trên đạt hiệu quả hoạt động cáo nhất,
nó cần có kỹ
năng vận hành trí tuệ hiệu suất nhất.
Và
đây là nhiệm vụ của VMGD.
Trí
tuệ có lõi là tâm (tiềm thức), tâm
có nhiệm vụ điều khiển trí tuệ, tạo
thành kỹ năng sống và vốn sống của một nhân
cách.
Ý thức chi phối được tâm, nhận thức và hành động chi phối được ý thức.
Nhận
thức và hành động tạo ra “ý nghĩa” của
mỗi việc làm, mỗi lao động (trí óc hay chân tay).
Đặc
điểm của tâm là ghi nhớ mọi “ý nghĩa” phát sinh trong lao động, dưới dạng các cảm
giác (cảm xúc).
Sau
nhiều lần nó tích tụ cảm xúc thành một “quyền lực của tâm”, để cuối cùng nó định hướng ngược trở lại cho ý
thức và nhận thức điều khiển lao
động (hành động).
Trên
đây là chu trình vận động khép khín của tinh thần (não), từ đầu vào đến đầu ra.
Nếu
vòng tròn khép kín trên mang tính “đúng” (chân lý và thiện), thì nhân cách sẽ
phát triển “tích cực” (thiện) ổn định lâu dài thành bản chất thiện.
Nếu
vòng tròn khép kín trên tình cờ là “sai” (phi chân lý và ác), thì nhân cách sẽ
phát triển “tiêu cực” (ác) ổn định lâu dài thành bản chất ác.
Để
chuyển từ chu trình khép kín này sang một chu trình khép kín kia, con người phải
đột phá bằng chìa khoá nhận thức.
Điều
chỉnh nhận thức, sẽ điều chỉnh được “ý nghĩa” lao động.
Nhiều
lần điều chỉnh “ý nghĩa” láo động, là điều
chỉnh được “quyền lực của tâm” từ ác thành thiện.
Chân
thiện mỹ, tình người, v.v… là các cảm xúc tốt đẹp của tâm A1.
Khi
“quyền lực của tâm” chuyển sang vận hành theo chu trình thiện, tức là thoả điều
kiện của tâm A1. Đồng nghĩa các tiêu chí về chân thiện mỹ v.v… đã
được thoả trong quá trình phát triển vốn
sống tinh thần.
Nếu
quá trình phát triển như trên đạt kết quả
tích cực ổn định chính mùi theo thời gian, thì cá nhân sẽ đạt mức sống “HẠNH
PHÚC TINH THẦN TOÀN DIỆN” trong tâm hồn – hay còn gọi là “đắc đạo” vậy.
Con
người lớn lên dưới tác động của môi trường
sống (chưa có KHTT) tự phát, có
khuynh hướng ngã về chu trình “sai và ác” một cách tự nhiên.
Nếu
cá nhân may mắn hưởng được những tác động giáo dục tích cực của môi trường (gia
đình, nhà trường, tôn giáo), cộng với ưu thế bản năng thuận lợi, có thể tránh bị
rơi vào chu trình tiêu cực, để gia nhập vào chu trình “đúng và thiện”.
Nhưng
do ranh giới giữa đúng (thiện) và sai (ác) từ lâu ít nhiều còn mơ hồ, nên trong
đánh giá sản phẩm nhân cách con người cũng còn tương đối. Trừ phi trong một số
trường hợp, đã hội đủ điều kiện thực tế để chứng minh – ví dụ “cháy nhà lòi …mặt
chuột”.
Trên
đây là qui trình xã hội sản sinh ra những công dân, chưa mấy minh bạch về giá
trị tinh thần cho thời đại.
Vì
thiếu tính minh bạch, nên một cá nhân ‘xấu’ vẫn có thể tự công khai cho mình là
‘tốt’, và “bắt buộc xã hội cũng phải công nhận như thế”. Cho dù thực tế có thể
có nhiều người hoài nghi về hiện tượng trên, hoặc cảm nhận rõ đây là một sự lừa
gạt gian dối, kể cả nó có thể mang tính ác.
Nhưng
tất cả cũng phải đành “khoanh tay đứng nhìn” …, vì thiếu phương án xác minh giá
trị thật của hiện tượng.
Kết
quả là con người có thể lẫn lộn khi kết luận, đây là “nhân cách tốt” hay kia là
“nhân cách xấu”, trong nhiều trường hợp.
Trên
đây là thực tế khách quan mà các xã hội thường gặp, trước bài toán đánh giá
‘nhân cách con người’.
Chỉ
đợi đến khi hậu quả lớn xảy ra, con người mới có thể qui kết thành tội phạm,
thành đúng hay sai, thiện hay ác. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, nhiều
phen cũng phải chịu đầu hàng vì có khi người gây tội chưa hẳn đã là kẻ ác thật … vì lý do hoàn cảnh, những
tác động khách quan, xa gần, v.v…
Thế
là phức tạp, là chưa có lời giải xác thực.
Nhiệm
vụ của VMGD là giúp con người minh bạch hoá ranh giới giữa “đúng và sai”, “thiện
và ác” trong thế giới con người.
Đây
là vấn đề không thể giải quyết ngay một lúc. Nó là một quá trình đào tào nhân
cách lâu dài. Và đào tạo dư luận từ xa.
Để
cuối cùng theo thời gian, xã hội tạo thành một lớp người, một phong trào dư luận,
một môi trường nhận thức quan điểm công khai, mà nơi ấy cái thiện (chân lý) và
cái ác (phi chân lý) đã được minh bạch hoá rõ ràng bởi số đông, bởi thói quen tập
quán, bởi dư luận.
Khi ấy cái đúng và cái sai mới dễ nhận rõ, và
con người mới đủ khả năng phê phán về một nhân cách mà không sợ sai, không sợ
“hồi mã thương” một cách vô lý và oan ức.
Trong
điều kiện môi trường xã hội ngày nay, khi quan điểm sai và đúng còn đang tranh
giành lẫn lộn trong từng cá nhân, trong từng gia đình và xã hội, trên thế giới,
v.v… thì một nhận xét đúng hay sai thường chỉ đem lại kết quả tương đối.
Nó
chỉ tuyệt đối khi VMXH tiến hành cấu tạo nên môi trường sống mới do VMGD chịu
trách nhiệm xác lập.
Đấy
là sự khác biệt giữa lợi ích của VMGD với các mô hình giáo dục đang phổ biến.
Phương thức của VMGD là dựa trên các chứng
minh trong KHTT, để rút ra những kiến thức hợp lý nhằm trang bị từ sớm các kỹ
năng nhận thức có lợi cho mục đích phát triển tâm tích cực A1
của con người.
Khi
tâm tích cực phát huy thành ưu thế mạnh, thì môi trường sống xã hội trở nên an
toàn. Cứ thế qui trình tiếp tục xoay vòng khép kín theo hướng tích cực tiến lên
mãi mãi.
Khép
lại kiểu môi trường sống tiêu cực cũ, đúng sai lẫn lộng từ môi trường xã hội đến
môi trường giáo dục. Làm người sống trong môi trường đó muốn “đúng hay thiện”
cũng không xong, nên đành … ba phải “gió bề nào che bề nấy” cho yên chuyện, ấm
thân.
Từ
môi trường cũ tiến lên môi trường mới, là sự nghiệp tiến hoá của thời đại.
“Nhơn
chi sơ tính bổn thiện”.
Thời
điểm tốt nhất để giáo dục con người là lúc tuổi nhỏ. Cộng với một nội dung giáo
dục đúng đắn mang tính khoa học toàn diện từ vật chất đến tinh thần, thì kết quả
thu hoạch “sản phẩm con người” chắc chắn thành công như 1+1 = 2.
Trong
môi trừơng văn minh xã hội, mọi người được giải đáp chính thức về mọi vấn đề cuộc
sống mình quan tâm. Người có tâm tích cực, có lối sống vì lẽ phải, sẽ có cơ hội
phát triển thuận lợi. Trong khi những người có tâm tiêu cực sẽ khó tìm thấy đầu
ra, nên buộc cũng phải chuyển hướng tích cực theo trào lưu chung.
Lúc
bấy giờ xã hội có thể phát triển nhiều hội đoàn thể đa dạng, do mọi người tự do
thành lập. Nó nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt phong phú của con người, đồng thời
đây cũng là một hình thức của VMDĐ, nơi mọi người có thể bổ sung cho nhau kỹ
năng sống hoàn thiện.
Trong
khi chờ đợi xã hội phát triển thành nền VMGD đồng bộ, thì mỗi cá nhân có thể tự
ý thức rèn luyện theo khả năng riêng, hoặc rèn luyện theo nhóm. Tất yếu phải gặp
nhiều khó khăn hơn, nhưng … “trời sinh voi sinh cỏ”.
Trong
trường hợp này, cá nhân có ý thức và ý chí mạnh mẽ sẽ vượt qua được tất cả.
Nói
chung dù ở độ tuổi nào, địa vị xã hội ra sao, người xấu hay tốt, đều có nhu cầu
phấn đấu hoàn thiện bản thân hay nhân cách. Nó như một hình thức giải trí bồi bổ
tinh thần, vừa là mở mang trí tuệ, vừa là trang bị kiến thức nhằm truyền đạt
cho các thế hệ tiếp theo, v.v...
Đặc
điểm của phạm trù tinh thần là không giới hạn giá trị hưởng thụ trước mắt và
lâu dài (hạnh phúc tinh thần).
Tuy
nhiên cái dở của hạnh phúc tinh thần là
hiệu quả mang lại chậm, lúc đầu khó nhận thấy, điều kiện để đạt thành công cũng
rất khắc khe, phức tạp. Đòi hỏi phải có tính kiên trì, có tấm lòng thật rộng mở,
khoan dung, trong sáng, v.v…
Nhưng
bù lại khi đã thấy được thành quả cảm nhận từ tâm, thì không giá trị nào có thể
sánh bằng.
Vì
vậy mọi sự đầu tư đúng đắn đều được tận thu tận hưởng đến tận cùng, một cách xứng
đáng.
Trong
khi sự tận hưởng của hạnh phúc vật chất
chỉ có thể trong giới hạn, đồng thời dễ làm hỏng nhân cách, mất tự chủ, ác,
v.v… nếu thiếu kết hợp rèn luyện ý thức đạo đức.
Nhưng
bù lại nó có lợi thế là mang lại giá trị kích thích trực tiếp ban đầu rất mạnh,
rất cụ thể, rất lôi cuống, rất hấp dẫn, rất dễ thụ hưởng, và rất hiệu quả tức
thời.
Kết
hợp thành công hai hạnh phúc trên lại trong một đời người, là cứu cánh của
VMGD.
V.
NHẬN THỨC CHO TÂM
Nguyên
tắc của tâm là đầu vào tốt, thì đầu ra sẽ tốt.
Đầu
vào tốt khi các nhận thức cho tâm mang ‘ý
nghĩa tích cực’
(phù hợp A1).
Nhận
thức cho tâm là bao gồm các ‘tư duy nhận
thức đến hành động’.
Tất
cả được được hệ thống hóa lại, nhằm theo dõi sự phát triển về nhận thức và nhân
cách, trong quá trình hoàn thiện hoá đời sống tinh thần.
Mục
đích lớn nhất của hệ thống tư duy là
tiến đến “hạnh phúc đời người”.
(chú
thích: ‘hạnh phúc đời người’ theo nghĩa, “hạnh phúc cá nhân hòa trong hạnh phúc
mọi người”.)
Bản
chất sự sống là đa dạng phong phú, nên nhận thức về sự sống cũng rất đa dạng và
phong phú.
Bản
chất của tâm A1 là điều tiết sự sống theo quĩ đạo nó qui định,
trong khi con người xã hội có thói quen sống phát triển tự phát tự do sai qui định.
Suy ra đầu vào của tâm mang giá trị tiêu cực, kết quả đầu ra cũng sẽ tiêu cực.
Đấy
là lý do con người phải rèn tâm trong quá trình sinh tồn, để không phải chịu
nhiều thiệt hại mất mát đau khổ mâu thuẩn đối kháng khi ý thức sai ý nghĩa và mục đích sự sống.
Sự
sống cá nhân hay xã hội là một chuỗi các
vận động liên hoàn có hệ thống và toàn diện. Vì vậy một hiện tượng xảy ra,
không đơn giản là do tự phát ngẫu nhiên, mà nó phải có nguyên nhân trước đó.
Nhìn
một hiện tượng xảy ra đơn lẽ, có khi không thấy lý do cụ thể. Nhưng nếu chúng
ta cộng chung nhiều hiện tượng đơn lẽ lại sẽ thấy nguyên nhân tất yếu của nó.
Do
vậy để hiểu rõ sự sống, con người cũng cần tập đầu vào của tâm sao cho nó, hướng
tư duy của não thành thói quen vận động có hệ thống phù hợp với thực tế sự sống
đang xảy ra, nhưng theo góc đọ A1 .
Thế
nào là hệ thống hoá đầu vào cho tâm.
Sự
sống bắt đầu từ tuổi nhỏ, đến khi khốn lớn biết tự nhận thức, là cá nhân đã
tích luỹ một kinh nghiệm sống nhất định. Tương ứng với nó là sản phẩm “nhân
cách”, hay “cách sống” của cá nhân chủ thể.
Và
sản phẩm “nhân cách” ấy có thể xấu hay tốt ...
Bài
toán đặt ra là cá nhân phải lùi về quá khứ để truy nguyên lý do, vì đâu mà cá
nhân có thành quả “nhân cách” như đang có. Nhằm, vừa là mục đích, rèn luyện kỹ năng hệ thống hoá tư duy một cách logic,
vừa là để phát huy và khắc phục các ưu khuyết, vừa là để khám phá về bản thân.
Theo
nguyên tắc, mỗi cá nhân sẽ tìm thấy một khuyết điểm cơ bản nỗi bật, bên cạnh một
ưu điểm cơ bẩn nỗi bật. Và trong mỗi cá nhân, bao giờ cũng chọn một trong hai ưu khuyết này làm điểm nhấn mạnh nhất trong phát triển
nhân cách.
Cái
được chọn làm trung tâm phát triển nhân cách, nó phải có thân rễ chính trong
quá khứ, làm nguyên nhân nuôi nó có thành quả như ngày nay. Và ta gọi than rễ
này là “CÒI” rễ.
Nếu
‘còi’ mang nghĩa tích cực, thì vấn đề quá đơn giản cá nhân chỉ việc phát huy tiếp
tục những gì đang thành đạt trong cuộc sống.
Vấn
đề chính ở đây là đi tìm ‘còi’ tiêu cực, vì nó đang cản trở nặng nề cuộc sống
hiện tại. Một là phải tìm ra ‘còi’ tiêu cực chính là gì, kế là khắc phục nó cho
đến khi thành công. – Nên khái niệm ‘còi’ được dùng chủ yếu để chỉ nguyên nhân
tiêu cực.
Cách
khắc phục là dùng nhận thức ‘hợp lý’ khắc phục nguyên nhân nhận thức ‘bất hợp
lý’, v.v... (xem “Cách Sống Mới”)
Bên
cạnh thân rễ chính có các nhánh rễ phụ, hay bên cạnh ‘còi’ là các nguyên nhân của
các khuyết điểm nhỏ, gọi là “CỎ DẠI”. Cũng như trên, cá nhân nên nhổ ‘cỏ dại’
cho sạch.
Nếu
kết quả nhỗ ‘cỏ dại’ và triệt phá ‘còi’ thành công, thì kỹ năng tư duy não sẽ đạt
hiệu suất cao, đồng nghĩa nó phù hợp với quĩ đạo A1 .
Lúc
bấy giờ ‘tư duy ý chí’ của cá nhân, sẽ cảm thấy thuận lợi trong chọn lọc các
‘nhận thức tích cực‘ cho đầu vào của tâm.
Khi
các nguyên nhân quá khứ được khắc phục thành công, cá nhân mới dựa trên kinh
nghiệm thói quen tư duy phân tích nhân quả hợp lý trong quá trình xử lý (và đồng
thời rèn luyện) ấy, để đúc kết thành ‘công
thức tư duy kiến thức sống’ (kết hợp giữa ‘tư duy ý thức’ và thành quả chuyển
biến của ‘tâm’) mang đặc trưng của nhân cách cá nhân đó.
Hay đây cũng là ‘trình độ sống’ mà
cá nhân đã đạt được.
Kế đến cá nhân vận dụng phát huy công thức
trên để áp dụng cho chặng đường sống tiếp theo (tương lai). Bằng cách chọn lọc
sao cho những nhận thức và hành đông luôn đúng …, tức là đừng trái với A1
mà thời kỳ quá khứ đã vấp phải (do không biết).
Giai
đoạn phấn đấu này tương đối dễ dàng hơn so với truy nguyên hoàn thiện lại nhân
cách từ gốc, của giai đoạn trước.
Thế
nhưng, trong giai đoạn kiến thiết tương lai này tuy có cái dễ hơn, bù lại gặp
khó trong vấn đề khác.
Vì
lúc này cá nhân phải đối diện và lý giải trước một rừng các vấn đề quan hệ phức
tạp do đời sống xã hội đặt ra, và đòi hỏi cá nhân phải đưa ra lời giải đúng tất
cả, để thoả điều kiện của A1.
Thông
thường theo HTNT, cá nhân muốn hoàn thành yêu cầu trên, cần phải có sự trợ giúp
từ phía xã hội (NCD). Nếu không e rằng đơn thân cá nhân khó có thể hoàn thành,
hoặc nhiều lắm chỉ thành công trong phạm vi giới hạn cục bộ, còn ngoài ra … phải
có một sự may mắn …
Và
… sự may mắn ấy đến thật, thì quá trình diễn biến rèn luyện tiếp theo sẽ đạt thành
quả như ý. Tức là đầu vào cho tâm được đảm bảo an toàn cơ bản, tính từ tuổi thiếu
thời cho đến thời điểm … tương lai tương đối dài … để đủ đúc kết thành công thức
chung (nguyên lý) về sự sống … - HTNT đã được hình thành theo cách này.
Một
người làm được thì nhiều người cũng có thể thành công tương tự.
-
Một
là, bằng phương thức tương tự như cá nhân trên, cộng với NCD, - (tập trung thay
đổi trực tiếp tại ‘tâm’).
-
Hai
là, bằng phương thức “Truy Ngược” tức là học sống theo thành quả quan điểm từ
thành tích trên, để cuối cùng tạo sự chuyển biến tích cực ngược vào tâm, - (tập
trung thay đổi trực tiếp từ hành động đến nhận thức, khi số lượng tăng chất lượng
‘tâm’ thay đổi.)
Phương
thức hai dễ áp dụng hơn phương thực một. Phương thức một có thể chỉ dùng cho những
ai có năng khiếu …
Theo
HTNT, sự sống chỉ có một nguyên lý vận động và tồn tại dành cho loài người. Như
đã biết, nó chỉ có thể là con đường của
tâm A1.
Nếu
kết luận trên là không sai, suy ra kết quả trên có thể áp dụng cho mọi người,
trên con đường chinh phục sự sống, ‘chân
lý’ ‘lẽ phải’ cũng như ‘hạnh phúc’ cho thế giới loài người.
HTNT
cũng là cơ sở để ngành “KHOA HỌC TINH THẦN” (KHTT) được đề xuất hình thành.
KHTT là một ngành khoa học
nghiên cứu về tinh thần, về quan hệ, về sự sống tổng hợp nói chung.
KHTT có khả năng chứng minh
vì sao có ‘cái ác’ vì sao có ‘cái thiện’, và bằng cách nào khắc phục nó thành
công. Để xây dựng một môi trường sống mới tích cực, hợp lý, phân minh, v.v…
Đây
cũng là ngành khoa học chịu trách nhiệm chính nghiên cứu và kết luận về “Hạnh Phúc Đời Người”.
KHTT tương tự như một tôn giáo. Nó
cũng đòi hỏi người theo học phải có niềm tin. Tuy nhiên niềm tin ở đây thuộc về
kỹ năng nhận thức của bản thân, dựa trên các chứng minh về qui luật tự nhiên
(QLTN) được áp dụng diễn giải trên toàn tất cả các mặt của sự sống – ngoại trừ
một số hiện tượng cá lẽ đặc biệt không gây ảnh hưởng đến qui luật sống.
Nếu
các tôn giáo có khuynh hướng tách cá nhân ra khỏi đời sống xã hội, nếu muốn đạt
đến kết quả tuyệt đối. Ngược lại, KHTT giúp con người hoàn thành tốt chức năng
sống, ngay tại môi trường xã hội mình đang sống. Bằng cách chứng minh thành
công mọi vấn đề đặt ra của cuộc sống, từ phạm vi hẹp đến rộng nhất có thể, chỉ
với một tiêu chí duy nhất gọi là ‘CHÂN LÝ’.
“Đắc
đạo” trong KHTT, đồng nghĩa với cá nhân đạt thành công về ‘Hạnh Phúc Vật Chất’
và ‘Hạnh Phúc Tinh Thần’” trong đời người.
Sự
đắc đạo ấy tất yếu xảy ra trong cuộc sống hiện tại, và làm sao để tất cả mọi
người cùng đạt như thế.
Trong
KHTT, nhận thức đi đôi với hành.
Niềm
tin người học sẽ được củng cố dựa trên kết quả thực hành về kiến thức vật chất
và tinh thần. Theo nguyên tắc nhận thức đúng thì kết quả phải đúng, sự sống phải
vui sương và hạnh phúc.
Theo
QLTN,
sự sống là một chuỗi dài lý lẽ liên kết rất hợp lý và logic. Mọi con người khi
được thông lý kịp thời và đầy đủ, đều có thể tìm ra những kết luận giống nhau về
các hiện tượng sự sống.
Bản
chất sự sống là một khối tồn tại thống nhất, dựa trên một nguyên lý vận hành thống
nhất. Nên mọi cá nhân dù bắt đầu từ đầu mối nhận thức nào, cũng đều có thể lần
theo mối dây nhận thức (và hành động) để truy ra điểm cuối gắn vào QLTN (nguyên lý sống).
Tất
cả theo nguyên tắc, mọi vận động của con người đều liên quan mắc xích chặt chẽ
với nhau như hình với bóng. Chỉ có khác là nó đi đường vòng xa, hay trực tiếp gần.
Trường hợp “đường xa”, thành khó hiểu nên sinh mâu thuẩn (hiểu lầm), trường hợp
“đường gần” ai cũng hiểu nên dễ đoàn kết.
Và
thế giới sự sống hiện nay trở nên phức tạp, là do còn dùng nhận thức … theo kiểu
“đường xa”, mà thiếu những người biết chứng minh nó cũng là “đường gần”.
“Đường
xa” lâu ngày nhân cách biến dạng … ác dần.
“Đường
gần” lâu ngày nhân cách ổn định tự chủ … đắc đạo.
Sự
sống là một khối thống nhất. Xã hội là một khối thống nhất. Cá nhân là một khối
thống nhất. Cộng cả ba lại thành một khối thống nhất về sự sống.
Dù
đứng ở góc độ nào, cũng có dùng phân tích lý luận lần mò ra đầu mối của hiện tượng
tồn tại ở các vị trí còn lại. Đây là cách giúp con người có thể tìm ra đáp án
lý giải mọi hiện tượng, và phương án khắc phục cho nó.
Như
thế, mỗi đời ngươi là một chuỗi nhận thức, nếu biết cách mở và lần theo có thể
hình về khả năng và tương lai ... Nhưng
hiệu quả nhât là trong môi trường VMXH, nơi đó tất cả mọi hiện tượng gần như đã
hoàn thành tiêu chuẩn hoá.
Con
người ngày nay phần nhiều quen sống thiếu trật tự trong tư duy và hành động,
nên việc xét đoán trở nên phức tạp. Thành quả sống cũng phức tạp.
Để
sự sống được bình yên và hiệu quả, tốt nhất là con người nên chỉnh sửa nó, bằng
cách … “khai tâm”. Tức là cá
nhân tìm xem ‘tâm A1 ‘ đang ở đâu, và tạo điều kiện
phát huy nó lên.
(Lưu
ý: trong ‘tâm A’ có tâm tiêu
cực A2 và tâm tích cực A1.
Chữ ‘tâm’ trong đời thường,
được dùng theo nghĩa của ‘tâm A1’,
nhưng nghĩa của ‘tâm A1’
rộng hơn ‘tâm – dân gian’ - (xem “Cách Sống Mới”). Như thế “khai tâm” cũng có
nghĩa “khai tâm A1”.)
Một
số gợi ý về ‘khai tâm’ (phát huy cái chân thiện, cái tốt bên trong):
1.
Hướng sự chú ý vào nội tâm, để hình thành thói quen tư duy liên thông giữa ý và
tâm. - Điều kiện để sau này dùng ý chủ động làm chuyển tâm.
Ví dụ: nhìn vào tâm trạng vui, buồn, lo lắng
v.v… mỗi khi ta làm việc ‘đúng’ hay ‘sai’, và mong muốn chỉnh sửa lại nó theo
hướng tích cực. Như thế là bước đầu của khai tâm.
2.
Trong mỗi hành động ta gắn cho nó một ý nghĩa tích cực (mục đích tích cực),
như thế là củng cố sự bền vững cho thành quả khai tâm.
Mỗi
ý nghĩa tích cực của hành động, là mỗi lần cá nhân đã thông lý.
Trong
sự sống, con người cần nhiều thông lý như cây cần có nhiều nước.
Xã
hội càng phát triển thì sự thông lý trở thành điều kiện sống còn của phát triển.
Sự thông lý toàn diện, đồng nghĩa kết quả ‘khai
tâm’ đã đi đến “đặc đạo” hay “chánh quả” hay “hạnh phúc trọn vẹn”.
Ví
dụ:
-
Làm việc gì cũng tính lợi cho bản thân và cho mọi người (khai tâm).
-
Làm việc gì cũng gian dối, lừa gạt, v.v … hại người lợi mình (bế tâm).
-
Mọi người góp tiền cứu trợ vì việc chung (khai tâm), nhưng cá nhân chiếm lấy hết
(bế tâm).
3.
Khai tâm là tốt nhưng cần hệ thống hoá tất cả các nhận thức và
hành động lại, nếu không nó sinh mâu thuẩn. Cuối cùng kết quả thành bế tâm.
‘Bế tâm’ sẽ làm kỹ năng trí tuệ kém phát triển,
chất lượng sống giảm, nhân cách có nguy cơ biến dạng từ ‘thiện’ thành ‘ác’,
v.v…
Môi trường sống ngày nay rất đa dạng và phức tạp,
nếu cá nhân không hệ thống hóa các hành động (suy nghĩ) theo một tiêu chí nhất
quán chặt chẽ, thì nhất định sẽ bị lạc
đường đến tâm.
Đây
là hiện tượng đang phổ biến trong xã hội hiện đại.
Ví
dụ:
-
Hôm
nay cá nhân làm việc thiện (tích cực), nhưng hôm sau buôn bán gian lận (tiêu cực).
– Kết quả khai tâm bằng không.
-
HTML
đề ra mục đích “tất cả vì nhân dân” (tích cực), nhưng trong thực tiễn cá nhân
không được làm chủ trên mãnh đất của mình. Hậu quả “người cày không có ruộng”.
(tiêu cực). – Kết quả khai tâm bằng không cho những ai thi hành đường lối này.
-
Trong
ba nội dung trên, hai gợi ý đầu dễ thực hiện. Riêng gợi ý thứ ba không dễ làm,
vì nó liên quan đến cơ chế xã hội.
Khi
cơ chế xã hội không vận hành song song với tâm A1, vô tình nó
buộc con người phải sống và hành động trái với lương tâm. Trong khi từng cá
nhân đều có nguyện vọng sống theo lương tâm, để được khai tâm.
Hậu
quả là những việc nhỏ dễ thì làm đúng với lương tâm, nhưng khi mở rộng ý nghĩa
lên phạm vi xã hội, thì thành sai. Hệ thống tư duy lý giải của cá nhân bị bế tắc.
Cuối cùng phải nhắm mắt làm theo mệnh lệnh v.v…, trí tuệ, nhân cách, xã hội … bị
thoái hoá dần.
Vì
lý do trên HTNT được giới thiệu như một đáp án tối ưu cho mục đích hệ thống
hoá, từ lý luận đến thực tiễn, cho đối tượng nhận thức cá nhân đến xã hội và
trên thế giới.
Nó
không khó để tìm ra lời giải, nhưng khó ở thói quen cũ đang bám ở tâm A2 nó tích cực cản trở nhận thức của con người,
kế đến là hệ thống cơ chế xã hội cho phép ưu thế thuộc về tâm A2.
Tức
là mục đích của khai tâm, là dùng ‘LÝ LẼ’ làm quyền lực chính cho sự sống. Trong khi xã hội văn minh đang loay
hoay dùng ‘VŨ KHÍ’ làm quyền lực chính,
mỗi khi lý lẽ bế tắc.
Cuối
cùng phải nhờ đến QLTN, là quyền lực cuối cùng trong xử lý. Thời gian và bản chất
sinh tồn là hai yếu tố cơ bản của đáp án.
VI.
MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN
1
°
Vấn
đề.
Ta
xét một hành động:
-
có
mục đích sống thứ nhất là B, “cảm xúc
B” xuất hiện. - (gọi B là đối tượng vật chất (+ cá nhân chủ thể hưởng thụ vật chất). )
-
và
mục đích sống thứ hai là A, “cảm xúc
A” xuất hiện. - (gọi A là đối tượng người (+ cá nhân chủ thể hưởng thụ tinh thần). )
Thông
thường trong cuộc sống, con người có hai nhóm mục đích sống song hành với nhau
trong mỗi hành động. Một nhóm mang tính quan hệ vật chất, một nhóm mang
tính quan hệ con người.
Ví
dụ : - tôi kiếm tiền (“tiền” là mục đích B)
- nhờ bán rau (“rau” là mục
đích B)
- tiền đó dùng cho tôi (“tôi” là
mục đích A).
- và cho cha mẹ tôi (“cha mẹ” là
mục đích A).
Nhóm
mục đích B gợi về ý nghĩa “số lượng”
(hưởng thụ vật chất).
Nhóm
mục đích A gợi về ý nghĩa “chất lượng”
(hưởng thụ tình người).
Hay là:
-
nhóm mục đích B mang tính ‘vật
chất’
-
nhóm mục đích A mang tính ‘tinh
thần’.
Trong
cuộc sống để có hạnh phúc, theo nguyên lý tự nhiên, con người muốn được thỏa (vui) mọi mục đích sống. Tức là muốn được thành công trên cả hai nhóm mục đích A và B.
Ta
đặt :
Cảm xúc
C = hạnh phúc toàn diện
ta
có công thức :
Cảm
xúc C =
cảm xúc A (vui) + cảm xúc B (vui) (1)
Tuy
nhiên trong cuộc sống, do tự nhiên, con người THÍCH ‘cảm xúc B’ nhiều nhất
(vui) – vì nó dễ hiểu dễ hưởng thụ, v.v…. , ngược lại ÍT THÍCH ‘cảm
xúc A’ (buồn) - vì nó khó hiểu khó thực hiện, không dễ hưỡng thụ
v.v…
Suy
ra, phương trình (1) trở thành :
Cảm xúc C = cảm
xúc A (buồn) + cảm xúc B (vui) (2)
Có
nghĩa là lâu ngày cá nhân quên luôn mục đích ‘cảm xúc A’ trong hành động.
Phương
trình (2) thành :
Cảm xúc C = cảm xúc B (vui)
(3)
và
con người ngộ nhận:
“Hạnh phúc toàn diện là do
cảm
xúc B quyết định“
Nhưng
thực tế cuộc sống chứng minh ngược lại. Sau khi đã có ‘cảm xúc B’, con người
không tìm thấy ‘hạnh phúc toàn diện’, mà có khuynh hướng chuyển thành đau khổ
(buồn).
Kết
luận cho thấy con người đã mắc sai lầm khi bỏ ‘cảm xúc A’ chỉ chọn ‘cảm xúc B’ đơn thuần.
Suy
ra sự sống con người và xã hội bị trả giá.
Do
tình người bị mất dần, tội ác gia tăng, xã hội chia rẻ, phát triển bị khủng hoảng
theo chu kỳ, v.v…
Đó
là hiện tượng máy chạy bị nóng, hư,
nổ, vì thiếu dầu.
Cuối
cùng máy bị nổ thành … nổi loạn, nổ ra cách mạng ...
2
°
Diễn
giải.
Dầu
nhớt có nhiệm vụ CÁCH LY vật chất không tạo ra ma sát, và CHIA LỰC đều ra mọi
nơi để tạo thành TỔNG LỰC hợp lý,
‘Tình
người’ (tinh thần) là loại dầu nhớt cần cho bộ máy xã hội, cho quan hệ con người.
Có
‘tình người’ (tinh thần), sự cạnh tranh quyền
lợi vật chất trở nên nhẹ nhàng (thi đua), không còn bị ‘QUÁ NÓNG’ như hiện
nay. ‘QUYỀN LỰC XÃ HỘI’ sẽ được CHIA đều ra cho nhân dân, không còn TẬP TRUNG
vào một nhóm thiểu số độc quyền, gây mâu thuẩn xã hội (nóng máy do bị cọ sát
quá lớn tại một vị trí) thành hư và bế tắc … cuối cùng sẽ ‘nổ đấu tranh’.
Xã
hội TB tuy có nhẹ hơn (tam quyền phân lập) nhưng vẫn không an toàn. Xã hội CS
là một kiểu mẫu về hiện tượng tập trung
quyền lực quá lớn vào một chỗ (dễ tạo cho con người có lòng tham vô đáy).
Con
người sống và phát triển đến ngày nay là một phần nhờ có ‘tình người’, đã bôi
trơn các quan hệ. Tuy nhiên nó đã phải thường xuyên bị tắc, do nhận thức con
người và xã hội chưa thông.
Ví
dụ:
+
nhờ có tình người (tinh thần) mà cha mẹ và xã hội nuôi (vật chất) con cái khôn
lớn. (cảm xúc A + cảm xúc B)
-
Nhưng con cái lớn khôn thường chỉ chú ý đến ‘cơm áo gạo tiền’ (cảm xúc
B), mà quên công ớn (cảm xúc A) của cha mẹ, của xã hội.
+ Từ sự yêu mến (tinh thần) nhân dân góp công sức
(vật chất) xây dựng nên chính quyền. (cảm
xúc A + cảm xúc B)
-
Nhưng khi lên nắm chính quyền, con người chỉ nhớ quyền lực và quyền lợi (cảm xúc B), mà quên trả ơn (cảm xúc A) xã hội.
– bằng cách hỏi mọi người (toàn dân,
chứ không phải chỉ hỏi một thiểu số người chọn lọc) muốn gì và đáp ứng theo nguyện
vọng của họ.
Sự
sống thành công là nhờ ‘cảm xúc A + cảm xúc B’ kết hợp lại, thiếu một trong hai
đều là thật bại, là TRÁI TỰ NHIÊN.
Nếu
trái tự nhiên, ‘cảm xúc B’ sẽ luôn bị ‘cảm xúc A’ trừng phạt (lương tâm và tâm
hồn mãi mãi không bình yên, xã hội bế tắc, …).
Ưu
tiên ‘cảm xúc B’ lâu ngày thành quen, thành nghĩ rằng thế gian này chỉ có nó là
chân lý sống.
Trong
khi theo QLTN, ‘cảm xúc A’ LUÔN PHẤN ĐẤU hóan đổi vĩnh viễn
ngôi vị hiện tại của ‘cảm xúc B’ xuống để thế chỗ.
Cho
dù thực tế rất khó, vì nó đã tạo thành bản chất thứ hai sau bản chất thiện
thuộc bản năng gốc của con người.
Nếu
chỉ sửa chữa điều chỉnh một vài hành động đơn lẽ, hay đối với một số người, thì
không khó. Nhưng hoán vị cả một nhân cách, hay cả một xã hội, thì rất khó.
Tất
cả là do tuổi nhỏ đã thần tượng hóa vật chất. (cảm xúc
B)
Nên
đầu ra khi lớn lên MẤT KHẢ NĂNG (hoặc kém) về ‘cảm xúc A’, là hiển nhiên.
Từ
mất khả năng trên, con người càng lao vào mục đích “kiếm tiền” (vật chất) để bù
đắp khoảng trống, do bị thiếu hụt vô hình trong cảm xúc. Nhưng chỉ làm hậu quả
càng trầm trọng hơn.
3
°
Đáp
án.
A) -
Để khắc phục sự khiếm khuyết trên:
Bước
1: tìm hiểu cơ chế tâm, xác định bản chất sự sống thuộc về A1,
với ‘cảm xúc A và B’ phát triển hợp lý.
Bước
2: do A1 là biểu tượng của QLTN đối với sự sống con người,
nên việc tiếp theo là so sánh lý giải sự khác giữa thực tế sự sống tồn tại với
những qui định tại A1, để hiểu ra điều gì cần chỉnh sửa lại cho đúng.
Bước
3: để tạo điều kiện việc chỉnh sửa thành công, xã hội cần xây dựng hệ thống
DĐND rộng khắp, để mọi người thuận lợi trong phát huy thế mạnh tổng hợp nhằm
đáp ứng hiệu quả những vấn đề đặt ra từ sự sống.
Làm
người ai cũng có ưu khuyết khác nhau, nhưng khi cộng chung lại tất cả sẽ bù đắp
cho nhau chỗ khuyết, để cuối cùng tìm ra giá trị hoàn thiện của chân lý sống.
Từ
đây mỗi con người sẽ soi rọi lại mình, phát hiện ra điểm khuyết nào cần cải thiện
để nâng cao trình độ và chất lượng sống, cho bản thân và cho xã hội.
Để
thực hiện 3 bước trên, HTNT đã hoàn thành phần đề xuất lời giải cho bước một và
hai, vấn đề còn lại chỉ là xây dựng hệ thống DĐND. Để mọi người có nơi tự do
tranh luận, tìm và định ra con đường phát triển chung của xã hội
Vì chỉ có tranh luận công khai tự do của số
đông toàn xã hội, thì hiện tượng ‘bị áp đặt chủ quan quyền lực’ mới không còn,
điều kiện tối quan trọng để “tiếng nói của lương tâm” biến thành quyền lực trung tâm của sự sống (thay
thế quyền lực chủ quan của các “kẻ mạnh” đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử).
Đây
là điều kiện thuận lợi duy nhất để con người được sống trong sự công bằng hạnh
phúc, như đã hằng mong ước.
Theo
chứng minh, HTNT là tiền đề cần thiết để DĐND phát huy hiệu quả. NCD là những
nhân tố tuy không mang tính quyết định
cho sự thành công, nhưng sẽ góp phần mang lại hiệu suất cao cho diễn đàn, hạn
chế bớt sai lầm và thời gian hao phí.
B)
- Một số lý giải thực tế.
Một
lời nói ra hiếm ai nhận mình là chủ quan sai lầm.
Vì
thế để xác minh một lý lẽ là khách quan đúng đắn, không phải là việc dễ.
Nhất l trong thời đại ngày nay khi vốn kiến thức
sống của con người rất phong phú, quan điểm sống đa dạng. Đồng thời ngoài xã hội
đang còn tồn đọng nhiều vấn đề lớn nhỏ phức tạp chưa có lời giải rõ ràng, v.v…
Nên
để phân tích chứng minh một hiện tượng, một quan điểm, một nhân cách, v.v… là
đúng hay sai, là rất khó trong nhiều trường hợp. Phải tốn nhiều chữ nghĩa tranh
luận kể cả hành động, mà kết quả đạt cũng không bao nhiêu.
Trừ
một số trường hợp, hậu quả đã xảy ra công khai rõ ràng, thì “trắng đen” có thể
thống nhất rõ ràng bởi còn thiếu … chính
quyền (?).
Song
theo HTNT thiên nhiên tạo ra loài người để
sống sung sướng và hạnh phúc, chứ không phải để đau khổ.
Vì
thế dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, con người rồi sẽ vượt qua tìm đến đích đã định
bởi … số trời.
Trong
điều kiện môi trường xã hội phức tạp như ngày nay, nếu muốn tìm lý lẽ khách
quan (lương tâm) không thiếu. Chúng ta hãy đến những nông dân ruộng đồng, những
công nhân làm việc chăm chỉ hiệu quả, những nhà khoa học giỏi chuyên môn, có ý
thức phụng sự xã hội, v.v…
Hoặc những người lao động khiêm tốn cần cù, chấp
nhận vui sống vời hoàn cảnh khó khăn, v.v…
Tất
cả họ là những tấm gương về lương tâm (người tốt), về những lý lẽ khách quan,
mà xã hội có thể tham khảo đối chiếu với những lý lẽ của các nhân cách chủ
quan, mà về vật chất quyền thế không thiếu ...
(Chú
thích:
-
Con
người trong bộ máy chính quyền (M-L) là dễ bị biến chất nhanh nhất (mất lương
tâm), đặc biệt các vị trí liên quan sâu đến ‘quyền lợi’ và ‘quyền lực’.
-
Vì
trong học thuyết M-L không có khái niệm lương tâm (tinh thần). Nó chỉ chú trọng
đến thành tích kết quả. Hay nó chỉ chú trọng đến nguyên nhân và thành quả hình thức (số lượng). Nên nó cần lớn nhất
là ‘CHÍNH QUYỀN’ để có ‘QUYỀN LỰC’ (chủ quan), và từ quyền lực HTML đi tìm
tương lai (bất kể khái niệm lương tâm) – vì vậy HTML chưa bao giờ tự cho mình
đã hoàn thiện, hay đúng tuyệt đối, nhưng những người vận dụng thì cho nó là như
vậy, áp đặt nó là như vậy ...
-
Suy
ra cái ác trong xã hội M-L đã được hợp pháp hoá, khi người ta vận dụng. Và con
người làm việc trong môi trường ấy rất dễ bị thoái hoá nhân cách đạo đức, vì
không được bồi dưỡng về giá trị của LƯƠNG TÂM.
-
Luật
nhân quả phản ánh rất rõ trong xã hội ML. Cho dù chính quyền rất cố gắng sửa
sai, nhằm củng cố TÍNH CHÍNH DANH. Nhưng khi “nhân” còn thì “quả” sẽ lớn dần.
-
Ngược
lại HTNT chú trọng tìm nguyên nhân và
thành quả nội dung (bản chất). Nên cái cần lớn nhất là ‘CHỈNH SỬA TÂM’ để
có ‘QUYỀN LỰC’ (khách quan) - nơi tình
người và chân lý. Từ đây HTNT đi tìm mô hình sống tương lai.
-
Tương
lai bắt đầu từ, đào tạo ‘nhân cách’ sống có ‘lương tâm’ lên hàng đầu. Chỉ khi ấy
con người mới có đủ kỹ năng và thói quen để NGHE RA LẼ PHẢI và CHÂN LÝ là gì.
Nếu
không như thế, một nhân cách đã hỏng thì khi nghe ‘lẽ phải và chân lý’ sẽ thành
bằng không, mà có khi họ “dũng cảm”
định nghĩa ngược lại “không lương tâm, mới là lẽ phải và chân lý” (!).
-
Sai
một li … đến nhiều li … thành bánh xe lịch sử của Mác … tăng hiệu lực.
)
Thực
tiễn cho thấy, để tâm tích cực (A1) hình thành, con người
cần trãi qua một ngành nghề để sống cụ thể, và đạt kết quả ổn định tích cực
trong một thời gian nhất định. Khi đó tâm
tích cực mới có điều kiện hình thành và phát triển.
Trong
khoa khảo cổ học, các nhà khoa học có thể chứng minh một cổ vật có tuổi thọ bao
lâu.
Cũng
tương tự, “tâm” là kho lưu trữ quá trình sống của một cá nhân, từ khi bắt đầu
cho đến thời điểm hiện tại.
Nhìn
vào tâm, có thể tìm lại quá khứ để hiểu hiện tại.
Trong
quan hệ, con người có thể dùng tâm để cảm nhận tâm của đối tượng.
Ví dụ đối tượng đã khai tâm A1 sâu hay cạn, trình độ
phát triển cao hay thấp, rộng hay hẹp, v.v...
Điều
này chứng tỏ các ‘cảm giác về
lương tâm’ (A1) có độ chênh lệch về đẳng cấp hay trình độ.
Nó
được cảm nhận khi “tâm đối diện
tâm’. Người cùng ngành nghề, cùng một dân tộc, cùng một xã hội, v.v… dễ
đánh giá nhau nhau. Mức thấp nhất … cùng loài người với nhau.
Hiển
nhiên tâm nào có trình độ cao hơn, nhận thức tích cực nhiều hơn, trong sáng
hơn, sẽ dễ đánh giá tâm kém hơn, vì trình độ nhân cách không bằng.
Biết
rằng tâm là một tập hợp các cảm xúc.
Để
nhận xét về tâm, người nhận xét chỉ chú ý nhận xét khía cạnh cảm xúc ’quan hệ’.
Từ đây theo kinh nghiệm có thể phân biệt được người tốt kẻ xấu, tích cực hay
tiêu cực, lương tâm hay không lương tâm, v.v…. Đôi khi cũng mắc sai lầm thất bại
(không lớn), nhưng cần thiết để kết luận về một nhân cách có độ phức tạp cao
(nhiều mưu tính tiêu cực sâu nhiều cấp).
Tóm
lại, sự sống do tự nhiên mà có.
Sự
sống con người có bản chất tại tâm A1 làm chủ đạo.
Muốn
mở được cánh cửa tự nhiên, xã hội cần có nhiều diễn đàn tranh luận tự do không
áp đặt, ngoại trừ … ‘lương tâm’ được toàn quyền tung hoành, bằng các lý lẽ phải
trái khách quan, chân lý, khoa học, công khai, và tình người …
Để
cái đúng trở thành nhịp cầu tất yếu, giúp sự sống hoà nhập vào QLTN một cách dễ
dàng thuận lợi … như mặt trời phải mọc ở hướng đông vậy.
VII.
Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ ỨNG DỤNG
°
Tâm
A1 là một tập hợp các cảm xúc thuộc tinh hoa trí
tuệ.
Tinh
hoa trí tuệ phong phú, con người lung linh sức sống.
Trí
tuệ thông suốt, nhất quán, đúng sai công khai minh bạch, nhận thức lý luận
không mâu thuẩn, lý thuyết thực hành hiệu quả, v.v… thì cảm xúc tinh hoa sẽ
phong phú, trí tuệ phát triển tích cực, tâm A1 càng nhiều
cơ hội phát triển thuận lợi.
“Lý
(ý thức) có thông, tình (tâm) mới phát”, “tình phát, lý thăng hoa”, “lý thăng
hoa, tình rộng mở”, v.v...
Khi
lý và tình khớp nhịp nhau, cả hai sẽ lồng vào nhau cùng hợp lực phát triển. Sự
sống như thế là đạt đích hạnh phúc. – Ta gọi là VUI.
“Lý”
(động) nên bản chất nó là đi tìm
“tình”.
Ngược
lại, “tình” (tỉnh) nên bản chất nó là
đứng một chỗ chờ “lý” đến.
Nếu
may mắn cả hai tìm thấy nhau, hợp nhau, sự sống phát triển tốt đẹp.
Nhưng
ngược lại, nếu cả hai không gặp hoặc không hợp nhau, thì sự sống còn gian nan.
Tình và lý là hai mặt của cuộc sống.
Trong
tâm, nó là “cảm” và “ý”.
Lúc
này vấn đề quay ngược lại.
Cảm có tính “động”, nó không ngừng giãn nở, tiêu cực hay tích cực.
‘Ý’ có tính “tỉnh”, nó được sinh ra từ ‘cảm’ – [về cao độ đẳng cấp (tính lượng)
và về giá trị tốt hay xấu (tính chất)].
‘Cảm’ phát triển tích cực, sẽ giúp ‘ý’ nghĩ ra được nhiều điều hay lẽ phải.
Tiếp
theo ‘ý’ tác động ngược lại ‘cảm’, nâng nó lên tầm cao cảm
giác mới. Cứ thế cả hai cộng hưởng và biện chứng cho nhau phát triển.
Do
‘cảm’có thể phát triển theo hướng
tiêu cực hay tích cực, nên con người cần ý thức trách nhiệm lôi kéo nó định hướng
phát triển về mục đích tích cực.
Vì
cặp phạm trù ‘cảm’ và ‘ý’ là nằm trong tâm, cái gốc của nhân
cách, nên tầm ảnh hưởng của nó là rất lớn, mang tính quyết định đến toàn bộ giá trị và chất lượng của sự sống.
(Trong
khi xã hội văn minh chỉ ý thức chú trọng phần ‘lý’ (sản phẩm của ‘cảm’ và ‘ý’), tức phần ngọn nên kết quả quản lý sự sống không đạt. Do
không đạt nên trong ‘lý’ bao giờ cũng có ‘bạo lực’ làm phương tiện quyết định.)
‘Ý’
là gốc khởi tạo cho ‘lý’ vận động.
Từ đây tạo ra tư duy ý thức, lý lẽ, các luận điểm nhận thức, v.v…. Từ lý lẽ con người mới dùng trong lý giải
sự sống dẫn đến hành động v.v…
‘Cảm’
là gốc khởi tạo cho ‘tình’ thể
hiện. Từ đây tạo ra tình cảm, yêu ghét, thiện ác, v.v… Từ tình cảm này con người
định giá trị cho mối quan hệ là tiêu cực hay tích cực, đoàn kết hay chia rẻ, v.v…
(Chú thích:
- Thông thường ‘ý’ do tâm A2 chi phối cho kết quả ‘lý’, ‘cảm’ do tâm A1 chi phối cho kết
quả ‘tình’. Suy ra ‘lý – tình’ có khuynh hướng mâu
thuẩn.
- Vì bản chất ‘cảm’ (tích cực -
thương) luôn mang tính ‘thiện’ thuộc A1. Mà con người dù tiêu
cực (ác) ra sao, cũng phải ít nhất một lần ‘thương’ ai đó. Nên ai cũng có mâu
thuẩn nội tâm nhất định, dù là thiện hay ác. Chỉ trừ trường hợp toàn thiện,
‘đắc đạo’.
- ‘Cảm’ và ‘ý’ trong tâm luôn tác
động, nhằm tạo sự thống nhất lẫn nhau. Nhưng do trong tâm có hai nguồn A1 và A2 khác nhau, nên sản
phẩm ‘cảm’ và ‘ý’ luôn bị khác nguồn
(theo một tỉ lệ) nên sự khớp nhau về nội dung chỉ đạt tương đối, hoặc nghịch
nhau.)
Song song đó, ‘tình cảm’ cũng đòi hỏi (do nội tâm,
hay do cảm giác trực tiếp tác động, v.v…) ‘lý lẽ’, phải kết hợp sao cho ‘lý –
tình’ được thông suốt (khớp nhau nội dung).
Hoặc
‘lý lẽ’ yêu cầu ngược lại (do dựa trên tư duy lôgíc, hay do áp lực hoàn cảnh,
v.v…) ‘tình’, phải thay đổi sao cho ‘lý – tình’ phù hợp (khớp nhau nội dung).
Những
yêu cầu trên cuối cùng tác động ngược lại ‘cảm’ và ‘ý’
trong tâm, muốn nó cũng phải thay đổi theo cho phù hợp.
NHƯNG
đòi hỏi này luôn bị thất bại, do tâm còn kết cấu bởi hai nguồn A1
và
A2.
Đòi
hỏi này chỉ thành công, khi kết quả khai tâm đã hoàn thành, tức là ý chí (lý lẽ)
luôn nằm trong quỹ đạo A1 .
Vì
lý do trên, nên nội tâm luôn xảy ra xung đột giữa hai nguồn lực, một là từ ‘ý
chí’ (lý) dội vào, hai là từ ‘tâm’ đẫy ra. Cuối cùng tuỳ vào năng lực sống mỗi
người (giáo dục) mà cho ra kết quả hành động thực tế.
Nếu
các cặp phạm trù “tình - lý” và “cảm - ý” cuối cùng kết hợp khớp với nhau tất cả
thành công, sự sống như thế là rất hạnh phúc. – Ta gọi là RẤT VUI (‘đắc đạo’).
Đây
là “TÀI SẢN TINH THẦN”, mà
không bất kỳ “TÀI SẢN VẬT CHẤT” nào
sánh bằng.
Và
nó có thể truyền từ đời này sang đời khác, nhưng chỉ một phần qua sao chép. Nó
truyền qua cách sống, phong tục tập quán, qua ngôn ngữ ca dao văn chương, qua
phong cách thái độ sống, qua nhân cách ứng xử quan hệ, qua lý lẽ minh chứng,
v.v…
Ví
dụ, người ta hay nói “phước đức
ông bà để lại”.
Có
thể giải thích, ‘phước’ là
“cảm” và ‘đức’ là “ý”. Nhiều
‘phước đức’ có nghĩa là ‘cảm’ trong tâm ‘thiện’, và ‘ý’ trong tâm biết trọng sự
‘công bằng chia sẻ’, cả hai hòa quyện nhau tạo nên một nhân cách tốt đẹp (mà một
đời người không đủ để đạt thành quả như trên).
Nếu
‘cảm’ và ‘ý’ không đúng (ngoài A1), thì giữa chúng không bao giờ tạo nên
sự hòa hợp trọn vẹn thành công. Suy ra thế và lực của THIỆN bao giờ cũng thắng
ÁC, nếu tính theo chiều rộng và độ dài thời gian (vì tâm mang tính thời gian).
Suy
ra loài người không có loại tài sản “PHƯỚC ĐỨC ÁC”, vì nó tồn tại không bền.
Tuy nhiên nó vẫn phổ biến ngoài xã hội, đó là vì xã hội tự sản sinh ra theo
hoàn cảnh, khi lý lẽ sinh tồn chưa thông chân lý sống chưa xác định.
Nhưng
cho dù hoàn cảnh xã hội như thế nào, tài sản ‘phước đức’ của mỗi dân tộc vẫn được
duy trì, phát huy, trường tồn với thời gian.
°°
A
–
* Trong cảm xúc quý nhất là tình người.
‘Tình người’ (tình tinh thần) là sản phẩm cơ bản của
tâm A1, về tinh thần.
‘Tình
vật chất’ là sản phẩm cơ bản của tâm A1, về vật chất.
(Chú
thích:
-
Khi
‘tình vật chất’ được ưu tiên chọn dùng đơn thuần bỏ lại ‘tình người’, thì ‘tình
vật chất’ chuyển sang thành sản phẩm đặc hiệu độc quyền của tâm A2.
-
Đây
là thời kỳ nhân cách bắt đầu bị biến dạng,
chuyển sang ác dần về bản chất, được
che đậy hoặc không được che đậy dưới võ bộc hình thức ‘thiện giả tạo’ bên ngoài – qua lời lẽ, tác phong, các hành động nhất
thời, v.v….)
‘Tình
vật chất’ là tình yêu bảo vệ CƠ THỂ.
‘Tình người’ là tình yêu bảo vệ TRÍ TUỆ (nhân cách,
tâm hồn, tình cảm, v.v…).
Do
‘trí tuệ’ là bản chất tự nhiên của sự sống loài người.
Nên
‘tình vật chất’ là phương tiện phục vụ cho mục đích ‘tình người’ phát triển LÀ
CHÍNH. Và khi ‘tình người’ phát triển sẽ PHỤC VỤ ngược lại cho ‘tình vật chất’
cùng phát triển. Cả hai biện chứng cho nhau cùng phát triển.
Tuy
nhiên tuỳ theo quan điểm, mà con người chọn ‘cơ thể’ là bản chất chủ quan của sự sống loài người.
Nên
lúc này ‘tình người’ là phương tiện phục cho mục đích ‘tình vật chất’ phát triển
LÀ CHÍNH. Nhưng khi ‘tình vật chất’ phát triển sẽ KHÔNG PHỤC VỤ ngược lại cho
‘tình người’ cùng phát triển. Suy ra cả hai không thể biện chứng cho nhau cùng
phát triển, theo qui định tự nhiên.
Lý
do, trong ‘vật chất’ không có khái niệm
‘tình người’.
Trong
khi, trong ‘trí tuệ’ có đủ hai khái niệm ‘tình người’ và ‘tình vật chất’.
Đây
là sự khác biệt cơ bản của quan điểm sống trái tự nhiên, và quan điểm sống theo
tự nhiên.
Quan
điểm sống trái tự nhiên, luôn đem lại sự thất bại trong tiến trình phát triển sự
sống.
‘Tình
người’ đối với loài người, là mục
đích phục vụ lớn nhất. Vì mục đích này, mà con người phải phấn đấu bảo vệ tốt
môi trường sống.
‘Tình
người’ cho lứa đôi là mục đích cơ bản
của tồn tại và phát triển. Đây là mục đích dễ đạt với mọi cá nhân.
Tuy
nhiên trong ‘tình lứa đôi’ cũng chia ra ‘nặng về vật chất’ hay ‘nặng về tình cảm’.
Phiến diện một trong hai đều không bền. Tốt nhất kết hợp cả hai nhân tố ‘vật chất
và tình cảm’, với ‘tình cảm’ là trọng tâm, thì kết quả sẽ lâu bền.
‘Tình
người’ là chất liệu chính tạo nên ‘hạnh phúc tinh thần’.
‘Tình
vật chất’ là chất liệu chính tạo nên ‘hạnh phúc vật chất’.
Trong
dân gian người ta thường nói “có tình phải có lý” hay “có lý phải có tình”.
Vì
‘tình’ không sẽ là mù quáng, ‘lý’ không cũng sinh mù quáng, vì khô khan vô
nghĩa vô vị.
‘Lý’ có thông thì ‘tình’ mới phát, ‘tình’ phát
‘lý’ mới suông.
Khoa
học kỹ thuật dù có tiến rất cao, nhưng ‘tình người’ vẫn là cứu cánh của sự sống,
là đỉnh cao giá trị của nhân cách, là ánh sáng dẫn đường cho trí tuệ.
‘Tình
người’ do bản năng tự nhiên có.
Tuy
nhiên nếu nó không được bồi dưỡng thường xuyên, sẽ thành khô dần và biến dạng.
Vì
‘tình người’ cần được ý thức trau dồi từ nhận thức đến hoàn cảnh, kỹ năng quan
hệ.
Trong
xã hội ngày nay, ‘tình người’ bị xuống cấp vì bị ‘công thức hoá’, và ‘vật chất
hoá’. Nói chung là bị ‘tình vật chất’ lấn chỗ và gây nên nhiều ngộ nhận biến dạng.
Phục
hồi kỹ năng ‘tình người’ chân chính là nhu cầu cấp thiết của thời đại.
‘Tình
người’ thường được hình thành và phát triển tốt thời tuổi trẻ, cộng với hoàn cảnh
giáo dục thuận lợi.
Nhưng
khi cá nhân do kém ý thức, và bị môi trường khuynh hướng vật chất tác động, nên
‘tình người’ dễ bị rơi vào thất bại.
Ngược
lại khi đời sống khó khăn, thất bại, bi quan, bệnh tật, đau khổ, v.v… nếu được
sự giúp đỡ kiệp thời, thì kỹ năng ‘tình người’ có cơ hội hồi sinh nhanh và tốt.
– Do thấy được giá trị lợi ích thiết thực của nó, trong khi bình thường mạnh
khoẻ thành đạt v.v… dễ phát sinh tư tưởng không cần.
Để
giáo dục tình người cho trẻ, trước hết người lớn phải có ‘tình người’ phát triển
tốt. Kế đến qua kỹ năng giao tiếp sẽ giúp trẻ phát triển kỹ năng ‘tình người’.
Tập trẻ có thói quen quan tâm đến mọi người, cha mẹ, anh em, bạn bè … để có ý
thức, kính trọng, tôn trọng, giúp đỡ, chia sẻ các suy nghĩ, các cảm xúc buồn
vui, v.v … .
Nhưng
cách giáo dục tốt nhất là những tấm gương của cha mẹ, thầy cô, chính quyền, xã
hội, v.v… , thì từ trẻ em đến người lớn đều có cơ hội rèn luyện ‘tình người’.
‘Tình
người’ có thể truyền đạt qua nhận thức, qua việc làm, v.v…
‘Tình
người’ là hiện tượng tự nhiên, xuất phát từ bản năng tình cảm, khi gặp môi trường
tác động phù hợp, thì nó phát triển tự nhiên theo thời gian.
Vì
vậy nó không thể tạo ra bằng các biện pháp áp đặt, ra lệnh, gây sợ hãi, v.v…
hay cá nhân muốn là có.
Nó
có thể bắt đầu từ … Một là, nhờ bản năng tình cảm ban đầu nhiều hay ít, hai là
nó có được môi trường nhận thức A1 tác động thuận lợi hay không.
Giáo
dục ‘tinh người’, đòi hỏi người dạy phải có một kỹ năng quan hệ cao cấp, từ
‘tình người’ chân thật phong phú, đến tâm lý giao tiếp khôn khéo, cộng với một
số kiến thức cơ bản khác.
Để
có ‘tình người’ chân thật và phong phú, không phải ai cũng làm được.
Vì
vậy, ‘tình người’ khi nâng lên chuyên nghiệp, thì nó trở thành một loại TÀI
NĂNG của xã hội. Mà chỉ ai có NĂNG KHIẾU bẩm sinh mới có thể đạt đến đẳng cấp
cao, sau một thời gian trau dồi rèn luyện hợp lý.
‘Tình
người’ phong phú, nhưng thiếu một lý thuyết hợp lý tạo điều kiện phát triển,
thì kết quả vận dụng không cao.
Thường
cá nhân có ‘tài năng tình người’ nếu được giáo dục tốt sẽ phát triển được nhiều
tài năng khác. (theo kinh nghiệm thực tế)
HTNT
là một lý thuyết đặt trọng tâm chính về phát triển và phát huy ‘tình người’.
B
–
* Vạn vật tồn tại theo
QLTN. Loài người là một thành viên trong tổng thể vạn vật ấy.
QLTN
có cái dành cho tổng thể, có dành cho cá nhân.
Đối
với cá nhân, thì thường được gọi là “SỐ MẠNG”.
Người
nào có số mạng ấy, không chạy đi đâu được.
Trong
số mạng đã qui định, mỗi cá nhân có thể đạt thành tích cao nhất trong đời là
gì.
Cá
nhân phải cố gắng phấn đấu hết khả năng, cộng với sự trợ giúp có thể được từ mọi
người, sẽ tìm ra đáp án của ‘số mạng’ của mình. - “Tận nhân lực tri thiên mệnh”.
Tuy
nhiên ‘số mạng’ cũng qui định … cá nhân chọn phấn đấu tốt (thay vì lười) sẽ cho
kết quả tốt.
Vậy
‘xấu’ hay ‘tốt’, ‘ác’ hay ‘thiện’ … là do ý chí mỗi người tự quyết, xã hội chịu
phần hỗ trợ.
Trong
KHTT minh chứng rằng, ‘hạnh
phúc’ đời người không phụ thuộc vào TÀI
CAO, mà chỉ cần PHẤN ĐẤU HẾT KHẢ NĂNG
cộng với KẾT QUẢ THỰC TẾ TƯƠNG XỨNG (phòng khi phấn đấu không hợp lý) là đủ.
Mỗi
ngày tự kiểm rút kinh nghiệm, cộng với sự lắng nghe nhận xét góp ý từ mọi người,
thì ai cũng thành công theo khả năng của mình.
Mỗi
ngày một thành công nhỏ, là một hạnh phúc nhỏ. Sau một thời gian, nhiều hạnh phúc nhỏ cộng dồn lại sẽ ra một ‘hạnh
phúc lớn’ đáng tự hào.
* Một
số ví dụ tham khảo:
-
Có một dân tộc trãi qua nhiều khó khăn nhưng anh dũng vươn lên thành công, dân
tộc ấy nhất định đã tạo nên một vốn ‘phước đức’ không nhỏ.
Vốn
ấy là vốn về sức mạnh tinh thần, có nội dung “đoàn kết yêu thương nhau trong
khó khăn, và cùng hợp sức đứng lên tự vệ”.
Vấn
đề đặt ra là khai thác vốn ‘phước đức’ ấy trong đấu tranh tiêu cực, để xây dựng
phát triển xã hội.
Đây
là lúc nó cần có ‘chân lý sống’ để giúp phân biệt rõ đúng sai, mà biết tập hợp
đoàn kết về hướng nào và cần đấu tranh tiêu trừ hướng nào.
Trong
xây dựng hoà bình, kẻ thù là sự lạc hậu trong nhận thức. Vấn đề này có trong mỗi
người.
Do
vậy ‘đoàn kết’ là về hướng lý lẽ đúng, và ‘tự vệ chống lại’ về hướng lý lẽ sai.
Trước mắt là đấu tranh với cái gốc sai (học thuyết, cơ chế), kế là con người
sai nhiều, sau cùng là ta đấu tranh với chính ta, để bảo vệ phần nhân cách đúng
… hoàn thiện.
Nếu
không làm được như trên, thì sức mạnh tinh thần trở thành vũ khí mất phương hướng
… ta diệt ta quyết liệt, là điều khó tránh. Dễ đưa xã hội đến chỗ điêu tàn, chỉ
vì … vốn ‘phước đức’ tổ tiên để lại quá lớn.
-
Sức mạnh tinh thần của một dân tộc, có thể được mã hóa vào ngôn ngữ, âm nhạc,
văn thơ, phong tục tập quán, kỹ năng sống, lịch sử, v.v…, mà nơi đó bao giờ
cũng nỗi bật dấu ấn ‘tình người’.
+
Riêng âm nhạc có sức lan toả đặc biệt, nó không đòi hỏi người nghe có
trình độ kiến thức cao chỉ cần có trình
độ ‘tình người’ là đủ. Điều này trong dân gian (VN) có rất nhiều. Nhờ vậy âm nhạc
truyền thẳng vào tâm qua “cảm” đến tim, giúp người nghe không ngừng được bồi dưỡng
nâng cao vốn sống (tinh thần) ‘tình người’.
Tình người dồi giàu là sức mạnh tinh thần, là bệ phóng cho ‘ý’ phát triển.
Có ‘ý’ là có ‘lý’ đi liền. ‘Lý’ phát, ‘trí tuệ’ phát, nhận thức phát, chân lý sống
phát hiện ... Sức mạnh dân tôc thêm củng cố.
+
Sau âm nhạc là ngôn ngữ giao tiếp. Đây cũng là dạng truyền tải ‘tình người’
đặc biệt và hiệu quả. Ví dụ, trong ngôn ngữ dân tộc Viêt-nam, thứ bậc xưng hô rất
rõ ràng đa dạng, phong phú.
Như cha, mẹ, con, anh, chị, em, cháu, dì, mợ, cô, thím, chú, bác, cậu, nội,
ngoại, mày, tao, ông, bà, tôi, tớ, ta, mi, o, thằng, hắn, dạ thưa, dạ vâng, dạ,
vâng, ừ, v.v… nó được dùng phong phú không phải để phân cấp quyền lực (nghĩa phụ),
mà là để phân biệt đẳng cấp và trách nhiệm tình thương giữa người với người là
chính.
Tuỳ theo trình độ tình cảm phát sinh trong quan hệ, mà người ta chọn
cách xưng hộ phù hợp. Người không quen sẽ khó hoà nhập vào hệ thống xưng hô
trên.
Người lớn có trách nhiệm yêu thường nhường nhịn giúp đỡ bảo ban cho người
cấp nhỏ. Quan hệ bạn bè hay người lạ xóm giềng cũng vậy. Mọi người dù quen hay
lạ cũng đều có thể xưng hộ như trong một đại gia đình dân tộc, v.v… mặc dù mới
gặp mặt nhau lần đầu. Tất cả nhằm thể hiện tình yêu thương trách nhiệm, đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau, giữa người với người, hay giữa người cùng chung một gióng
nòi.
‘Tình người’ vì thế không ngừng phát triển, vốn (tài sản) tinh thần càng
sâu và lớn.
+
Qua cách xưng hô trên, đẳng cấp quan hệ được hình thành.
Đó là đẳng cấp về nhân cách, về phẩm chất đạo đức tình cảm. Chứ không đặt
nặng quyền lực áp đặt. Điều này đòi hỏi người trên bậc, phải sống gương mẫu, uy
tính, giỏi giang, v.v… có sức thuyết phục người kém bậc.
Phương thức cơ chế quan hệ trên, vô tình đem lại sự phát triển cao cho
tâm A1 của nhân dân và xã hội, mà không dễ gì các
phương pháp giáo dục khác (đọc sách v.v…) đạt hiệu quả bằng.
+
Một dân tộc có lợi thế tinh thần phát triển, sẽ có lợi thế về ‘hạnh phúc
tinh thần’. Nếu nay cộng thêm ‘hạnh phúc vật chất’ cơ bản nữa, là sẽ có cơ hội
đạt mức sống hạnh phúc cao hơn các dân tộc khác.
Biết rằng thế mạnh ưu việt của con người là thuộc vốn tinh thần, với “tinh
thần tình cảm” là mục đích và “tinh thần vật chất” là phương tiện. Vì thế dù
con người rất giàu có về ‘vốn vật chất’, nhưng nghèo ‘vốn tình cảm’, thì vẫn gọi
là bị “nghèo và yếu” về vốn sống.
Để phát huy thế mạnh tinh thần, con người vận dụng lý lẽ, để tìm chân lý
và lẽ phải, để từ đây tiếp tục xây dựng và phát huy tình người thêm phong phú,
v.v....
Một dân tộc có thế mạnh ‘hạnh phúc tinh thần’, sẽ có nhiều cơ hội chiếm
ưu thế trong tương quan lực lượng phát triển.
Và
nếu may mắn hơn, cũng có thể trở thành hạt nhân đoàn kết, vì hoà bình và hạnh
phúc …
+
Thế nhưng, vạn sự khởi đầu nan …
Trong ưu có khuyết. như người ta thường nói … “thương nhau lắm, cắn nhau
đau”.
Tình người chỉ thật sự phát huy, khi “tình và lý” cùng phát triển song
hành biện chứng.
Trong khi thực tế, … “tình một đàng” … “ lý chạy một nẽo”, … thì cây nào
ra được trái ngọt.
Biết rằng “tình” tạo ra “lực”, “lý” để chỉ “hướng”.
Lực mất hướng là thành lực phá hoại. Tình càng cao, thì lực phá hoại
càng điên cuồng. “Nhiệt tình cộng ngu dốt, sinh phá hoại” là phản ánh đúng trường
hợp và hoàn cảnh này.
Một dân tộc mạnh rơi vào hoàn cảnh trên, sẽ thành dân tộc yếu trong thời
gian ngắn.
Biết rằng ‘tình’ do tự nhiên
có. Theo nguyên tắc, ‘lý’ cũng phải tự
nhiên, thì kết quả ‘tình lý’ sẽ khớp nhau. Nhưng ‘lý’ để tự nhiên phát triển
thành ‘KHÁC TỰ NHIÊN’. Do vậy, con người phải trải qua công đoạn nghiên cứu để
‘lý’ thành tự nhiên như nguyên mẫu.
Khi ấy KẾT QUẢ LẮP RÁP MỚI THÀNH CÔNG.
Thực tế ngày nay, nhiều ‘lý’ không
tự nhiên, mọi người dị ứng, nhưng vẫn được dùng ...
HTML là loại ‘lý’ chủ quan nhân tạo, do nghiên cứu sai, và … cấm toàn
dân “nói sai và không muốn tiếp tục dùng nó”.
CNTB là mô hình ‘lý’ chủ quan tự nhiên, vì thiếu nghiên cứu, và … chỉ chạy
đua làm giàu cá nhân mức sống ‘vật chất’, bỏ qua ý thức làm giàu trọng tâm A1.
Khi ‘lý’ sai, ‘tình’ đúng (do bản chất luôn đúng), không khớp nhau, con
người nghịch nhau quan điểm sống, xã hội phát triển không ổn định.
- Chính quyền (“kẻ mạnh”) nghịch nhân dân (“kẻ yếu”), quan nghịch quần
chúng, người giàu nghịch người nghèo, người khôn nghịch người dại, người có bằng
cấp nghịch người không bằng cấp, … mọi người nghịch nhau (mâu thuẩn) khi không
hiểu nhau …
Sự phân cấp trong quan hệ ngày nào vì tình nghĩa con người, thì nay bị lợi
dụng để ‘quyền lực hoá’ trong quan hệ. Trước tốt (+) bao nhiêu, nay thành nguy
hiểm (-) bấy nhiều …
Làm sai, sống sai, lâu dần thành quen, thành hèn, nhu nhược, … thành đồng
loã với cái xấu một cách tự nhiên, như cuộc sống tốt đẹp không gì xảy ra …
Bản chất nhân dân là ‘kho lưu trữ chân lý’ muôn đời của thời đại.
Vì thế nhân dân đã trở thành nạn nhân muôn thuở, mỗi khi các ‘lý sai’ muốn
chứng minh nó là ‘lý đúng’ … bằng cách dùng sức mạnh chống phá điên cuồng để áp
đặt. Nhưng cũng là “vị quan toà” công minh, luôn biết cách đưa sự sống trở lại
thế cân bằng của công lý.
Đây đã là luật trời không ai có thể sửa được.
Nhưng nhiều chính quyền vẫn không tin có luật trời,
Bằng cách đóng kịch thương
dân qua các việc làm phụ ...
Nhưng
chống lại dân trong các việc hệ trọng bậc nhất …
Ví dụ:
chọn học thuyết phát triển xã hội …
“Còn một người dân không đồng ý,
chính quyền còn phải tranh luận chứng minh công khai”.
°°°
*
Qui
trình tạo ra sức mạnh của tâm, có thể
tóm lược như sau:
-
Sức
mạnh hình thành từ ‘cảm’ và ‘ý’
của tâm.
Từ ‘cảm’
sinh ‘ý’, ‘ý’ kích thích ‘tư duy ý thức’ vận động, để hình thành lý lẽ (ngôn ngữ), ý chí, hành động’,
v.v... dưới danh nghĩa “lẽ phải” (thật hay giả), do một cá nhân
cụ thể chịu trách nhiệm.
-
Từ
nhiều ‘lẽ phải’ tổng hơp thành
‘quan điểm’ – trung tâm (B).
Quan
điểm được lưu trữ vào tiềm thức (A1 hoặc
A2) của cá nhân, để tiếp tục tạo ra ‘cảm’ và ‘ý’ trong trung tâm (A)
(chung của A1 và
A2), sau đó chuyển thành mệnh lệnh cho (B) phải thi hành. – (xem
“Cách Sống Mới”)
Đây là qui trình làm nên “sức sống” của một cá nhân.
-
Chu
kỳ trên được lập đi lập lại mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi giây, …. Mỗi lần lập lại là
mỗi lần sức sống tăng thêm cường độ,
hoặc giảm đi cường độ, tuỳ theo ta xét góc độ của tâm A1 hay A2 , cà cá nhân chọn để sống.
Ngôn
ngữ, lời nói, chữ viết, hành động, quan hệ, âm nhạc, văn chương, triết lý, ca
dao tục ngữ, phong tục tập quan, kinh tế, chiến tranh, hoà bình, v.v… là những
phương tiện truyền tải sức sống của
cá nhân, qua tập thể, số đông, v.v…
Ta
gọi như trên là sức mạnh của TÂM, bằng
mệnh lệnh từ ‘cảm’ và ‘ý’ lúc đầu.
Từ
đây nó tạo thành “lực đẫy của qui luật tồn tại”, có thể đúng hoặc sai, có thể
trái hoặc không trái với QLTN.
Nhưng
đa phần con người đang chọn sức sống theo hướng A2 .
Trong
khi QLTN, “khuyến cáo” nên chọn hướng A1 .
Do
trái chiều như trên, nên ‘sức mạnh của tâm’ luôn bị làm cho giảm, vì nội tâm
mâu thuẩn.
Do
lịch sử để lại, QUYỀN LỰC XÃ HỘI luôn thuộc về phe A2
(chính quyền), nên phe A1 tất thắng lại thường
xuyên phải ở thế thua, vi bị tước quyền lực.
(Chú
thích:
‘Quyền
lực xã hội’ luôn thuộc về phe A2 (chủ quan), khi sự sống
thiếu ‘chân lý’, giáo dục kém. Nên con người khi lên cầm quyền rất dễ trở thành
‘chủ quan’, nếu thiếu một phương hướng tích cực cụ thể dẫn đường – thường do
hoàn cảnh tạo ra.)
Như
thế là bên đông không vũ khí, chống
lại, bên ít có vũ khí.
Nên
thế thắng thua luôn cân phân, không bên nào thắng tuyệt đối.
Sức
mạnh tâm cũng luôn ở thế thất thường, mệt mỏi kéo dài ngấm ngầm.
Suy
ra nhiều người muốn chọn thái độ thờ ơ với thế sự, sẵn sàng thu hẹp phạm vi trí
tuệ, để đi tìm sự bình yên và sức mạnh cho tâm hồn. Một sự trốn tránh sự thật …
làm hạ thấp nhân cách … bất đắc dĩ.
*
Nếu
sự sống luôn ổn định bình thường, thì con người không có gì để bàn.
Nhưng
một ngày kia hết tiền hết cái ăn … thành phải tính.
Nhu
cầu quan hệ đặt ra.
Quan
hệ là liên quan đến đạo đức, đến kỹ năng, đến tâm.
Hiện
tượng phổ biến, tâm là bản sao của xã hội. Xã hội liên quan đến thế giới. Thế
giới liên quan đến học thuyết. Học thuyết liên quan đến QLTN.
Vậy
là sự sống một cá nhân bình thường, nhưng thực tế nó liên quan đến cả một tổng
thể lớn.
Nếu
đầu tư sai từ các hiện tượng nhỏ, thì đừng hỏi tại sao tương lai phát triển
không như ý.
Sai
một cá nhân hôm nay … ngày mai sai một lãnh đạo …
Thế
giới lớn nhờ nhiều cá nhân nhỏ.
Nếu
cá nhân nhỏ thiếu được minh chứng cơ chế phát triển hợp lý, thì thế giới lớn sẽ
nát nhỏ …
Trong
VMXH, khi sự nghiệp xã hội hoá giáo dục đã thành công, lúc bấy mọi người giúp
nhau chỉ dạy nhau kịp thời. Có nền móng chắc, tương lai chắc chắn an toàn, thế
giới sẽ không tan nát bởi hiểm hoạ chiến tranh.
Thực
tế các tôn giáo đã làm tốt điều này. Nhưng tiếc rằng đó chưa phải từ góc độ của
khoa học, nên tính hiệu quả chưa đồng bộ.
Khoa
học đã thành công trong chăm lo vật chất cho cá nhân ngay từ sớm, nhưng còn nhiều
ngộ nhận trong nhận thức phát triển tinh thần.
8/6/2012
- HVS
PHỤ
CHƯƠNG
CON ĐƯỜNG TƯƠNG LAI
PHÂN
ĐỌAN MỘT:
“CHÍNH QUYỀN ẨN”
I.
XÃ
HỘI VÀ LỜI GIẢI.
Con
người sống, nhận thức, và phát triển.
Thế
giới ngày nay phát triển nhanh, nhiều, và lạ từng ngày. Các công trình kiến
trúc mộc lên, đường xá khang trang, các cửa hiệu lộng lẫy, hàng hóa đa dạng đẹp
mắt, v.v… .
Trên
đường, xe cộ như đi hội, đau đâu cũng màu sắc, người đi làm đi chơi hay đi mua
sắm v.v… tất cả làm nên sức sống rất nhộn nhịp của thời xã hội hiện đại.
Con
người muốn thư giãn, có thể sãi bước ra phố ngắm nhìn các cảnh vật, hoặc đi mua
sắm, hay tìm đến các trung tâm giải trí, v.v... sẽ tìm thấy sự thoải mái cho tinh thần.
Tuy
mức sống vật chất phát triển cao, đời sống tinh thần tốt hơn. Nhưng tốt chỗ này
xấu chỗ khác. Con người gọi như thế là chưa ổn.
Bất
công, tội phạm, kinh tế chính trị xã hội phức tạp, v.v... là những rào cản của
phát triển.
HTNT
qui tất cả nguyên nhân cho bài toán “QUAN HỆ”, đang thiéu lời giải minh bạch.
Và
lời giải đề xuất là khái niệm “TÂM”, như dân gian thường dùng.
Vì
sau ‘tâm’ sẽ là ý thức, thói quen, quan điểm, phong tục tập quán, cơ chế xã hội,
dư luận, lời nói … và hành động.
Cộng
chung lại là những vấn đề cần có chân lý
dẫn đường, mà cụ thể nó sẽ được tìm thấy tại Tâm.
Vì
thiếu chân lý nên nhận thức không
thông, dẫn đến dùng quyền lực, mà
như thế là ‘phản dân tâm’.
‘Phản
dân tâm’ bắt đầu có nguồn gốc từ:
-
một
là, cơ chế nền kinh tế, nó tạo ra sự chênh lệch về mức sống.
-
hai
là, cơ chế tạo ra quyền lực thuộc về ai, để cuối cùng gây chênh lệch lớn với
nhân dân (không quyền lực trực tiếp)
-
ba
là, từ chênh lệch mức sống đến quyền lực, dẫn đến chênh lệch lớn về nhận thức
(đối thoại bế tắc).
Đáp
án cho vấn dề trên,
-
Một
là, nhân dân tìm lời giải, vì chu kỳ chính quyền chỉ nhất thời nên không đủ thời
gian tìm lời giải.
-
Hai
là, chính quyền trau đổi bình đẳng với nhân dân, để tìm lời giải.
.
HTNT là lời giải đề xuất – đây là phần nhân dân đã làm.
.
Tiếp theo là tổ chức hệ thống diễn đàn rộng rãi, để tìm chân lý (lẽ phải) cho
cuộc sống – đây là phần chính quyền và nhân dân cùng làm.
II.
CƠ
CHẾ XÃ HỘI.
Đặc
điểm của chính quyền hiện nay là … chủ quan, không muốn nghe và đối thoại công
khai với nhân dân …
Để
hạn chế tính “chủ quan” của chính quyền, các xã hội tư bản áp dụng cơ chế “tam
quyền phân lập”.
Nó
đã đem lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, bao giờ phía “quyền lực” (hành pháp)
cũng chiếm nhiều lợi thế hơn nếu muốn vượt qua các đối thủ ... Đặc biệt khi sự
sống còn nằm trong quĩ đạo của “tiền” và “quyền lực” chiếm ưu thế cao.
Vì
thế, cơ chế xã hội và các lý lẽ, chưa đủ để đảm bảo sự phát
triển ổn định lâu dài và tổ đẹp cho xã hội.
Trong
thế giới KHVC, các chứng minh đều khách quan công khai cụ thể.
Nhưng
trong thế giới KHTT, các chứng minh nặng về “trừu tượng vô hình”, nên tính giá
trị chỉ là tương đối. – Mặc dù thực tế, thế giới tinh thần cũng mang tính khách quan không kém so với thế giới vật chất. Nhưng nó tuỳ thuộc nhiều vào
trình độ và khả năng nhận thức của người tiếp cận – thuộc quan điểm A1 hay A2.
Do
vậy trong KHTT, muốn cho chính xác trong
thực tế vận dụng, chỉ có cách:
-
Tất
cả từ quan điểm đến cơ chế xã hội đến lý lẽ hành động v.v… đều chỉ là phụ, quan
trọng là “AI CHỦ, NGƯỜI ĐÓ TỰ QUYẾT ĐỊNH VÀ TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM”.
Để
con người KHÔNG CÓ CƠ HỘI lợi dụng sự trừu tượng trong KHTT (hay sự phức tạp
trong phạm trù “quan hệ”), để đem sự chủ
quan của CÁ NHÂN chen vào giữa
các VIỆC CÔNG.
Ví
dụ, cá nhân làm cá nhân chịu, xã hội
làm xã hội chịu. Mà xã hội là của nhân dân, vậy nhân dân phải có QUYỀN LỰC, để có thể tự làm tương lai theo ý mình.
Tức là chính quyền PHẢI TRAO TRẢ “quyền
lực” lại cho NHÂN DÂN, một cách đầy đủ. – (theo cách như đã được giới thiệu.)
Vì
“quyền lực” là nguyên nhân GỐC của mọi
VẤN ĐỀ XÃ HỘI.
Sau
“quyền lực”, là “Học Thuyết Lương Tâm”,
thì nhân dân sẽ “LÀM CHỦ ĐƯỢC XÃ HỘI”, làm chủ được tương lai của mình.
Học
thuyết dù có tốt có chính xác thế nào, cũng chỉ là để tham khảo mở đường. Còn quyền quyết định phải thuộc về mọi người,
thuộc về nhân dân. Không ai có quyền
LẠM DỤNG học thuyết, để BẮT BUỘC người khác phải làm theo mệnh lệnh của mình. – Đó là sai trái, là lạm dụng lòng
tin.
Khi
ý thức dân chủ đã hình thành trong nhân
dân, thì chính quyền nên giao quyền quản lý xã hội lại cho toàn dân.
Toàn
dân quản lý xã hội bằng chân lý và lẽ phải- chân lý.
Nếu
áp dụng nhhư thế, cá nhân sẽ có quyền
không làm khi lý chưa thông. Không ai có quyền đứng trên người khác để ra mệnh
lệnh, nếu đối tượng không đồng ý và không vi phạm các qui định chung. - Những
qui định chung cơ bản do xã hội đã thống nhất từ trước, như không xâm phạm quyền
tự do của người khác, v.v...
Đây
là cơ chế quản lý mới của xã hội văn
minh đối với con người. Nơi đó mọi người biết cách làm chủ bản thân và xã hội, bằng
những lý lẽ và hành động hợp lý với mọi người và trước chính quyền.
Cũng
tương tự như thế, áp dụng cho xã hội.
Xã hội là của nhân dân, không ai có quyền thay mặt nhân dân đứng trên xã hội, để
mệnh lệnh người này người kia khi chưa
có những đối thoại công khai hợp lý.
Tất
cả mọi hoạt động của con người đều theo qui định của các diễn đàn (DĐND) – nó gần giống với cơ chế quốc hội, nhưng DĐND phổ thông hơn, ai cũng được tham gia. – Thực tế
khi DĐND hoạt động tốt, thì nó cũng sẽ thu hẹp gần giống với mô hình quốc hội
hiện nay.
-
Cái khác của cơ chế mới là bắt đầu từ cấp
ngôn luận phổ thông, sau mới tích tụ thành cấp ngôn luận tập trung. Trong khi cơ chế cũ, xây dựng
trực tiếp cấp ngôn luận tâp trung trước,
bỏ qua nguyên tắc tôn trọng chân lý từ
cấp ngôn luận phổ thông trước.
(Chú
thích:
-
Bỏ
cơ chế quốc hội, vì nó thiểu số, nên dễ bị các “quyền lực” lợi dung.
-
DĐND
là toàn dân được quyền tham gia, nên các “quyền lực” không thể lợi dụng. Diễn
đàn tất yếu rất đông người tham gia nhưng không bị rối, vì mọi người đã được hướng
dẫn dùng công cụ của quyền lực lương tâm A1 trong ngôn ngữ giao tiếp
và giải quyết công việc.)
HTNT
chủ trương đào tạo:
-
Mọi
cá nhân nhìn vào A1 để tự quyết và chịu trách nhiệm về việc làm của
mình.
-
Trong xã hội, nhân dân là chủ, nhân dân phải có quyền tự quyết
những vấn đề cơ bản của xã hội.
-
Sự bầu chọn chính quyền chỉ sẽ xảy ra, khi tin chắc “chính quyền
mới” BIẾT chấp hành mệnh lệnh của nhân dân (DĐND), như là một quyền lực tuyệt đối.
“Tập
trung quyền lực” (chính quyền) chỉ xảy ra khi hệ thống DĐND đã làm chủ xã hội.
- DĐND bao gồm những “Diễn Đàn Chuyên
Ngành (các lĩnh vực KHVC)”, và
các “Diễn Đàn Tổng Hợp (các vấn đề
KHTT)” của từng cấp.
III.
NHÂN
CÁCH VÀ CHÍNH QUYỀN ẨN.
Song
song với mô hình xã hội mới, là bài toán về “NHÂN CÁCH” như là điều kiện cơ bản.
Giáo
dục làm chủ tâm được phổ cập trong
xã hội. Song song với nó là ‘tự do thông tin và ngôn luận’, là điều kiện tiếp
theo để xây dựng con người hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ.
Giáo
dục như trên trong thời đại ngày nay, muốn đạt hiệu quả tối ưu, chỉ có cách phải
dựa vào khoa học để phát triển, nhằm giúp con người có khả năng nhận thức sự sống
một cách chính xác, khách quan, logic, đúng sự thật, để không còn ai có thể lý
giải khác ngoài nội dung đã thống nhất toàn xã hội.
Như
thế mọi vấn đề xã hội, toàn thể nhân dân đều được thông suốt, vì nó liên quan
trực tiếp đến sự sống của từng người dân một.
– (Chú thích: Trước mắt khi DĐND chưa có và để
đỡ tốn kém trong giai đoạn đầu thành lập, xã hội chỉ cần tập trung những nhân
sĩ tiêu biểu trong xã hội, để lý giải các vấn đề xã hội, thì mọi việc sẽ ổn định.
Sau đó dần dần mở rộng hệ thống DĐND không khó.)
Theo
HTNT, ‘lương tâm A1‘ là con đường độc đạo để phát triển nhân cách và
sự bình yên cho xã hội.
Có
‘lương tâm A1‘ làm gốc nhân cách, cộng với cơ chế ‘tam quyền
phân lập’, cộng DĐND làm chủ, cộng trung tâm chuyên trách về ‘lương tâm A1‘
(giống mô hình đảng hay tôn giáo), thì xã hội và nhân dân sống bình yên và hạnh
phúc - chính quyền và cái ác không còn cơ hội lộng hành.
(Chú
thích: - ‘Lương tâm A1‘
hay ‘tâm A1’, nôm na là “lương tâm đã học thuyết hoá”. Với ý
nghĩa, từ đây đủ để lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn loài người, một
cách khách quan và khoa học. – Vì A1 là khởi nguồn của chân
lý, là trung tâm cuối cùng điều hành
sự sống, là QLTN của xã hội loài người.)
Nếu
tâm A1
là một công cụ ĐẶC BIỆT vì có quyền quyết định cuối cùng đối với sự sống con
người, thì nó đích thị là “chính quyền ẩn”
(CQA) – chính quyền không lộ diện.
CQA
tồn tại trong mỗi cá nhân con người.
Vấn
đề là tìm ra cơ chế chuyển hoá CQA chính quyền hiện thực, để mọi người thuận lợi
trong nhận diện. Và từng bước công nhận nó là một quyền lực hữu ích tối thượng
cho sự sống mọi người.
Chức
năng nhiệm vụ của CQA là điều hành sự sống thế gian, từ phạm vi cá nhân đến qui
mô xã hội, đều phát triển đúng theo
quĩ đạo của QLTN do tạo hoá-tự nhiên qui định từ thuở … vũ trụ chưa có.
Nếu
ý chí con người chấp nhận chọn hướng phát triển sự sống theo CQA, thì mọi sự thế
gian sẽ gặp nhiều may mắn thuận lợi.
Do
đó, nghiên cứu khai thác CQA
thành “chính quyền thực”,
là con đường ngắn nhất, để các chính quyền hiện tại phục vụ ấm no hạnh phúc cho dân tộc mình, một
cách hiệu quả nhất và tốt đẹp nhất.
Phải chăng đây là đích đến về ‘thế giới đại đồng’
mà Các Mác đã phát hoạ trong CNCS.
IV.
SỰ
MỞ ĐẦU CỦA MÁC.
Trong
lịch sử triết học, có lẽ Các Mác là người đầu tiên chứng minh luận điểm, “xã hội
loài người phát triển theo qui luật, và con đường tiến lên thế giới đại đồng”.
Nhưng
tiếc rằng nó không thành công, do sai lầm trong chứng minh.
Kết
quả, ông có công MỘT nhưng tội ông … HAI, BA. Bởi nó gây ra nhiều hậu quả … do
người đời đã lạm dụng thái quá các mặt khuyết của nó …
Học
thuyết của ông tình cờ cho phép con người chống
lại … chính mình, một cách hợp pháp,
vì tội HAM MUỐN “kinh doanh tự do”
(KDTD) để nuôi sống bản thần và gia đình. – nhưng tiếc rằng “tội này” thuộc bản
năng sinh tồn tự nhiên của con người trong xã hội văn minh không thể bỏ được.
Nhưng
Mác “quả quyết” đây là đầu mối chính dẫn đến tội bóc lột sau này. Nó nặng hơn
vì nó mà sinh ra bất công xã hội, cùng với các tội ác, sự bất ổn v.v…. Vì nó sẽ
tạo ra “Giàu Cá Nhân” (GCN), mà GCN là chênh
lệch mức sống, là “bóc lột”, là
“trái đạo đức” …
Vậy
nên ông quyết định đúc kết thành … HTML.
HTML
kết luận rằng … KDTD là biểu tượng của cái ‘ác’, chỉ có KDTT mới thuộc về cái ‘thiện’. – KDTT là “Kinh Doanh Tập Thể” dưới sự quản lý chung của Chính Quyền
Vô Sản (CQvs). – Mà CQvs là đại diện duy nhất của giai cấp vô sản
(công nhân), là đối tượng ‘cùng khổ’ nhất của xã hội văn minh. Vì vậy cho đại
diện giai cấp này lên nắm chính quyền thì nhất định sẽ đem lại sự sống công bằng
và chấm dứt sự ĐAU KHỔ cho toàn xã hội.
Lý
thuyết của Mác nghe qua thì thật là hay, thật là hợp lý, ai đã từng chịu bất
công đau khổ dưới sự áp bức thời bấy giờ, đều rất thích nên hết lòng ủng hộ
quan điểm của ông. Nhưng tiếc rằng thực tế cho thấy, QUAN ĐIỂM TRÊN CỦA MÁC là
hoàn toàn KHÔNG ĐÚNG.
Vì
đơn giản Mác chưa nhận thức rõ về “con
người”.
Mác
chỉ suy luận dựa trên các hiện tượng xã hội, mà không chú ý đến yếu tố “đặc điểm
bản chất con người”. Nên mọi kết luận chỉ là suy đoán phiến diện, không phản
ánh đúng bản chất hiện tượng vấn đề.
Biết
rằng để nghiên cứu “hiện tượng xã hội” như trên, ông đã tiêu hao cả đời người.
Nếu muốn nghiên cứu tiếp đề tài “Con Người”, có lẽ tạo hoá phải cộng thêm cho
ông một kiếp người nữa …
Bởi nó cũng tiêu tốn chừng ấy thời gian, hoặc
có khi còn dài hơn, hoặc mãi mãi sẽ không đến đích, nếu duyên số không cho
phép.
Tuy
nhiên cũng phải công nhận, không có công trình nghiên cứu của Mác có lẽ … HTNT không bao giờ tìm thấy kết quả …
Vì
vậy, nếu xét về qui luật tiến hoá thì phải chăng, thành quả của Mác là tiền đề
giúp loài người tiến lên một nấc thang cao hơn. Cho dù nó đã gây ra biết bao
tai hoạ đáng tiếc, và phải chịu bao nhiêu sự lên án nặng nề …. Nhưng phải có thất
bại lớn, thì kinh nghiệm rút ra càng mới tìm thấy đúng trọng tâm vấn đề.
Mác
đã đem đến sự khốn cùng toàn diện về đời sống vật chất và tinh thần. Nhưng tin
rằng từ đây, loài người sẽ tìm thấy ánh sáng của “quyền được sống hạnh phúc về vật chất và tinh thần toàn diện” ở cuối
đường hầm.
V.
SỰ
SAI LẦM.
Để
tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm …, trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về
những sai lầm của Mác.
Có
thể do không chú trọng đáp án thuộc về nhân tố “con người”, nên Mác không thấy
rằng đối với con người “nhu cầu sinh tồn
cá nhân” là trên hết, kế là “gia đình”, v.v... Mà trí tuệ con người không
ai giống ai, nên “mục đích sinh tồn cũng
khác nhau” (nếu để phát triển tự nhiên).
Suy
ra con người không ai có thể đại diện cho nhau một cách tuyệt đối. Cá nhân đại diện cho
cá nhân còn chưa xong, nói chi đến đại diện cho cả một giai cấp, hay một dân tộc.
Có
chăng chỉ là đại diện trên một vài lĩnh vực đã thoả thuận trước.
Thế
nhưng HTML cho phép CQvs được đại diện, toàn quyền quyết
đinh, trên mọi mặt đời sống của toàn
thể nhân dân trong một đất nước.
Thật sự là một kết luận … điên rồ,
ngu xuẩn và độc ác …
Vì
làm người, cá nhân nào cũng ưu tiên con đường sinh tồn bản thân, nếu có tốt bụng
lắm thì cũng chỉ giúp người khác trong một giới hạn cho phép.
Nay
tất cả sinh mạng của một dân tộc giao hết cho một cá nhân (kể cả một tập thể) chịu trách nhiệm, thì có phải đã
giao trứng cho ác, vì không để lại họ một quyền lực tối thiểu nào để họ tự vệ.
Như thế có phải giết chết một dân tộc, trong khi cá nhân quyền lực ấy cùng với
bộ máy bảo kê, tha hồ ưu tiên hưởng thu cá nhân …
Trong
hoàn cảnh nghèo khổ, người ta rất dễ
cảm thông và hiểu nhau, nên đại diện cho nhau đấu tranh tìm quyền sống. Niềm
tin lúc này là hoàn toàn hợp lý, có đủ cơ sở giá trị. Vì tất cả đều đang gặp
nguy hiểm, nên cần phải tin nhau để giúp nhau “mạng sống”, và cùng đối phó trước
“kẻ thù chung”. - Sự đại diện lúc này chỉ
là những nội dung đơn giản như vậy, nên người giao và người nhận trách nhiệm đại
diện, rất dễ tin và hiểu nhau.
Nhưng
khi hoàn cảnh nghèo khổ chấm dứt, chuyển sang mức sống phát triển, thì vấn đề trở nên hoàn toàn khác:
- Lúc này không ai muốn lệ thuộc ai nếu đã
có khả năng tự sống và phát triển. Nếu
có nhu cầu giúp nhau thì hai bên phải bình đẳng cùng có lợi. Không lý do gì phải
phân chia, “kẻ trên nô lệ kẻ dưới” một
cách PHI LÝ. – Nên đại diện TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY là thừa.
- Mỗi người mỗi ý thích, tuỳ theo khả năng tự
do phát triển sự sống đa dạng. Những việc này làm sao ai đại diện cho ai được,
vì biết họ muốn gì mà đại diện, và khả năng đâu mà duyệt. – Nên đại diện TRONG
TRƯỜNG HỢP NÀY cũng là thừa.
- Người siêng năng, giỏi giang, thì đời sống
sung túc. Người lười biếng, kém khả năng, thì đời sống thiếu thốn sa sút là tất
nhiên. Hai dạng thái độ sống khác nhau như vậy, chọn ai đại diện được cho ai. -
Người siêng làm đại diện, thì người
lười sẽ bốc lột người siêng, bằng cách chỉ lo ngồi chơi để được hưởng thụ, như
thế ai chịu. – Nếu người lười làm đại
diện, thì người siêng bắt buộc phải lười và đói theo, thì người siêng đời nào
chấp nhận. – Nên đại diện TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY cũng là thừa.
- Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác đặt ra,
như nhu cầu tự nhiên về tự do thông tin và tự do ngôn luận, để tìm hiểu sự thật, nhu cầu có môi trường
sống bình đằng để phát triển công bằng, nhu cầu phát huy sức mạnh dân tộc để cạnh
tranh thế giới, v.v…, tất cả những vấn đề này không thể lệ thuộc vào quyền quyết
định của một vài cá nhân quyền lực
là tốt. Mà nó phải thuộc về quyền của mọi người, để cùng phát huy sức mạnh của
ý chí tổng hợp, thì kết quả đạt mới tối ưu. Người đại diện chỉ là người thừa
hành cái chung kia. – Nên đại diện theo kiểu đứng trên mọi người, ra mệnh lệnh
bó buộc …, là thừa, là vô lý, vì ai
cho phép.
Mặt
khác, khi cuộc sống no đủ, con người
dễ phát sinh thói quen XẤU là “ham muốn hưởng thụ VẬT CHẤT vô hạn”, và thiếu ý thức rèn luyện “kỹ năng hưởng thụ tinh thần” đi kèm.
Để
khắc phục căn bệnh trên, Mác “CÀO BẰNG mức sống xã hội”, cho đến khi xây dựng thành công CNCS.
Việc này HTML giao cho các CNQLvs
thực hiện. Nhưng các học thuyết gia quên rằng, đến phiên các CNQLvs cũng “ham muốn hưởng thụ VẬT CHẤT vô
hạn” (chưa đến CNCS), thì ai có trách nhiệm kiểm soát
được họ.
Vậy
là HTML đã mâu thuẩn với chính mình, nói “xoá bỏ” nhưng thực chất là “không xoá
bỏ”.
VI.
HỆ
QUẢ.
Nếu
xã hội bình thường có nhiều “CHỦ TƯ
BẢN” (CTB), thì xã hội ML chỉ có một
“CHỦ VÔ SẢN” (CVS) làm chủ tất cả.
- Ai có quyền lực người đó làm chủ. Các CNQLvs có quyền lực
thì được làm chủ, còn nhân dân không
quyền lực thì mãi mãi ‘dân chủ ảo’.
Nó chỉ có trên tuyên truyền, trên các giấy trắng mực đen…
Mục
đích của Mác là muốn có công bằng xã hội, dựa trên cơ sở, mọi người có “MỨC SỐNG
VẬT CHẤT TƯƠNG ĐỒNG NHAU”, trên cơ sở mức sống giai cấp vô sản (cùng khổ) làm
chuẩn. Nếu xã hội nghèo tất cả đều nghèo, xã hội khá lên thì tất cả cùng
khá lên. Không ai được quyền
có mức sống quá cách biệt.
Đó
là một trong các nguyên lý cơ bản để
làm nên “XÃ HỘI ML”.
Nếu
nguyên lý cơ bản này bị phá đi, thì
“XÃ HỘI ML” không còn ý nghĩa.
Nhưng
HTML lại định nghĩa “làm theo năng lực,
hưởng theo lao động”, để tiến lên “làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Năng
suất lao động của công nhân khác nhau, mức hưởng thụ khác nhau. Việc này dễ
tính, sự chênh lệch hưởng thụ là không nhiều.
Nhưng
năng suất lao đông của cán bộ lãnh đạo thì không có cơ sở để tính, vì nó thuộc
“Giá Trị Tinh Thần” (GTTT). Mà Mác
thì chưa nghiên cứu về ‘GTTT’.
Vậy
là người ta áng chừng mức lương so với công nhân, để tính ra thang lương xã hội.
Nhưng
đến các cấp lãnh đạo tối cao, thì mức
lương không sao định nghĩa được.
Vì
công GTTT của họ trong lao động là rất lớn,
“lo trăm họ”, thì mức lương phải rất lớn.
Hơn nữa họ có quyền lực tuyệt đối, nên muốn kết luận thế nào sao lại không được
- (sửa chữa, thay đổi HTML còn được nữa kia mà).
Ngoài
ra các chi phí về ngoại giao, quan hệ quốc tế, phương tiện đi lại, v.v… cũng là
một khoảng chi phí lớn cần được tính đến, khi mức sống mặt bằng chung xã hội
còn rất thấp.
Theo
nguyên tắc mức sống phải tương đồng trong xã hội, mức lương danh nghĩa của cán bộ lãnh đậo các cấp cũng phải chênh lệch tương đối.
Tuy nhiên đến ‘chi phí công tác thực tế’
thì công tác lý luận nhận thức phải chào thua … vì rất khó lý giải.
Ví
dụ, nếu là cán bộ lãnh đạo cấp dưới thì cấp trên duyệt chi phí công tác.
Nếu
là cán bộ lãnh đạo tối cao thì ai dám duyệt … vì luật cũng là đây, không luật
cũng là đây.
Trong
khi bản chất con người ai cũng sợ … quyền lực, và cũng tham … quyền lực. Nên dễ
người, biết đâu mai đến phiên mình được hưởng khi ở vị trí đó.
Thế là mức thu nhập thực tế hằng tháng của
các
CNQLvs … DƯ ĐIỀU KIỆN để trở thành chênh lệch lớn so với thu nhập bình quân của mọi
người, Vấn đề là các CNQLvs có muốn hay không.
Khi mức sống của các CNQLvs cao, không lẽ tầng lớp cán bộ
kệ cận không nâng lên. Vậy là tất cả đều cao nhưng … bí mật quốc gia.
Càng muốn bí mật thì càng phải dùng
“chuyên chính vô sản”.
Nhân dân bao giờ cũng tinh tường mọi
việc, nhưng phải bất lực trước một HTML không chừa một đường thoát … hay một
khe hở nhỏ để còn hít thở khí trời.
Nhưng tình hình xã hội một số nơi có
dấu hiệu xuống dốc, và bế tắc về đời sống.
Vậy là nhiều cá nhân chấp nhận vượt
luật …
Cuối cùng một vài CQvs chấp nhận cho
KDTD, tức là chấp nhận “CHO làm GCN”. Vì thực tế cho thấy cấm cũng không được.
Nhưng mục đích trọng tâm của Mác là “CẤM làm GCN”. - Vì vậy quyết định trên chứng tỏ, “HTML ĐÃ PHÁ SẢN” trong thực tế.
Còn hiện tượng tự động cho phép KDTD
như trên, thực chất:
o
Một là, vi phạm bản quyền tác giả,
vì chưa xin phép,
o
Hai là, dựa vào cơ sở lý luận nào để
gán ghép tuỳ tiện.
o
Ba là, từ áp dụng học thuyết này,
chuyển sang học thuyết khác, có được sự đồng ý của nhân dân chưa.
Tất cả đều sai trái, vi phạm luật
quan hệ đối với CQvs hiện tại.
Kết
luận, CQvs hiện tại là bất hợp pháp, vì vậy không có quyền đòi hỏi nhân dân
phải đối xử với mình theo đúng pháp luật hiện hành.
(Chú thích:
- Đinh hướng phát triển xã hội như việc trồng
cây. Nếu muốn trồng cây A thì phải gieo mầm cây A, muốn trồng cây B thì
phải gieo mầm cây B.
- HTML ra sức lý giải để thuyết phục
mọi người đốn bỏ “cây Tư Bản” (có trái là “GCN”), và bằng
mọi giá phải trồng thành công “cây Cộng
Sản” sau khi cướp được chính quyền tư bản.
Thế nhưng sau hơn nửa thế kỷ ra sức
gieo mầm “cây Cộng Sản” (trái là “GTT”) cực khổ, nhưng sau hơn nửa thể kỷ người
ta thu hoạch toàn là các cây èo uột khó sống. Đặc biệt các “cây Cộng Sản cổ thụ” thì đã bị CHẾT ĐỨNG một cách thê thảm …
- Thế là các “cây Cộng Sản-hạng tép”
còn lại hoảng vía.
Trong đó một vài “cây Công Sản” chọn
phương án “GHÉP CÀNH”, tức là “cây Cộng
Sản- ghép cành Tư Bản”. Loại phương pháp này thế giới chưa có kỹ thuật
hướng dẫn.
- Nhưng kinh nghiệm trồng cây cho
thấy:
.
một là, muốn ghép cành thì cây gốc
phải khoẻ mạnh,
.
hai là, giữa cây gốc và cành ghép phải cùng
chủng loại.
Ví dụ:
-
Cành cam A ghép với gốc cây quít B, kết quả thành công.
-
Cành cam A ghép với gốc cây ớt C,
kết quả thất bại.
Cũng như vậy “cây Cộng Sản” đang yếu
sắp chết, theo nguyên tắc, không thể dùng làm cây gốc để ghép bất kỳ loại cành
nào. Lý do thứ hai là “cây Cộng Sản” và “cây Tư bản” là hai chủng loại mâu
thuẩn nhau về chủng loại, nên không thể ghép cành chung được. Vì một bên “không
cho GCN” và bên kia “cho GCN”, là hoàn toàn nghịch nhau về bản chất.
Nên kết quả sẽ thất bại nhanh chóng.
)
Khi sự tồn tại của CQvs là không còn
chính danh. thì “sự độc quyền về QUYỀN
LỰC” lâu nay, phải được trao trả lại cho xã hội, cho nhân dân, thì mới đúng nghĩa CQvs
là những người có nhân cách.
Tức là mọi người phải trở lại bình đẳng trước quyền lực xã hội. Không
còn ai được sở hữu nó độc quyền nữa.
Sau đó mới bàn bạc trên phạm vi toàn
dân, nên phát triển xã hội (quốc gia) theo mô hình quyền lực nào, kiểu xã
hội tư bản chăng. Một thành quả ngẫu nhiên của lịch sử tiến hoá của loài người.
Hay chọn mô hình CQA, do HTNT giới
thiệu.
Nhưng thực tế hiện nay CQvs vẫn chọn
phương phương pháp “Ghép Cành” như trên cho xã hội.
-
Một là, đây là việc làm gian lận,
không hợp pháp.
-
Hai là, nó sai kỹ thuật, thiếu cơ sở
lý thuyết.
Con người có thể nói “đen” là
“trắng”, nói “làm sai” là “làm đúng” trong quan hệ con người.
Nhưng thực tế “đen vẫn là đen” và “sai vẫn là sai”, không thể lật ngược một
cách đơn giản như vậy, như thế mới là có tính
khoa học trong nhận thức cuộc sống.
Sau khi “ghép cành”, người ta thấy các CNQLvs cũng HĂNG HÁI làm GCN như mọi người dân bình thường khác, mà thực tế có
khả năng bất công và gian dối hơn vì … lạm dụng quyền lực bất hợp lý.
Vậy là sau hơn nửa thế kỷ huấn luyện
học tập HTML, các CNQLvs không từ bỏ được BẢN NĂNG “MUỐN GCN”. - Vì nếu thật sự
họ đã “đắc đạo” chân lý ML, thì các CNQLvs sau khi “LÀM GCN” sẵn sàng chia hết lại cho dân nghèo, hay tự nguyện sung vào công quỹ”, như ngày nào đã tịch
thu tài sản của các “tư sản, địa chủ” hay kể cả “tư sản mại bản” để nộp vào
công quỹ vậy.
Nhưng thực tế không ai có ý nghĩ
phải hành động như trên cả.
KẾT LUẬN, theo định nghĩa, các
CNQLvs là những người tài đức ưu tú nhất của HTML, nhưng vẫn say mê “làm GCN” bằng KDTD, không thua hoặc còn hơn nhân dân. Vậy thì làm sao
chứng minh, HTML là hoàn toàn khả thi, khi MỤC ĐÍCH CHÍNH là cấm nhân dân làm
GCN bằng KDTD.
Vậy
là đã rõ, HTML mãi mãi không là một chân lý hiện thực, trong đời sống con người
và xã hội văn minh.
Nó chỉ là một lý thuyết được dùng trong
nghiên cứu tham khảo.
PHÂN
ĐỌAN HAI:
BẠO LỰC VÀ LÝ LẼ.
I.
HTML
đã sai.
-
HTML
có mục đích thiện, vì muốn “chống
bóc lột” để giải phóng loài người khỏi bất công xã hội.
-
Tuy
nhiên luận điểm “chống bóc lột” là không đúng, nên từ “mục đích thiện” đã vô tình trở thành “mục đích ác”, vì hại dân - Một học thuyết “vừa sai vừa ác” chắc chắn
không hợp lòng dân, chỉ hợp với những ai muốn lợi dụng nó ...
-
Vì
không hợp lòng dân nên HTML, phải dùng BẠO
LỰC (ác) để áp đặt.
-
Suy
ra, HTML “vừa ác về mục đích, vừa ác về phương thức thực
hiện”.
·
Nên
HTML đi đến đâu nỗi tiếng là gieo sự sợ hãi cho nhân dân nơi đó, khi tỏ thái độ
bất đồng.
-
Kết
luận: “HTML là một sai lầm”. –
o
Nó
chỉ đúng phần “ước muốn thiện của tác giả”, và đúng phần “ước muốn thiện của những người đầu tiên vận dụng
HTML’ (vì lầm tưởng nó đúng), và nó đúng
phần một số ‘phương pháp luận biện chứng khoa học’.
o
Còn
lại HTML đều sai và ác.
Vì
thực tế những sai lầm của nó đã rõ. Nhưng người ta lấy lý do này lý do khác, để
kéo dài thời gian sử dụng HTML, về nội dung hay chỉ mượn cái danh hình thức của
nó.
-
BẠO
LỰC trong HTML, được dùng trước hết để cướp chính quyền tư bản.
Sau
khi có chính quyền, HTML tiếp tục dùng BẠO LỰC để xây dựng “Xã Hội Mới” (dự kiến
“không còn người bóc lột người”),
o
Bạo lực, vì Tự Vệ trước
bạo lực, là cần thiết khi chưa tìm ra khả năng nào khác.
§
Ví
dụ: cướp chính quyền, vì nó đã đàn áp nhân dân.
o
Bạo lực, nhằm Áp Đặt ‘ý chí thiểu số’ lên ‘ý chí toàn
dân’, là Sai.
§
Ví
dụ: chính quyền dùng bạo lực áp đặt nhân dân, phải chấp nhận HTML vô điều
kiện (thay vì phải ý kiến, trưng cầu dân ý …).
*
Lý do không được dùng BẠO LỰC với xã hội, là vì ý chí của nhân dân là chân
lý.
Mà
chân lý là tuyệt đối, nó trên mọi
giá trị, kể cả BẠO LỰC.
*
Chân lý (lẽ phải) có thể lạc hậu, chân lý (lẽ phải) mới sẽ thay thế.
Chân
lý mới thay thế chân lý cũ, bằng đối
thoại và chứng minh, trong sự bình đẳng và tôn trọng giữa người với người, trên
cơ sở chân lý gốc làm chuẩn.
*
Khi xã hội càng văn minh, con người càng cần ưu tiên dùng TRAU ĐỔI LÝ LẼ để giải
quyết mâu thuẩn xã hội, thay cho quyền lực,
với điều kiện xã hội có đủ lý lẽ
(chân lý).
Nếu
không đủ lý lẽ, thì các bên quan điểm
có thể chọn giải pháp “biểu quyết” lấy đa số (trưng cầu dân ý) để chọn ra kết
luận hên xui, … và chờ thời gian để thực
tế cho câu trả lời khách quan cuối cùng. Trong khi đó, xã hội phải tiếp tục
nghiên cứu nâng cấp nhận thức để lý lẽ trở nên đầy đủ.
*
Kết luận, dù với lý do gì, các vấn đề chung xã hội đều có thể giải quyết bằng
con đường của lý lẽ hay bằng các giải
pháp PHI BẠO LỰC. Trong đó quyền kết luận của toàn dân, ngày càng nỗi lên
như một quyền lực tối thượng.
** TRƯỜNG
HỢP ĐẶC BIỆT.
II.
Trường
hợp đặc biệt.
Sau
khi giành chính quyền, những người “TÍCH CỰC” cho rằng, nếu để quyền lực xã hội rơi vào những phe phái “KHÔNG
TÍCH CỰC”, là điều không lợi cho xã hôi. - Vì kinh nghiệm thực tế cho thấy, sự
“đúng-sai, tốt -xấu” có thể bị lẫn lộn và trở thành lạm dụng trong xã hội tư bản.
Nên
tốt nhất, khi thờ cơ đến phe phái “TÍCH CỰC” quyết dùng BẠO LỰC, để duy trì ưu
thế chính trị xã hội của mình, trong khi chờ đủ lý lẽ - (… vì tin rằng sau thời gian vận dụng HTML sẽ trở nên đủ
lý lẽ – có sức thuyết phục).
Một
quyết định tạm thời HỢP LÝ.
Tuy
nhiên sau thời gian phát triển, xã hội vẫn chưa tìm ra LÝ LẼ để thay thế BẠO LỰC.
Thế là BẠO LỰC từ dùng tạm (vài năm),
nay chuyển sang dùng lâu dài và vĩnh viễn.
Vậy
là vấn đề đã trở nên khác, nó đã thành VÔ LÝ không chấp nhận được.
Vì
BẠO LỰC kéo dài để duy trì “độc tôn quyền lực”, thì cũng là lúc phe phái
“TÍCH CỰC” sẽ bị thoái hoá thành phe phái “TIÊU CỰC”, do qui luật “thoái hoá
nhân cách” phát huy tác dụng. – hệ quả của sự thiếu hụt LÝ LẼ, dẫn đường sự sống
(và nhân cách đạo đức).
Qui
luật đó là, khi lý lẽ sinh tồn thiếu, bản
chất con người sẽ không có điểm tựa phát triển, nên buộc nó phải thoái hoá mỗi
khi đối diện trước “quyền và tiền”
quá lớn, đã kích thích mạnh lòng thàm hưởng thụ của con người, bất kể các giá
trị nhân cách đạo đức đã tích luỹ lâu năm.
Nó
là bản chất tự nhiên của con người trước tác động hoàn cảnh, nhưng thiếu một cơ
chế giám sát hợp lý hiệu quả đi kèm. Vì vậy mà trong xã hội tư bản có “tam quyền
phân lập”, v.v…
– Lưu ý, “tam quyền phân lập, đa đảng, v.v…”
tuy rất hữu ích cho xã hội, nhưng nó vẫn chưa phải là cứu cánh của thời đại. Chỉ
có LÝ LẼ (chân lý) mới là cứu cánh duy nhất của thời đại. –
Vì
lý do trên mà phe phá “TÍCH CỰC” ngày nào, nay đã trở thành bình thường (không
còn ưu việt) như mọi phe phái khác. Hoặc nó thấp hơn so với các phe phái “TÍCH
CỰC mới”, do được sản sinh ra từ
hoàn cảnh mới của xã hội sau một chu kỳ phát triển.
Vì
vậy, đã đến lúc phe phái “TÍCH CỰC cũ” phải trao trả lại “quyền lực” cho xã hội, như bình thường
tư nhiên nó vốn có. Tức là quyền đa đảng, tam quyền phân lập, tự do ngôn luận,
tự do thông tin, tự do kinh doanh, quyền tư hữu, nhân quyền, v.v…, mà HTML từ
lâu nay đã tước đoạt của nhân dân và xã hội.
Từ
sự trao trả này, phe phái “TÍCH CỰC mới”
sẽ có cơ hội lên thay thế, với hình thức tổ chức xã hội mới, nơi đó quyền lực
nhân dân chiếm vị trí tuyệt đối.
III.
Sự
lạm dụng.
Thực
tế cho thấy,
phe
phái “TÍCH CỰC” sau khi thành “TIÊU CỰC”, đến phiên nó, cũng có đầy đủ các đặc
tính tiêu cực có hại cho nhân dân và xã hội, - mà họ đã một thời muốn chống
khi còn là “TÍCH CỰC”.
Giờ
đây đến phiên họ, nhân danh “TIÊU CỰC”, sẵn sàng phạm mọi tội lỗi và tội ác với
nhân dân, chỉ để bảo vệ “quyền và lợi”
mà họ đã chiếm giữ bởi cơ chế … truyền ngôi của HTML.
Đây
là điều xảy ra ngoài dự đoán của các nhà cách mạng tiên phong. – Trước là “vì
dân mà đấu tranh”, nay “vì lợi quyền, mà hại dân”.
Vì
những nhà cách mạng tiên phong không hiểu rằng, mỗi lần chuyển giao quyền lực, là mỗi lần phẩm chất “TÍCH CỰC”
của phe phái, giảm đi một trị số. Vì hoàn cảnh đào tạo con người
đã thay đổi.
Cha
mẹ nào cũng thương con, “tiền bối” nào muốn mất “hậu bối” … , nên dùng uy tín
“TÍCH CỰC” bao che cho “TIÊU CỰC”, - chấp nhận mang tội đồng loã, đồng phạm, để
chứng minh tình nghĩa chí cốt.
Hậu
quả là xã hội bị hoả mù, mất phương hướng lượng giá tình hình chính trị xã hội.
Người
ta mến ông “TÍCH CỰC”, nhưng ghét ông “TIÊU CỰC”.
Muốn
đánh ông “TIÊU CỰC”, thì ông “TÍCH CỰC” … đã rên la. Vậy là chùng tay. “TIÊU CỰC”
có cơ hội ngày càng nặng hơn, sẽ đến lúc bít đường phát triển xã hội.
Do
tình người đặt không đúng chỗ, phần khác do Lý Lẽ thiếu, mà con người thành
phân vân không rõ đường ra quyết định cho đúng đắn.
IV.
Lối
thoát.
Con
đường phát triển xã hội bị kém dần, mọi người ai cũng mệt mõi.
Hoá
ra xã hội càng hiện đại càng phức tạp, sự sống càng khó hiểu phức tạp khó lý giải.
Cùng là con người, ai cũng biết nói tốt nói hay nói thiện, nhưng khi làm thì “mạnh
hiếp yếu, quan hiếp dân” không một chút tình người, không cần lý lẽ phải trái.
Người
thời đại văn minh như không khác gì thời tiền sử, cũng hung tợn
hà hiếp nhau v.v... Nhưng cái ác thời nay khác thời xưa, vì nó
gian hơn, mưu mẹo hơn, nguy hiểm hơn, v.v... nên con người khó phân biệt hương.
Mệt
mõi … nhưng quay lại tư bản thì bị chê, tiến lên cộng sản thì không có đường.
Vậy
thì chính quyền nên chọn đối thoại với nhân dân, để “…, khó vạn lần
dân liệu cũng xong”.
Trong
đối thoại trên, HTNT sẽ giới thiệu về “LÝ LẼ”, khi thấy đã đủ thì xã hội chọn, để con đường tiến lên được hợp tình hợp lý.
Vì
cái thiếu chính của xã hội và thời đại là vấn đề LÝ LẼ, để thay thế “BẠO LỰC”.
HTNT
ngược lại với HTML. Cái gì bên kia cấm thì bên này cho phép khuyến khích. Cái
gì bên kia mở nếu có lợi cho nhân dân, thì càng tạo điều kiện mở rộng hơn.
HTML
sợ nhất là công khai minh bạch, và đối thoại với nhân dân. HTNT xem đây là
những điều kiện phát triển xã hội tốt nhất.
HTNT
xem chân lý là tự nhiên sẵn có, vấn
đề là mọi người cùng biết cùng khai thác. Không có việc gì phải độc quyền giữa
ai với ai, tất cả cùng minh bạch để tất cả cùng thuận lợi trong kiểm tra nhau.
Để
có chân lý chỉ cần mọi người mở rộng quan hệ bình đẳng, thì chân lý tự nhiên sẽ
đúc kết thành – bên cạnh “chất xúc tác” của HTNT.
Bí quyết của HTNT là tạo chất xúc tác, giúp mọi quan điểm khác
nhau thông qua “LUẬN PHÁP”, tìm thấy con đường minh chứng hợp nhất, chấm dứt
chuỗi dài mâu thuẩn đối kháng bạo lực của lịch sử loài người.
Tất
yếu sự sống không đơn giản. Nó cần sự hợp tác của mọi người thì mới tìm ra hướng
đi tối ưu. – Có đường mà (vì nhiều lý do) xe không muốn chạy, không muốn hợp
tác, thì đường dù có rộng có tốt cũng thành vô nghĩa./.
Ngày
11.7.2012
HVS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét