Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

3 - MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN  
(Chú thích: - ‘Lương tâm A1‘ hay ‘tâm A1’, nôm na là “lương tâm đã học thuyết hoá”. Với ý nghĩa, từ đây đủ để lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn loài người, một cách khách quan và khoa học. – Vì A1 là khởi nguồn của chân lý, là trung tâm cuối cùng điều hành sự sống, là QLTN của xã hội loài người.) 





A  
           MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN




PHẦN I :  CHỦ NGHĨA DIỄN ĐÀN

           “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
           “Không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc”.

Độc lập tự do cho đất nước và cho từng người dân, là mục đích cuối cùng của chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Một đất nước đã có độc lập tự do, mà quyền tự do độc lập của mỗi cá nhân chưa đầy đủ, như thế con đường cách mạng vẫn còn dang dở.
Hơn nữa, có độc lập tự do mà chưa đạt ‘hạnh phúc’. thì sự sống còn nhiều vấn đề phải tranh luận.
Trong một tập thể, ngay cả nếu mọi người đếu sống hạnh phúc chỉ một người không, thì chưa gọi là ổn vì mức an toàn chưa cao. Huống chi trong một tập thể ngày nay, số người đạt hạnh phúc như ý còn rất hạn hẹp. 

“Độc lập Tự do” và “hạnh phúc” tuy là hai mục tiêu nhưng trong thực tế nó phải là một, thì sự sống mới ý nghĩa.
Nhưng trong đấu tranh sinh tồn, hai mục tiêu trên nhiều lúc đã tách rời nhau. Trong đó mục tiêu “độc lập tự do” cụ thể dễ hiểu nên con người phấn đấu đạt trước hơn. Kế mới phát hiện mục tiêu “hạnh phúc”, là một tiêu chí lớn khác của cuộc sống, đặc biệt nó khó hơn nhiều so với tiêu chí “độc lập tự do”.
Chặng phấn đấu hoàn thành tiêu chí đầu vô cùng gian khổ. Đến tiêu chí sau nhìn qua tưởng dễ, nhưng kỳ thức nó vô cùng khó khăn và phức tạp theo kiểu khác. Bởi nó như vô hình không đích đến cụ thể.
Ví như trong cuộc sống, nếu chủ quan con người rất dễ ngộ nhận giữa hạnh phúc thậthạnh phúc giả

Đa số con người thời đại rất thích chọn tiêu chí hạnh phúc giả làm hạnh phúc thật.
Hạnh phúc giả là chỉ chú trọng phấn đấu vì ‘hạnh phúc cá nhân (gia đình)’, không quan tâm đến ‘hạnh phúc chung cộng đồng xã hội’.

-         - - -
        Đành rằng giai đoạn đầu khó khăn, phải quyết tâm phấn đấu vì sự sống còn của cá nhân (gia đình) là không sai. Nhưng khi đã thành công, tài sản đã có của dư của thừa, quyền lực thâu tóm đã thành độc quyền vô hạn …, mà không sang sẻ hợp lý với mọi người với nhân dân, Là điều phi lý, phi tự nhiên, phi đạo đức.
-         Một bên có tất cả sự đầy đủ đến thừa mứa, một bên thiếu trầm trọng những vấn đề thiết yếu, … đó là điều bất an muôn thuở của sự sống.
-         Vậy đâu là nguyên lý liên thông vĩnh viễn cho vấn đề…
-         - - -

Như thế gọi là chọn nhầm hạnh phúc giả, vì nó phiến diện.
Đặc điểm nó là không bền, không toàn diện, không thể phát triển chiều sâu, trái tự nhiên. Hậu quả … mức sống tinh thần kém phát triển, trí tuệ bị sói mòn, nhân cách suy giảm, mâu thuẩn quan hệ đạo đức với mọi người ngày càng bị khoét sâu, tâm bất an, tuổi già buồn khổ, mất hạnh phúc, mất phương hướng, v.v…
Đặc trưng của hạnh phúc giả, là thói quen đề cao mục đích hưởng thụ vật chất, thói quen sở thích sở hữu tiền vô hạn, và thói quen sai mê quyền lực tuyệt đối nếu có cơ hội.
HTNT gọi hạnh phúc giả là “sống vì hạnh phúc vật chất đơn thuần”, bỏ qua “hạnh phúc tinh thần” là điều kiện thiết yếu để ‘KIẾN TẠO HẠNH PHÚC THĂNG HOA, PHÁT TRIỂN TÂM HỒN NHÂN CÁCH TOÀN DIỆN’.
Vì thế cá nhân chọn sai như trên sẽ gây thiệt thòi, và nguy hiểm cho bản thân, gia đình, và cộng đồng (xã hội). Nếu kéo dài sai lầm, cá nhân sẽ thành … ác, phi nhân cách, rất khó khắc phục.

Quá trình chuyển đổi từ chọn hạnh phúc giả sang hạnh phúc thật, là vô cùng khó khăn. Suy ra “hạnh phúc” là một khái niệm lúc đầu tưởng dễ, nhưng khi xã hội tiến lên văn minh vật chất (số lượng tài sản cá nhân chiếm hữu có thể lớn vô hạn), thì vấn đề tự nhiên trở thành phức tạp khôn lường, ngoài sức tưởng tượng của cuộc sống đời thường.
Khi thời thế thay đổi, tư duy ý thức và hành động vẫn không thay đổi, thì chức vụ càng lớn càng mang trọng tội … với tự nhiên, với sự sống, với loài người, với nhân dân, với xã hội, với cá nhân, và với lương tâm. – Nhưng nhiều người không biết, không ý thức đúng vấn đề.
Vì lẽ đó, cần có một công trình nghiên cứu để hoá giải hợp lý, cái không thay đổi thành … chấp nhận thay đổi kịp thời vì sự sống … đời người ngắn ngũi. 

Nghiên cứu rằng …

Tự do,
Trước hết là sự tự do về cơ thể (mang tính vật chất, như cơm ăn áo mặc gạo tiền … ).
Sau là sự tự do về trí tuệ (mang tính tinh thần, như tự do tìm hiểu, tranh luận, chọn mục đích sống, v.v…).
Lòai người sống có hạnh phúc hay không, tùy thuộc chủ yếu vào hai phạm trù tự do cơ bản trên. Mỗi người đã ý thức về nó như thế nào, và thực hiện ra sao trong cuộc sống.
Phạm trù tự do vật chất, đến nay tạm xem như thế giới đã cơ bản thành công. Còn lại phạm trù tự do tinh thần, loài người đang chưa thật sự thành công còn nhiều vấn nạn phải giải quyết.
Nhiệm vụ thời đại là làm sao giải toả vấn nạn trên, trả lại nó cánh cửa tự do, như đã mong đợi từ bao thời gian qua.

Khi xã hội phát triển thì, “không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc” là một đòi hỏi tất yếu của sự sống, của từng cá nhân mỗi người. – ‘Hạnh phúc’ là đồng nghĩa với hai phạm trù tự do trên được thỏa.
Khi xã hội phát triển người ta nhận ra rằng, ‘tự do về trí tuệ’ là tiêu chí phát triển tối thượng của sự sống, là đỉnh cao phát triển của nhân cách. Trong đó ‘kỹ năng quan hệ’ mang một ý nghĩa đặc biệt, vì nó là linh hồn của sự sống, là tiêu chí tạo nên giá trị và ý nghĩa của hạnh phúc.
Sự sống mà thiếu ‘kỹ năng quan hệ’, như xe chạy thiếu chất bôi trơn.

Lịch sử lòai người tuy đã trải qua nhiều ngàn năm đau khổ và hạnh phúc, nhưng vẫn chưa thể rút ra bài học kinh nghiệm hoàn chỉnh.
Nhưng có một kinh nghiệm không khó để rút ra, đó là hạnh phúc không nên ích kỹ, chỉ dành riêng cho một thiểu số người. Nó cần được nhơn rộng ra cho mọi người cùng hưởng, thì hạnh phúc của từng cá nhân mới thật sự giá trị và mang ý nghĩa trọn vẹn.
Hạnh phúc có thể định nghĩa theo cảm nhận riêng của từng người, nhưng sự thật nó cũng từ công thức cơ bản chung mà ra.
Đi tìm hạnh phúc cho mọi người đến mỗi người, là đi tìm lời giải cho công thức hạnh phúc cơ bản trên – (thoả hai phạm trù tự do cơ bản).
Đi tìm lời giải, thực chất là đi tìm lý do vì sao ‘quyền sống hạnh phúc’ của con người từ lâu không thể phát triển đến đích. Cái gì hay nguyên nhân nào đã cản trở nó ? phải chăng đích đến có thể không quá khó, nhưng khó là do loài người tự gây khó cho nhau.
Biết rằng nếu tìm ra nguyên nhân cản trở ấy, cũng là lúc con người tìm ra ‘CHÂN LÝ SỐNG’.
Có thể nó không quá khó để hiểu, để vận dụng, nhưng nó LÀ chìa khoá quyết định để sự sống THẾ GIAN mở được “CÁNH CỬA TỰ NHIÊN”.


I.                  THỜI ĐẠI.

Loài người đã có nhiều ngàn năm sống trong lạc hậu và chậm tiến. Song chỉ với vài thế kỷ gần đây, nhờ có các phát minh khoa học mà loài người đã phát triển đột biến về mức sống.
Sang đầu thế kỷ 21, sự trổi dậy trên càng tiếp tục được phát huy. Những phát minh mới không ngừng ra đời càng làm sâu sắc hơn chất lượng phát triển của thời đại.
Song bên cạnh những thành quả phi thường trên, là những hiện tượng tiêu cực của xã hội loài người. Nó cũng biết gây nên nhiều “ấn tượng” không kém.
Có vẻ như văn minh loài người tiến bộ đến đâu, thì lực lượng tiêu cực cũng tích cực bám gót đồng hành ngang tầm đến đó.  Một nghịch lý đã và đang thách thức không nhỏ cho sự an nguy của thời đại.

Đây có phải là lý do chính đã cản trở tiến trình đi tìm hạnh phúc của loài người chăng.
Nhìn vào những tiêu cực biểu hiện ngoài xã hội, người ta không khó để nhận thấy nguyên nhân thuộc về vấn đề ‘đạo đức xã hội’, ‘đạo đức con người’. Nơi đấy cái ác đang thách thức cái thiện.
Ý thức được vấn đề, người ta đã cố gắng bằng nhiều biện pháp, bằng nhiều phương thức để khắc phục vấn đề.
Từ giáo dục đến luật pháp, đến tôn giáo, các tổ chức đoàn thể, thông tin tuyên truyền, giải trí, âm nhạc v.v… đã vào cuộc, với niềm tin chiến thắng.
Thế nhưng kết quả lúc này lúc khác, cái ác vẫn biết cách quay về con đường cũ của riêng nó, tiếp tục là một thế lực hùng mạnh của thời đại.
Từ thực tế trên có thể rút ra kết luận, những biện pháp đối đầu truyền thống đã không thành công như mong đợi.
Vấn đề là phải đi tìm “một chân lý mới , một lý thuyết mới, nhằm thay thế các “toa thuốc” đã lờn.

“Chân lý mới” ấy phải chăng đang thuộc về ‘tâm A1’.
Tức là vấn đề đã đến lúc, bài toán về ‘bản chất con người’ được đặt ra.,
Sự nghiệp đấu tranh chống cái ác, xây dựng cái thiện, sẽ mãi không thể thành công nếu chỉ bằng những lý lẽ trên không trung. Tức là nó thiếu cơ sở khoa học, thiếu cơ sở bám chặt vào thực tiễn chân lý.
Lòng nhiệt tính, những hô hào bằng lời nói và hành động, sự quyết tâm, v.v… không đủ để đưa cái thiện đến đích chiến thắng.
Nó phải có cơ sở nghiên cứu cụ thể, mà qua đây con người có thể kết luận xác đáng, cái thiện có thể thành công hay mãi mãi thất bại, hoặc thoả hiệp cùng tồn tại song hành.
Tuy nhiên niềm hy vọng lớn nhất, vẫn là cái thiện sẽ toàn thắng, cái ác sẽ vĩnh viện bị chôn vùi vào lịch sử.
Và loài người nhiều hy vọng sẽ được sống trong một thế giới của nhiều mộng mơ … nơi thiên đường hạ giới.


II.                VĂN MINH ĐẠO ĐỨC

Làm người,
“Cần có niềm tin quy luật tự nhiên, niềm tin chân lý, niềm tin lương tâm, v.v…
Cần có tính trung thực, khách quan, dũng cảm, tự trọng, tích cực học tập, vượt khó, kiên nhẫn, ý chí, v.v…
Cần có khả năng hoàn thành công việc, trách nhiệm, ý thức sáng tạo, kỹ năng tranh luận, nghiên cứu, chấp nhận dấn thân, v.v….”

Trên đây là những phẩm chất không thể thiếu của mô hình ‘đạo đức mới’, được đề xuất.
Hay ta gọi nó là “Văn Minh Đạo Đức” (VMĐĐ).
VMĐĐ không mới không lạ, chỉ khác là, nó tập hợp lại thành một danh sách về tiêu chí phấn đấu, nhằm đòi hỏi  cá nhân phải hoàn thành.
Các tiêu chí trên như tấm thẻ căn cước để cá nhân bước vào một thế giới văn minh kiểu mới, với mức sống nhiều tốt đẹp hơn hạnh phúc hơn.

“Đạo đức” là một khái niệm đã hình thành từ rất xưa. Và chắc chắn theo thời gian nó đã được chỉnh sửa rất nhiều khi sự sống cảm thấy không còn phù hợp.
Thời nào đạo đức cũng dạy con người những điều hay lẽ phải, để sự sống đạt thành công nhất.
Nhưng thực tế, ở đâu, ở thời nào, cũng có những con người, họ rất biết cách làm ngược lại những gì các lẽ phải của các chuẩn mực đạo đức trên qui định.
Điều này chứng tỏ khái niệm ‘đạo đức’ không phải lúc nào cũng “linh” trong cuộc sống.

Do vậy vấn đề bài toán ‘đạo đức’ rất đáng được con người nghiên cứu lại từ gốc.
‘Đạo đức’ là gì ?

Muốn hiểu ‘đạo đức’, trước hết chúng ta phải hiểu, con người là ai, là cái gì?
Bản chất con người là sao, sự sống thế nào, v.v…?
Và đâu là mối liên quan giữa đạo đức và bản chất con ngượi ?
Phải chăng nếu đạo đức mà ngược với bản chất con người, thì sự cấm đóan dù nghiêm khắc hay chặt chẽ đến đâu, cuối cùng cũng thành vô ích phí công.
Và đấy có thể là cái giá phải trả mà loài người từ lâu đã phải thường xuyên nếm mùi …

Mục đích cao nhất của đạo đức dù là gì ?
Có lẽ cao nhất dưới góc độ khoa học và thực tế cuộc sống, là được “sống hạnh phúc trọn đời”.
Từ quan điểm này chúng ta quan sát các quan điểm đạo đức xưa nay ra sao. Nó có đúng như vậy không.

Xưa nay đạo đức được dựng lên thường chủ yếu nhằm phục vụ cho nhu cầu ổn định cuộc sống trước mắt.
Ví dụ: đừng tranh giành, mà hãy chia nhau cho công bằng.
Mục đích xa hơn nữa của đạo đức, là nhằm phục vụ lợi ích của một đối tượng, một giới nào đó ... đang có quyền lực hơn.
Ví dụ: vua, kẻ mạnh, giai cấp quyền lực, giàu có, người lớn, hay vì một niềm tin cao xa, v.v… .
Các mục đích đạo đức như trên rõ ràng không lợi cho mọi người nói chung, theo nghĩa hạnh phúc cụ thẻ cho mọi người, mà chỉ có lợi cho một thiểu số người. Vì thế tính chấp hành đối với số đông không cao, đồng thời đòi hỏi phải thường xuyên có sự răn đe bắt buộc bằng bạo lực (trực tiếp hoặc gián tiếp – con người đi tu khi ngoài đời quá khổ).

Nếu có một ngày, mọi người được trao quyền tự do xây dựng mô hình đạo đức theo ý mình thích, thì chắc chắn nó sẽ khác rất nhiều so với các mô hình đạo đức đang có, đang áp đặt.
Ta gọi mô hình giả định trên là “VĂN MINH ĐẠO ĐỨC” (VMĐĐ).

VMĐĐ là kiểu đạo đức “tất cả vì lợi ích HẠNH PHÚC của người dân là trên hết”.
Nếu thực tế được hình thành, có thể hình thù của nó sẽ như sau:
- đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, ai cũng thích, ai cũng muốn thực hiện nó nghiêm túc. Vì thấy có lợi cho cuộc sống, từ lợi ích vật chất đến lợi ích tinh thần, từ lợi ích trước mắt đến lợi ích lâu dài, từ lợi ích cá nhân đến lợi ích  mọi người, v.v…
- đây là kiểu đạo đức ‘hợp tự nhiên’, vì mọi người là đồng tác giả.
- đây là loại đạo đức không cần đến quyền lực chủ quan để răn đe, mà dùng lẽ phải – chân lý (LPCL) để lý giải thành công mọi sai lầm.
Để biến mô hình đạo đức trên trở thành hiện thực, điều kiện tiên quyết là con người “phải muốn sống tốt, sống tích cực, sống hạnh phúc cho bản thân và cho mọi người”.
Mà điều này, may thay đã có sẵn trong tâm A1 của mọi người.
Tuy nhiên có cái khó là, về nhận thức tâm A1 ai cũng có thể có, nhưng để sống và hành động theo nó thì … đa số mọi người thích chọn theo tâm A2  hơn.
Vì thế sự sống cần có thời gian, để con người (xã hội) chuyển từ thói quen của tâm A2  sang tâm A1. – Một sự  chuyển đổi sang “cách sống mới” như tên gọi của tác phẩm đầu …
Vì yêu cầu của sự chuyển đổi trên mà “HỌC THUYẾT NHÂN TÂM” (HTNT) được đề xuất hình thành, nhằm tạo nhịp cầu lý giải thông suốt trong tư duy con người.

Vấn đề cho thấy sự nan giải của thế giới loài người, nằm ở ‘Thói Quen Nhận Thức’ và ‘Thói Quen Hành Động’, cả hai không trùng nhau.
Hay con người (cá nhân) có thói quen, phản bội lại con người (nội tâm, thuộc bản chất cơ bản) của chính mình.
Suy rộng ra ‘chính quyền’ có thể phản bội với ‘nhân dân’, cũng chỉ vì việc ‘tu thân’ như trên chưa xong, thì lấy đâu ra cơ sở ‘bình thiên hạ’.
Lý do vì sao như trên, chúng ta đã được chứng minh trong hai tác phẩm “Cách Sống Mới” và “Ý Thức”.
Nó cho thấy thực chất con người thời đại chưa làm chủ được ‘ý chí’, khi tâm A2 còn ẩn danh và được tự do tung hoành điều hành sự sống. Trong khi bản chất sự sống đòi hỏi phải thuộc về tâm A1 , nhưng lại đang bị giam cầm, bỏ quên, hay bị ruồng rẫy.

 (Chú thích:
-         ‘ý chí’ ở đây không thuộc về cái ăn, cái mặc, v.v…,
-         mà thuộc về ‘ý chí’ quý trọng ‘giá trị con người’ so với ‘giá trị vật chất’.
-         Hoặc giả nếu đã biết quý trọng …, nhưng còn trong phạm vi hẹp, chưa toàn diện, nhận thức hiện tượng chưa đủ sâu, v.v…, nên chưa nhận thức được bản chất và qui luật tiến hoá … đây không gọi “phản bội” mà là “lực bất tòng tâm” giữa ‘ý chí’ và ‘thực tế phức tạp’.)

Con người là một nghịch lý nội tại. Các tôn giáo đã công nhận điều này, sự sống cũng đã chứng minh điều này. Và khoa học (HTNT) cũng công nhận sự thật này.
Vì vậy nó là chìa khoá quyết định để “MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN” của sự sống.
Chỉ khi mở xong cánh cửa này, thì con đường ‘hoà bình hạnh phúc vĩnh cữu’ của thế giới loài người mới thật sự rộng mở. (HTNT)

Nói cách khác để xây dựng ‘VMĐĐ’ thành công, con người cần có thời gian làm quen với chính mình, phần nội tâm tích cực đang tiềm ẩn, và học cách khai thác nó hiệu quả nhất.
Đời sống văn minh vật chất đã che khuất bản chất thật của sự sống. Nó đã làm trí tuệ con người mất phương hướng, để cuối cùng quay sang đổ thừa nguyên nhân cho nhau, ganh ghét nhau, dùng bạo lực tiêu diệt nhau, nhằm giành giựt quyền lợi với nhau, quan hệ gian dối bất chính với nhau, v.v… vì tin tưởng con đường hạnh phúc là như vậy.
Ai cũng biết thói quen của sai lầm và của lòng tham, có thể làm mờ mắt lý trí.
Sự sai lầm có thể không xảy ra ngay để con người nhận biết, mà xảy ra âm thầm nhẹ nhàng hàng ngày trong quan điểm sống. Chỉ khi đến một lúc bế tắc xảy ra phạm vi cá nhân, chính quyền, xã hội, và thế giới, thì điều tra ra mới thấy trách nhiệm thuộc về mọi người, từng cá nhân một, không riêng gì một cá nhân cụ thể nào.
Muốn xoá bỏ nguyên nhân đến tận gốc ư, chính là mọi người cùng chịu trách nhiệm thay đổi con đường sống, quan điểm sống, từ nhận thức đến hành động sinh hoạt đến nội tâm của mình.
Có người e sợ nó sẽ quá khó.
Nó không khó chỉ cần hiểu chuyện gì đã và đang xảy ra đối với sự sống, là đã bắt đầu có sự thay đổi.
Qui luật tiến hoá của não sẽ dần giúp con người tiến bộ nhanh theo thời gian.
Và sự sống mới cứ thế tiến lên, dựa trên vốn sống tích cực đã phát triển đến đâu.

Quá trình chuyển đổi trên là cơ sở cho sự hình thành mô hình VMĐĐ của thời đại.
VMĐĐ còn gọi là con đường “tu tâm” theo trường phái khoa học. Nó sẽ nhanh đem lại kết quả hơn nếu so với các trường phái khác … 


III.            BẢN CHẤT SỰ SỐNG

“Nhân chi sơ tính bổn thiện”.
Làm người ai cũng muốn sống đời hạnh phúc.
Hạnh phúc là thiện, 
Suy ra con người có bản chất ‘sống thiện và hạnh phúc suốt đời’.

Tuy nhiên, lịch sử loài người đã bị thất bại thảm hại chỉ vì chữ “thiện”.
Chữ ‘thiện’ có hai nghĩa HẸP và RỘNG.
Đa số con người thích và quen dùng ‘nghĩa hẹp’, vì hợp khả năng.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải dùng ‘nghĩa rộng’ mới đúng.

‘Nghĩa hẹp’, là ‘thiện’ (tốt) cho cái TÔI là chính, còn mọi người thế nào không cần biết đến.
‘Nghĩa rộng’, là ‘thiện’ (tốt) cho cái TÔI và cho cái CHUNG (mọi người) phải luôn đi đôi một cách hợp lý.
Ví dụ: - giàu tiền, thay vì chỉ xài phung phí riêng cá nhân (nghĩa hẹp), thì nên chia sẻ hợp lý đến nhiều người còn khó khăn tiền bạc (nghĩa rộng). 

Tuy nhiên tính “thiện” còn một trở lực khác làm ‘ý chí’ khó thay đổi là ‘THÓI QUEN’.
Thói quen ‘xài tiền’ theo thời gian thành bệnh “tham tiền” và “ghiền tiền”, không cách nào chữa trị được.
Đây là cái bẫy chết người thứ hai mà lịch sử loài người thường mắc phải.

Nguyên nhân vì sự sống trước tiên cần phải ‘ham tiền’ thì mới có sống. Mà ham tiền lâu dần thành bệnh.
Nguyên nhân bệnh đơn giản chỉ có vậy, nhưng rất nhiều người mắc phải và không thuốc gì chữa khỏi.
Hậu quả là cá nhân thành khổ vì nhân cách suy giảm, cảm giác hạnh phúc tâm hồn bị tan biến, mọi người ganh ghét xa lánh, v.v…

Cách chữa khỏi,
Là chọn sống “thiện theo nghĩa rộng”. Sau thời gian nó sẽ thành thói quen, thành “bệnh ghiền” ‘muốn sống tốt với mọi người’.
Căn bệnh này giúp cá nhân làm giàu về vật chất và tinh thần, rất có lợi cho sự sống. Nên không gọi nó là bệnh nữa mà là chất liệu làm nên “con người mới, nhân cách mới”.

Vấn đề được diễn giải như sau:
+ Thiện (hẹp) = ‘ham tiền’
                    thiện (hẹp) + thiện (hẹp)             =   tính ác    (vì con người tranh giành nhau quyền lợi)
                    hạnh phúc (ác) + hạnh phúc (ác)   =  đau khổ   (‘hạnh phúc của tính ác’ sẽ cho ‘đau khổ’)
+ Thiện (rộng) = ‘ham tiền hợp lý’
                    Thiện (rộng) + thiện (rộng)          =  tính thiện  (ý thức san sẻ quyền lợi, sinh tình người) 
                    hạnh phúc (thiện) + hạnh phúc (thiện)   =  hạnh phúc (‘hạnh phúc của tính thiện’ sẽ cho ‘hạnh phúc’)

Theo HTNT,
‘Thiện nghĩa rộng’ là chân lý do tự nhiên qui định. Nó không thuộc ‘ý chí’ con người muốn hay không muốn chọn. Tuy con người không thể dùng bạo lực để áp đặt “phải sống thiện”, mà tuỳ ý thức tự giác của mỗi người sao cho không để bị phạt … bởi qui luật tự nhiên.
Nó như giữa ‘ăn sạch’ và ‘ăn bẩn’, người hiểu biết sẽ chọn ‘ăn sạch’ để hợp tự nhiên hơn.

Như thế bản chất sự sống không khó để hiểu. Nó đơn giản, vì mọi trẻ con đều có thể sống đúng với bản chất  sự sống.
Nhưng những người lớn trái lại không thể sống như thế, cho dù họ cũng xuất thân từ trẻ con lên.
Lỗi thuộc về qui luật tiến hoá.
Giai đoạn đầu của tiến hoá, trí tuệ loài người phát triển tự phát, sai phương hướng. Phương hướng sai, nhận thức sai. ‘Sai’ tích tụ lâu dần, làm nên thành phẩm ‘xã hội sai’.
Thành phẩm ‘xã hội sai’, trí tuệ thế hệ tiếp theo bị lôi kéo vào môi trường sai theo. Để cuối cùng nó xoá nhoè mọi dấu vết của cái ‘đúng’ đơn giản của bản chất sự sống cội nguồn.

Trẻ con chưa bị lôi cuốn vào vòng xoáy nhận thức sinh tồn xã hội, nên năng lực sống theo chân lý còn hiệu quả. Nhưng đến khi đủ lớn phải tham gia vào guồng máy chung xã hội, nó cũng bị biến dạng nhận thức theo môi trường đòi hỏi.
Nhận thức biến dạng, nhân cách biến dạng.
Mỗi người khi tham gia, sẽ khác nhau về mức độ biến dạng nhân cách. Nhưng nhìn chung đều có sự thay đổi theo hướng tiêu cực, mức thấp nhất là thoả hiệp cùng tồn tại. Vì nó tuỳ vào tính chất nghề nghiệp, có nhu cầu quan hệ nhiều hay ít, nếu nhiều thì nguy cơ nhân cách rơi xuống dốc sẽ cao.
Những cá nhân có điều kiện sống chủ yếu bằng nghiệp vụ chuyên môn thuần tuỳ, ít đòi hỏi mở rộng tiếp xúc, hay không đòi hỏi phải cạnh tranh quyền lợi trực tiếp để sống còn, v.v… thì khả năng gìn giữ phẩm chất trí tuệ và nhân cách thuận lợi hơn. Nhưng bù lại kinh nghiệm sống thực tế mở rộng, hay khả năng ứng phó xã hội và thời thế có thể kém.

Vì thế sự sống cần có một chuyên ngành “Khoa Học Tinh Thần” (KHTT), nhằm giúp con người sàn lọc sự sống, không để bị lạc mất phương hướng phổ thông hay chuyên sâu tâm hồn.
Những sai lầm trong cuộc sống, có thể không khó để nhận thức đa số các vấn đề cơ bản, vì nhìn trẻ con cũng có thể suy ra vấn đề. Nhưng nó thành rất khó đến ngoài khả năng nhận thức, khi những sai lầm đã trở thành một bộ phận tất yếu của cơ chế vận hành xã hội, mà từ đây sự sống chung được tạo ra.
Nó đã tạo nên một qui định bất thành văn, ai sống trong qui trình sản xuất sự sống của xã hội nào, thì đương nhiên phải chấp nhân hoà nhập hay tiếp thu mọi ưu khuyết của nó, nếu không quyền sinh tồn sẽ không đảm bảo.
Cuối cùng lực bất tòng tâm khi sự chênh lệch quá lớn giữa quyền lực cá nhân và xã hội. Thế là phải tập sống theo với các cái chung sẵn có, mà nếu để tự nhiên chưa chắc ý thức và lương tâm cho phép họ làm như thế.

Thời gian cho con người thói quen, thói quen tạo cho con người kỹ năng chai lì hay vô cảm, trước những sai lầm thường xuyên lập lại. Từ thoả hiệp chuyển sang nhu cầu đòi hỏi, như ăn phải có uống vậy. Nó khác với giai đoạn đầu ‘dị ứng’, bây giờ là ‘yêu thích’.
“Ăn và uống nhiều” trở thành tiêu chí hàng đầu, thay vì “sạch hay dơ” như trước nữa. Vì rõ ràng nó cho kết quả ‘sống’ cụ thể, còn khái niệm tương lai hay gì khác nữa … đã thành vô nghĩa, hay không còn là vấn đề.
Nhiều người tham gia vào bản ký kết không thành văn trên, là góp phần nuôi sống ông trùm soạn thảo văn bản cam kết ấy. Với ông trùm, sự sai lầm không còn là một khái niệm mơ hồ, mà đã hoá thành các ý đồ lớn chủ trương lớn. Đến đây mọi khái niệm sai hay đúng, dơ hay sạch, … chỉ có trời biết.
Nó như cơn nghiện đã nặng thuốc, thì cửa tử biết khi nào mở …
 
Khi sự sống đã trở nên to lớn và phức tạp, con người “ngẫu nhiên” tin rằng, lời giải cũng phải to lớn đồ sộ mới xứng, thì mới hiệu quả v.v… , thế là tàu bay, tàu thuỷ, súng đạn theo đó nở to ra dần.
Mà không thấy rằng, sự sống đơn giản, cũng như đáp án của nó cho mọi phức tạp.
Vấn đề có thể chỉ là … “định hướng lại mục đích sống trong suy nghĩ”.
Phải chăng tính tự ái, sự tự tôn, sức mạnh quyền lợi và quyền lực, v.v… đã cản trở con người tìm về sự đúng đắn ban đầu.

Bản chất sự sống là ‘thiện’ không ‘ác’.
Cái ác là bất thường là ngoại lai đối với phạm trù sự sống. Nhưng vì không tìm ra con đường sống đúng đắn (đến đích), nên tính ác được pht sinh để đối phó với hoàn cảnh.
Nay muốn phục hòi cái thiện, con người cần được giáo dục đúng đắn (theo nghĩa rộng, bao gồm giao tiếp, thông tin, học tập, v.v…),  có hệ thống bài bản, khách quan, khoa học đến suốt đời.
Để mọi người ai cũng nắm rõ đường đi nước bước của sự sống, từ mục đích gần đến mục đích xa. Được như vậy cái ác sẽ không còn cơ hội tái sinh trường tồn.
Trách nhiệm trên trước hết thuộc về xã hội, kế mới đến trách nhiệm của cá nhân. Vì khái niệm ‘thiện – ác’ ngày nay đã bị phức tạp hoá cao độ, nên một cá nhân (kể cả gia đình) đơn thân không thể tự hoàn thành tốt nhất cuộc sống đời của mình.
Trong khi thực tế hiện nay, cá nhân (kể cả gia đình) phải tự xoay xở tất cả, … xã hội chỉ hô hào kêu gọi, đòi hỏi, đặt chỉ tiêu … và trừng phạt.


IV.            TRÁCH NHIỆM THỜI ĐẠI

Loài người trở thành trung tâm sự sống là nhờ có ‘ý thức’ và ‘tư duy’.
‘Tư duy ý thức tích cực’ (thiện) là điều kiện để quan hệ phát triển (thiện, phi bạo lực), cũng là để đời sống tinh thần phát triển.

Nếu thế giới chỉ có vài mươi người, có lẽ bài toán tinh thần không bao giờ đặt ra.
Sự sống gồm ăn no, ngũ, chơi, ăn tiếp, v.v…
Nhưng khi loài người đông lên, cái ăn cái mặc sự ham muốn nhu cầu cạnh tranh sinh tồn, v.v… làm sự sống trở nên căng thẳng phức tạp khó hiểu dễ thất bại dễ đau khổ v.v…, khi ấy vấn đề ‘tinh thần’ trở thành bài toán cấp bách cần sớm có lời giải.
Nếu không các quan hệ sẽ càng lúc rối mù và bế tắc, cái ác (nhân cách xuống cấp) sẽ thừa cơ hội càng nguy hiểm hơn.

Khi tìm hiểu vấn đề, chũng ta thấy rằng sự sống con người không chỉ có ăn, ngủ, chơi, …, mà còn có sở thích đa dạng, tư duy đa dạng, so sánh đa dạng, … cộng chung lại thành một ‘tổng nhu cầu đa dạng’.
Trong rừng nhu cầu kia, mỗi cá nhân chọn cho mình một đối tượng làm mục đích sống.
Và để đạt mục đích sống ấy, con người cần có ‘tiền’.
Kết quả là, ‘tiền’ lúc đầu ý nghĩa của nó chỉ là phương tiện, là phụ, nhưng quá trình đi tìm nó con người ngẫu nhiên coi ‘tiền’ là MỤC ĐÍCH CHÍNH lúc nào không biết.
Đến khi ‘mục đích tiền’ đã được thoả, con người cảm thấy bất ngờ khi não chỉ xuất hiện toàn ‘cảm giác tiến’. Trong khi các mục đích chính mơ ước ngày nào, giờ đây như vô nghĩa cho dù mục đích đã đạt, vì các ‘cảm giác’ về chúng đã không còn.

Tương tự như thế, chúng ta bàn về cái gọi là “TINH THẦN tổng thể“ (TTtt), hay ”Ý THỨC tổng thể” của một cá nhân.
Gọi ‘Cá Nhân’ (CN) gồm hai phần cơ bản:
- “Vật Chất” (Cơ Thể - CT)
- “Tinh Thần” (Tâm Hồn - TH).
Hay ta viết :                         
                     Cá Nhân = Vật Chất + Tinh Thần
                            CN    =     CT    +   TH
                                    =     TTtt

(
Chú thích:
                         TINH THẦN tổng thể      =    TINH THẦN vật chất  +  TINH THẦN  tinh thần                       Kết quả cho:                           TTtt         =              TTCT              +           TTTH
Trong sự sống con người dù làm gì cuối cùng cũng tập trung về não (ý thức) xử lý, hay ‘TINH THẦN tổng thể’ xử lý.
Trong xử lý, ý thức (não) chia ra hai nội dung:
1- Quan hệ vật chất, do ‘TINH THẦN vật chất’ chịu trách nhiệm lý giải. – (Quan hệ con người với vật chất)
2 - Quan hệ tinh thần, do ‘TINH THẦN tinh thần’ chịu trách nhiệm lý giải. –(Quan hệ người với người)
-         Sau lý giải (1) cho kết quả ‘TINH THẦN Cơ Thể’ (TTCT)
-         Sau lý giải (2) cho kết quả ‘TINH THẦN Tâm Hồn’ (TTTH)

Kết luận:
-         Con người dù sống vì mục đích vật chất (tiền) hay mục đích tinh thần (quan hệ), cuối cùng đều có lợi cho ‘TINH THẦN tổng thể’.
-         Vì thế khi con người chỉ tập trung lo làm giàu ‘MỤC ĐÍCH TIỀN’ (vật chất), thì nhận thấy ‘TINH THẦN tổng thể’ có phần phát triền. nên ngộ nhận ‘TINH THẦN ĐÃ NO ĐỦ’.
-         Nhưng kỳ thực nó mới no đủ về ‘TTCT’, còn thiếu ‘TTTH’ trầm trọng. Biết rằng thiếu một trong hai giá trị tinh thần, đều gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự sống.
-         Khi mục đích ‘TTTH’ không được đáp ứng đủ, nó sẽ là NGUYÊN NHÂN GỐC tạo ‘TÍNH ÁC’ hay ‘TỘI PHẠM’ nơi con người và xã hội, cũng là nguồn gốc phát sinh của mọi bất ổn.
)


Lời bàn như sau:
+ một là, một ‘cơ thể’ (vật chất) muốn khoẻ mạnh, thì cần được chăm sóc ăn uống vệ sinh, v.v… đầy đủ.
 + hai là, một ‘tâm hồn’ (tinh thần) muốn khoẻ mạnh, thì cần được chăm sóc tư duy vệ sinh, v.v… đầy đủ.
Tư duy vệ sinh có nghĩa là tư duy trí tuệ cần được cung cấp LẼ PHẢI-CHÂN LÝ (LPCL) đầy đủ, mọi hiện tượng sự sống cần được minh chứng lô-gíc có hệ thống hợp lý toàn diện, v.v… để sự sống không còn quan hệ bằng bạo lực áp đặt, mọi sự việc đều được công khai để mọi người (xã hội) cùng tham gia trách nhiệm bàn luận và cùng giải quyết, v.v…

Chúng ta thấy rằng:
+ Để phục vụ ăn, uống, v.v… có vệ sinh, không khó với trình độ xã hội thời nay.
+ Để phục vụ tư duy có đầy đủ các LPCL, thì xã hội hiện đại chưa làm được.
Phục vụ Lẽ Phải bằng biện pháp bạo lực áp đặt (vũ khí), thì không gọi là LPCL, mà là … LẼ PHẢI KHÔNG HỢP VỆ SINH. Nó sẽ gây hậu quả “đau bụng” cho tâm hồn con người, nếu không kịp chửa trị, một là nó biến dạng con người thành ‘tội phạm’, hai là stess nặng, ba là … ‘tự vận’ do bế tắc tâm hồn.

Vì thế xã hội hiện đại cần đào tạo thêm một ‘Nghề Mới’, nghề cung cấp ‘LPCL’, tức là chỉ đường cho con người tìm đến đích hạnh phúc của cuộc đời.
Với lý do trên, “KHOA HỌC TINH THẦN” (KHTT) được đề xuất hình thành - (hay HTNT mà chúng ta đang được giới thiệu).

Đối với sự sống con người bản chất sự sống nằm ở ‘trí tuệ’ hay ‘tinh thần’,  còn ‘vật chất’ chỉ là phương tiện để chứa. Mọi sự no đủ đến thừa mứa về vật chất đều không thể thay thế sự ‘no đủ về tinh thần’.
Vì thế khi món ăn ‘tinh thần’ bị thiếu (mất vệ sinh) thì sự sinh tồn của cá nhân và xã hội đều bất ổn.
Chính quyền là từ nhân dân cử ra, nhằm chăm lo việc chung xã hội, thực chất là NHIỆM VỤ CHỈ ĐƯỜNG CHO NHÂN DÂN SỐNG HẠNH PHÚC.
Nhưng đây là một công việc quá khả năng của chính quyền, với số lượng nhỏ cá nhân.
Hậu quả là môi trường sống thất bại, từ các cá nhan đến đến từng đơn vị tổ chức xã hội.
Có nhiều người không hiểu, khi đơn vị mình (cá nhân, gia đình, quan hệ xã hội, đơn vị kinh doanh, nghệ thuật, tài năng, v.v..) bị thất bại, cho rằng nguyên nhân do nội tại.
Nhưng kỳ thực là do cơ chế tổ chức vận hành xã hội đẵ mắc sai lầm.
Tức là mô hình chính quyền hiện tại không đủ khả năng hoàn thành tốt trách nhiệm, dẫn đến mắc sai lầm dây chuyền ngay từ bản chất đường lối. Cuối cùng nó gây khó cho trước mắt và gây bế tắc trong lâu dài (một cách vô hình) cho xã hội và nhân dân.

Theo HTNT, lời giải căn bản cho sự sống không hoàn toàn thuộc về mô hình chính quyền nào, mà phụ thuộc trước hết vào sự nghiệp giáo dục NHÂN CÁCH, cụ thể là phát triển tâm A1.
Sự nghiệp giáo dục trên do chuyên ngành KHTT đảm nhận, với phương thức truyền đạt được đề xuất, là phải có hệ thống từ khi tuổi mới lớn cho đến hết đời người (hỗ trợ tinh thần).
Nếu xã hội ngày nay đã có các hệ thống tôn giáo làm nhiệm vụ định hướng phát triển nhân cách cho đại bộ phận con người xã hội, thì nay KHTT cũng noi gường như thế mà lập ra các hoạt đông tương tự. Tất cả đều vì mục đích đào tạo con người về đạo đức và nhân cách, nhưng khác nhau về phương thức chứng minh và hình thức rèn luyện học tập.
Để thực hiện mục đích trên, dưới góc độ khoa học, xã hội có thể vận dụng mô hình tổ chức “ĐẢNG” sẵn có để làm nhiệm vụ truyền đạt, ngoài hệ thống trường lớp văn hoá phổ thông.

Theo đúng nghĩa, tổ chức đảng chính là trung tâm phụ trách giáo dục về ‘KHTT’ cho toàn xã hội.
Nó có nhiệm vụ lý giải mọi hiện tượng sự sống con người và xã hội, trên cơ sở các chân lý của KHTT. Nó xây dựng và truyên đạt niềm tin cho con người, bằng các chứng minh khoa học hợp lý hợp logic. Và nó hoàn toàn không biết dùng bạo lực để áp đặt mệnh lệnh như một số đảng hiện nay.
Nếu đảng không đủ chân lý KHTT để thuyết phục nhân dân, thì đảng phải tuyên bố phá sản. Tuy nhiên điều này khó có thể xảy ra, trừ phi tạo hoá- tự nhiên không có ‘chân lý sự sống’. Mà điều này đã được chứng minh thành công trong tác phẩm “Ý THỨC”.
Nên trường hợp phá sản như trên gần như không bao giờ có. Nhất là khi đảng luôn rộng mở quan điểm nhận thức đến mọi người, để toàn dân rộng đường tham khảo và tham gia tranh luận công khai để sửa chữa điều chỉnh.
Vì thế ‘đảng’ là một tổ chức thuộc quần chúng xã hội, mà đại diện là các nhà khoa học ưu tú hàng đầu trong lĩnh vực KHTT (kỹ năng sống). Vậy là mọi người ai cũng có quyền gia xin nhập đảng, nó như một nhu cầu tự nhiên nhằm mục đích hoàn thiện bản thân và sự sống.
Nó rõ ràng không khác các hoạt động của các tôn giáo, luôn mở rộng cửa để khuyến khích mọi người cùng tham gia vào con đường tu thân, vừa lời cho mình và lợi cho xã hội. Từ người thông minh xuất chúng, địa vị xã hội thành đạt, v.v… đến những người nhận thức kém, địa vị xã hội vô danh, v.v… đều là những đối tượng xứng đáng được kết nạp vào tổ chức truyền giáo này, với tên gọi “ĐẢNG KHTT” (ĐKHTT). (xem tác phẩm “Ý THỨC”)


V.              VĂN MINH CHÍNH QUYỀN
Chính quyền là người đại diện nhân dân, quản lý xã hội (quốc gia).
Muốn làm tốt nhiệm vụ này, theo nguyên tắc, chính quyền phải đào tạo về kỹ năng nhận thức sự sống, con người, và thế nào là qui luật tự nhiên trong phát triển.
Ngược lại, nhân dân cũng cần có các kỹ năng nhận thức như trên, để mỗi khi chính quyền có làm sai thì biết đưởng mà chỉnh sửa, phê phán, hay cách chức.
Xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, khi chính quyền và nhân dân là hai người bạn đồng hành, trên con đường phấn đấu vì mục đích chung. Mỗi bên là một vị trí một trách nhiệm, tất cả cùng cố gắng thi đua hoàn thành tốt nhất phần việc của mình.

Như chúng ta đã phân tích, khi KHTT còn chưa hình thành thì sự sống tất yếu còn phức tạp, không loại trừ  trường hợp những mâu thuẩn trong quan hệ giữa chính quyền với nhân dân.
Lúc bấy giờ các lý lẽ của lẽ phải không còn giá trị sử dụng nữa, và các chính quyền (mất chất) thường lạm quyền dùng bạo lực trấn áp nhân dân, nhằm duy trì trật tự xã hội, cũng như quyền thế đang giữ …. Thay vì phải từ chức để một chính quyền khác lên thay. Như thế mới phải đạo, mới xứng danh ‘người đầy tớ trung thành của nhân dân’.
Nhưng chính quyền mới lên, cũng lại xuất hiện nguy cơ mâu thuẩn mới, v.v… Vấn đề cho thấy xã hội loài người đến nay, đang thiếu một lời giải cơ bản từ gốc về sự sống nói chung, về quan hệ giữa chính quyền với nhân dân nói riêng.

Nguyên nhân vì xã hội thiếu một cơ chế nhận thức hợp lý công minh, nên quan hệ con người bằng ngôn ngữ không đem lại hiệu quả.
Khi xảy ra mâu thuẩn giữa chính quyền với nhân dân (số đông hoặc cá nhân nhưng nhiều lần mâu thuẩn trên cùng một sự việc), thì mười phần hết mười lỗi thuộc về chính quyền.
Nguyên nhân đơn giản là do chính quyền kém.
Nguyên nhân kế là do bộ máy chính quyền thiếu cơ chế kiểm tra chéo (tam quyền phân lập).
Nguyên nhân xa là do kiến thức về sự sống còn thiếu, trên phạm vi xã hội (loài người).
Cộng chung lại là ‘chính quyền kém’. Nếu cộng thêm quyền lực trấn áp, sẽ thành “chính quyền độc tài”. Khi ấy cơ hội để nhân thay đổi chính quyền rất khó.
 
Khi chính quyền kém thì nhiều việc rất đơn giản nhưng thực tế không thực hiện được.
Ví dụ:
-         Chính quyền lấy lý do, đã có cơ chế đại diện nhân dân (quốc hội) rồi, thì không nghe ai khác. Như thế là sai. Vì nếu dân bên ngoài còn kêu, tức là còn có vấn đề. Thì bổn phận chính quyền là phải tiếp tục lắng nghe để giải quyết. Còn việc gì khác để tính sau, vì họ cũng là nhân dân. Nếu cần thì công khai vấn đề, để toàn xã hội cùng tranh luận v.v…
-         Tuy nhiên có mấy khi chính quyền làm được như trên, dù nó không khó. Đơn giản vì chính quyền hiện nay quá kém.
Tất cả chung qui là do thiếu kiến thức làm người sao cho đúng đắn phải đạo, dù người đó là ai đang ở cương vị nào trong xã hội.
Do không biết nên làm sai không biết sợ, không thấy đang gây hậu quả cho người khác. Như thế là tội ác.
Vì thế xã hội cần có “VĂN MINH CHÍNH QUYỀN” (VMCQ), để giáo dục họ biết sợ mỗi khi làm sai với nhân dân, đồng nghĩa với sẽ bị trị tội. Vì đã làm việc ác với nhân dân, tức họ là ‘kẻ ác’ (ngang tội với kẻ cướp, kẻ gian, kẻ xấu, v.v…).
Và KHTT được đề xuất là cơ sở luận, để hình thành nên mô hình “VMCQ”.

Bản chất con người sinh ra là để sống và hạnh phúc.
Đây cũng là nhiệm vụ phải hoàn thành của VMCQ.

Để hoàn thành trọng trách trên, trước mắt VMCQ (người giữ vị trí lãnh đạo cao nhất) phải có khả năng dùng lời lẽ để hướng mọi người cùng hoàn thành các công việc chung của xã hội.
Như thế VMCQ phải có kỹ năng quan hệ. Kỹ năng này sẽ giúp VMCQ dùng quyền lực chân lý để thuyết phục mọi người hành động, thay vì dùng quyền lực chủ quan để áp đặt.

Vì về nguyên tắc, nhân dân trả tiền thuê VMCQ để làm “người đầy tớ” hay “người thư ký” cho nhân dân, trong việc điều hành xã hội. Vậy nên “người thư ký” phải biết nghe lệnh dân, chứ không phải ngược lại bắt ‘DÂN’ phải nghe theo mệnh lệnh (nghị quyết …) của “người thư ký” khi có mâu thuẩn.
Biết rằng nhân dân có quyền sa thải “người thư ký” nếu trái ý dân, chứ không phải ngược lại …

Bản chất quyền lực của VMCQ là dùng để bảo vệ LPCL, tức bảo vệ quyền lợi của toàn dân. Ngoài ra không được dùng vào bất kỳ mục đích gì khác, hoặc nhân danh bất kỳ nội dung gì (chân lý gì) để chống lại nhân dân.
Lẽ phải có thể có nhiều chiều trong nhận thức, nên cần có công khai tranh luận để xã hội làm trọng tài. Không ai được quyền nhân danh lý do gì, để tự mình ‘độc quyền chân lý’ nhằm ưu tiên hưởng lợi riêng tư hay cho phe nhóm.
Người lãnh đạo cao nhất trong VMCQ, không phải là người dám bạo quyền nhất, dám xem thường dư luận nhân dân nhất v.v…, mà là người am hiểu LPCL thuộc nhóm hạng đầu xã hội. Vì thế họ luôn chủ trương và hướng dẫn mọi người hình thành thói quen cùng ‘đối thoại công khai’ trước xã hội, mỗi khi có mâu thuẩn khó giải quyết.

Trong VMCQ, người lãnh đạo phải nhận trách nhiệm giải quyết trực tiếp, khi có vấn đề thuộc cấp dưới có biểu hiện dậm chân tại chỗ.
Giải quyết không cần nghĩa hợp hành chỉ đạo, nói một chiều, lệnh một chiều, không cần biết người nghe có đồng ý hay không, có ý gì khác hay không.
Xuống giải quyết trực tiếp không có nghĩa đi gặp cấp dưới của mình, để mọi người cùng hùa theo một ý của lãnh đạo, mà là đối thoại trực tiếp với nhân dân một cách bình đẳng. Đây là nhiệm vụ cơ bản và then chốt của thời bình, mà người lãnh đạo VMCQ phải hoàn thành.
Nói một chiều, bên cạnh có quyền lực răng đe, … cách này kẻ cướp làm cũng được đâu mắc gì phải đến lãnh đạo, học cao hiểu rộng. Thời bình ‘đối thoại được với dân’ một cách bình đẳng, mới là việc khó đáng làm của lãnh đạo VMCQ. Không thể đùn đẫy trách nhiệm này cho cấp dưới “chịu trận”, để cấp trên né tránh.
Nếu người lãnh đạo VMCQ không đối thoại thông suốt, thì từ chức, hoặc nhân dân cách chức.
Trong VMCQ, quyền lực (vũ khí) chỉ là phụ, LPCL mới là quyền lực (lương tâm) mới là chính. Đây là điều kiện cơ bản để xã hội phát triển tự nhiên ổn định và bền vững.
Chính quyền chưa biết đối thoại thì học đối thoại, nhân dân chưa biết đối thoại thì cũng học như thế. Để khi đụng việc mọi người đều biết dùng lợi lẽ mà giải quyết ổn thoả, thay vì …
Xã hội có một chính quyền cởi mở như trên, thì nhân dân nào mà không vui, xã hội nào lại không thịnh.
Nhưng đồng thời nó cũng đòi hỏi, người lãnh đạo trong VMCQ phải thật sự có tài đức vẹn toàn, thì mới đủ khả năng đảm đương nhiệm vụ.
Bên cạnh lãnh đạo VMCQ, còn có các lãnh đạo trong ĐKHTT hỗ trợ, cộng với DĐND (diễn đàn nhân dân) giám sát điều hành, thì xã hội lo gì không phát triển đúng theo quĩ đạo qui định của QLTN.


IX. DIỄN ĐÀN NHÂN DÂN (DĐND)
Có VMCQ tất yếu phải có “VĂN MINH XÃ HỘI” (VMXH).
Trong VMXH, vai trò của DĐND chiếm vị trí trung tâm quyền lực.
Vì thế người dân cần nhiều diễn đàn như cá cần nhiều nước, để tiện lợi trong thể hiện quyền lực đối với xã hội.
Nên cách tốt nhất là nơi đâu có nhân dân, thì nơi đó có tổ chức DĐND phù hợp.

Diễn đàn là nơi để mọi người được giãi bày hay nêu câu hỏi về những vấn đề cuộc sống, mang tính riêng tư  hay chung xã hội, mà cá nhân quan tâm nhưng chưa tìm ra lời giải đáp thoả đáng.
 Diễn đàn cũng là nơi tập trung trí tuệ (cộng sản) của toàn xã hội
           (chú thích: cộng sản: cộng tài sản trí tuệ, tư liệu sản xuất gốc của mọi tư liệu sản xuất),
nhằm giúp nhau giải đáp các vấn đề phức tạp do cuộc sống đặt ra.
DĐND là một phần không tách rời của VMXH.
Đây cũng là nơi đảng truyền bá các kiến thức KHTT đến mọi người dân. Một hình thức giáo dục phổ cấp kiến thức về tình hình xã hội và các diễn biến về trình độ sống của xã hội nói chung.

Nơi đây cũng là điểm hội tụ các tai mắt của nhân dân và của chính quyền, vi mục đích thông hiểu lẫn nhau. Mọi mâu thuẫn, mọi yêu cầu giải đáp trong quan hệ con người, trong đời sống cá nhân hay xã hội, đều có thế được giới thiệu ra công khai hợp pháp, để được giải đáp một cách có trách nhiệm, có cớ sở bài bản khoa học.
Tất cả hợp thành những chứng lý khoa học, để từ đây nhận thức ra, thế nào là qui luật phát triển tự nhiên của xã hội.

“Chín người mười ý” nói lên tính đa dạng trong tư duy con người.
Do tính chất trên mà một số chính quyền (độc tài) ngăn cấm hình thành những diễn đàn tự do ngôn luận như trên, vì e rằng không thể giải đáp các câu hỏi từ nhân dân đặt ra. Như thế sẽ mất uy tín lãnh đạo, hay nếu có liên quan đến cơ chế chính trị xã hội, thì hậu quả có thể còn lớn hơn.
Nhưng trái lại, chỉ khi quyền tự do ngôn luận của người dân được tôn trọng, thì xã hội mới thật sự phát triển bền vững, vì nó thể hiện đúng khả năng và bản chất.
Theo HTNT, đây là con đường ĐỘC ĐẠO giúp con người tìm thấy chân lý sống, tìm ra qui luật phát triển xã hội, điều kiện để nâng cao mức sống nhân dân một cách vững chắc.
Vì thế trong VMXH, mọi người đều được khuyến khích trau dồi nhận thức, nâng cao trình độ cảm nhận chân lý sống, thông qua các hình thức học tập khác nhau, trong đó không thể thiếu quyền tự do tranh luận, hội họp, mở diễn đàn đa dạng, để mọi người dễ dàng tham khảo học hỏi tranh luân lẫn nhau về mọi vấn đề mình quan tâm.
Trong sự sống, lý có thông thì tình mới phát, tình phát thì lao động mới hăng sai tăng năng suất, đời sống mau nâng cao, tội phạm suy giảm, xã hội ổn định, đất nước vững mạnh, v.v….

Trong cơ chế tự do tranh luận công khai bình đẳng trên các diễn đàn, xã hội sẽ có cơ hội giải phóng mọi bất công xã hội cũng như tiêu trừ tận gốc các mầm móng tiêu cực xã hội. Vì nơi đâu có vấn đề thì nơi đó đã có diễn đàn nhìn thấy và nêu ra để giải quyết.
Vì không cặp mắt chính quyền nào rộng và phủ khắp bằng cặp mắt của nhân dân.
Xoá bỏ quyền tự do tranh luận bình đẳng công khai trong xã hội và với chính quyền, là làm mất hết chín phần sức mạnh của nhân dân, chỉ chừa lại một phần cho sức sống thụ động, phải luôn vâng lời theo mệnh lệnh từ trên.
Một chính quyền đối xử với nhân dân như thế, khác nào đang gây tội ác với họ.

Trong VMCQ, các nhà lãnh đạo cũng đồng thời là những nhà KHTT (Người Chỉ Dẫn). Họ luôn tha thiết kêu gọi nhân dân tham gia diễn đàn, tự do tranh luận v.v… để qua đó nâng cao trình độ sống của mọi người. Đó là trách nhiệm và nghĩa vụ của VMCQ đối với mọi công dân mình phụ trách.
Việc nào biết nói biết, việc nào không nói không. Khả năng VMCQ và xã hội thế nào phản ánh đúng đến đấy. Không ai có quyền phủ nhận hay làm sai lệch sự thật khách quan, về trình độ nhận thức chung. Nếu không sẽ làm mất dấu qui luật phát triển tự nhiên của xã hội, là nguy cơ tái hiện bất ổn, là mức sống xã hội bị đe doạ.
Có những vấn đề cần giới hạn thông tin, nhưng tất cả cũng phải được giải thích một cách rõ ràng hợp lý, đồng thời thông báo khi nào công các thông tin bí mật trên … Vì đây là quyền lợi của người dân, VMCQ phải có nhiệm vụ đáp ứng.

DĐND được dựng lên trên nguyên tắc, nơi đâu có phát sinh vấn đề nơi đó phải có tổ chức DĐND phù hợp. Hay diễn đàn được dựng lên sao cho bất kỳ người nào có yêu cầu giải đáp về mọi vấn đề cuộc sống (dù nhỏ hay lớn) đều được đáp ứng, với qui mô phù hợp với tính chất vấn đề đặt ra.
Hay tùy nhu cầu mà đối tượng đề nghị được vượt cấp diễn đàn (lên cấp cao hơn), với điều kiện phải chịu trách nhiệm chi phí vượt cấp. Nếu cuối cùng kết quả vượt cấp như trên là đúng và hợp lý, có lợi cho xã hội, thì xã hội phải có trách nhiệm bồi hoàn lại chi phí cho đương sự một cách xứng đáng. 
Diễn đàn nhỏ nhất có thể chỉ cần hai ba người (nhỏ nữa là ta với  ta vậy). Nếu lớn hơn thì từ ba hay bốn người trở lên. Các diễn đàn nhỏ thường là tự phát, nhưng nó là một phần không thể thiếu của hệ thống DĐND chính qui.

Vấn đề liên quan đến địa phương nào thì nơi đó có trách nhiệm tổ chức các diễn đàn theo yêu cầu của nhân dân. Nếu diễn đàn không thuộc ai trách nhiệm lập ra, thì chính quyền cấp cao hơn phải đảm nhận tổ chức thay.
Hoặc không nữa, thì nhân dân có quyền tự dựng lên các diễn đàn một cách công khai và hợp pháp, khi mọi cửa trách nhiệm vì lý do gì đã bít.
Cơ chế tổ chức linh hoạt như trên nhằm tạo điều kiện khai thông tối đa các tâm tư tình cảm của mọi người trong xã hội, sao cho không còn ai còn những nỗi niềm riêng tư bất ổn cần được trợ giúp (giải đáp) mà không được xã hội quan tâm giúp đỡ kịp thời.
Ta gọi mô hình tương tác giữa người dân và xã hội như trên là, “văn minh dân chủ” (VMDC) trong VMXH.

Muốn người dân có đủ năng lực làm chủ xã hội, thì yêu cầu phải ‘chăm lo sức khoẻ tinh thần’ cho họ. Tức là họ phải được giải đáp mọi nhu cầu về nhận thức, một cách khách quan đa chiều (không nhồi sọ một chiều). Đây là kế khoan sức dân lâu dài, từ cổ chí kim ai cũng biết như thế.
Còn ngược lại muốn hại dân hại nước, thì tiến hành chia rẻ họ ra, không cho hội họp bàn luận tìm hiểu sự sống v.v… Lâu dần chắc chắn trí tuệ họ sẽ yếu, nhận thức sẽ mê muội khờ khạo, v.v… và xã hội sẽ không còn đủ sức mạnh đối phó khi việc khó ập đến bất ngờ.
Như thế không quyền làm chủ nào có thể được thực thi hiệu quả, khi trí năng của người dân bị cố tình làm cho xói mòn.

Nguyên khí quốc gia suy cho cùng là từ đây. Từ sức mạnh trí tuệ của nhân dân.
Sức mạnh thời đại bắt đầu bằng từ trí tuệ. Trí tuệ bắt đầu từ môi trường ngôn luận tự do, cộng với thời gian thâm nhập từ nhiều năm, để cuối cùng mới tổng hợp thành một nguyên khí có đủ nội lực.
Nếu nay chính quyền quyết phá nội lực của dân để dễ “cai trị”, thì hậu quả gì sẽ xảy ra …

Sự sống vẫn diễn biến.
Con người vẫn bàn luận theo cách này hay cách khác, dù cấm hay không cấm.
Vì tạo hoá sinh con người ra đã là như vậy.

Nay nếu may mắn các bàn luận trên có thêm sự giúp sức từ các nhà chuyên môn, thì kết quả càng thuận lợi.
Trong VMXH, đảng KHTT nhận lãnh trách nhiệm này.
Nó giống tổ chức “đảng” (kiểu M-L) nhưng hình thức hoạt động giống kiểu của các tôn giáo hơn, về nội dung thì đề nghị dùng KHTT.
Mục đích của KHTT là giúp con người tự tin vào vốn nhận thức sự sống, sau khi đã học tập rèn luyện. Sự sống có thành công tốt đẹp và hạnh phúc hay không là tuỳ vào mỗi cá nhân phấn đấu nâng cao trình độ sống.

DĐND là nơi thuận lợi để mọi người gặp nhau giao lưu nâng cao trình độ sống.
Ngoài ra người dân có thể trả chi phí để xin tư vấn (học tập) nhanh từ các nhà chuyên môn thuộc ‘đảng KHTT’. Nếu họ tư vấn tốt, khách hàng sẽ đông lên, nhờ vậy đảng viên có thu nhập (nhiều ít tuỳ người, tuỳ khả năng).
Nếu cần mọi người có thể chọn học theo chuyên ngành KHTT làm nghề nghiệp, do đảng KHTT đào tạo.

Tóm lại, lợi ích của DĐND trong VMXH là rất to lớn, vì nó là trung tâm điều hành xã hội, cũng là nơi để mọi người nâng cao trình độ sống, cũng là nơi cập nhật các thông tin kiến thức về xã hội hay sự sống nói chung.
Đây cũng là mô hình VĂN MINH DÂN CHỦ (VMDC) kiểu mới, nó khác với các mô hình dân chủ khác.
Vì mọi tiếng nói của người dân đều được tôn trọng, và là một phần quyền lực lãnh đạo trực tiếp đối với xã hội.
Quyền lực ấy được thể hiện qua TRÌNH ĐỘ NHẬN THỨC LÝ LUẬN (bên cạnh sự phát huy tối đa ý thức lương tâm A1 trong quan hệ) về các vấn đề sự sống và xã hội. Trình độ lý luận ấy phải phản ánh tính logic, khách quan, khoa học, hợp tình hợp lý, v.v… đối với từng vấn đề, cuối cùng phải được mọi người trong xã hội công nhận (tuỳ tính qui mô và phức tạp của vấn đề)

Mục đích của đảng KHTT là nhằm nâng cao trình độ nhận thức, trình độ tinh thần, trình độ sống của mọi người dân nói riêng, của xã hội nói chung.
Vì đây là những điều kiện cần thiết, đem lại mức sống cao, hạnh phúc cho mọi người đến loài người.



X. BẰNG CẤP TINH THẦN
Trong thời loạn lạc con người cần được trang bị một vài thế võ, một ít vũ khí để phòng thân.
Nhưng trong thời thanh bình, ‘bằng cấp nghề nghiệp’ là một trong các “vũ khí” phòng thân hiệu quả.
Trong các loại nghề nghiệp, ‘kỹ năng sống’ là một nghề mới được đề xuất hình thành, trong giới khoa học và trong đời sống xã hội.

Nghề ‘kỹ năng sống’, nghề ‘sống’, nghề ‘tinh thần’, nghề ‘kỹ sư tâm hồn’, nghề ‘quan hệ’, v.v… đều có nghĩa như nhau.

Khi mức sống vật chất phát triển, vấn đề ‘mức sống tinh thần’ được đặt ra.
Nếu hiểu theo VMXH, thì kỹ năng “Văn Minh Đạo Đức” (VMĐĐ) (hay “Đạo Đức Nhân Tâm”) là thước đo ‘mức sống tinh thần’ của mỗi cá nhân.

VMĐĐ là mọi hành động (việc làm, suy nghĩ) đều phải dựa trên cơ sở các chứng lý khoa học cụ thể, như lợi chích cho ai, hay gây hại thế nào, hợp lý hay không hợp lý, vì sao có hành động đó, ai khiến, v.v…
Tức là con người không được tuỳ tiện làm sai ăn ớt nói càn, rồi đỗ thừa tại người khác lệnh hay kêu.
Mà làm việc gì phải do mình tự chịu trách nhiệm. Không biết thì hỏi, nếu thấy không đúng thì không làm. Nếu làm sai thì sửa, làm đúng thì phát huy.
Vì vậy khi làm là phải hiểu lý do, dù mình tự làm hay do người khác ra lệnh, để khi cần có thể chứng minh công khai về tính đúng đắn của nó.
Muốn chứng minh lý do cho hợp lý, con người cần có kiến thức và kỹ năng lý luận về đạo đức quan hệ. Cơ sở của đạo đức đó là gì, từ đâu lập nên, đúng sai thế nào.
Nếu cần sẽ lên DĐND tranh luận phản biện bảo vệ quan điểm của mình, cũng như đấu tranh đẩy lùi những quan điểm sai lầm khác.
Tất cả vì sự sống, vì quyền lợi sinh tồn hợp lẽ phải, hợp với qui luật tự nhiên. Là cơ sở cho mức sống tâm hồn hay tinh thần phát triển. Là tiền đề sở hữu kỹ năng sống hạnh phúc toàn diện, trong trước mặt và cho tương lai lâu dài của cá nhân và xã hội.

VMĐĐ khác với các mô hình đạo đức phổ biến khác.
Ở đấy con người chỉ cần tuân thủ vô điều kiện những qui định đạo đức đã sẵn có, là đã được khen, được yêu mến, được cho thăng chức, v.v…
Hoặc dùng đe doạ, gây sợ hãi, nhằm buộc đối tượng phải thi hành, đã trở thành một phần đạo đức tự nhiên trong xã hội. Người ra lệnh, người chấp hành lệnh, đều ngầm thoả thuận như đây là một kiểu quan hệ đạo đức tự nhiên của cuộc sống.
Sự thật trên đây là những kiểu đạo đức trái tự nhiên, không hợp với qui luật tiến hoá xã hội loài người.

Bản chất con người là sống bằng trí tuệ.
Đạo đức mà không có trí tuệ tham gia, cũng khác nào con vật vận động không cần có ý thức.
Đạo đức có thể tạo thành hành động. Hành động mà không hiểu ý nghĩa kết quả của nó, sẽ đem lợi cho ai hay hại ai, thì rất nguy hiểm. Con người dễ bị các kẻ xấu lợi dụng quyền lực sai khiến làm những việc, chống lại giống nòi mình, gia đình mình, kể cả chính bản thân mình mà không biết.
Biết rằng mọi hành động, việc làm, sinh hoạt, v.v…  của con người đều mang một giá trị đạo đức nhất định.
Kẻ cướp phạm tội bao giờ cũng giấu mặt.
Con người sống sinh hoạt theo một qui định đạo đức nhất định. Nhưng không hiểu giá trị đạo đức đó đúng hay sai, chứng lý nguồn gốc cấu tạo nó thế nào, … Thì khác gì đạo đức đang là kẻ cướp giấu mặt, nó đang cướp đi các giá trị tinh thần, nhân cách, cũng như kỹ năng sống hạnh phúc toàn diện của con người.

Đạo đức không rõ nguồn gốc, hoặc có nguồn gốc nhưng không đúng đắn hợp lý, là mối nguy lớn cho xã hội loài người.
Nhưng thực tế con người chưa quan tâm điều này, vì nghĩ nó là việc nhỏ. Vũ khí, tiền, phi thuyền vũ trụ, v.v  … mới là việc lớn.
Ngược lại đạo đức sai, như máy chạy thiếu nhớt, lâu dần máy sẽ cháy không dùng được nữa.
Vậy giữa ‘nhớt’ và ‘máy móc’ cái nào giá trị hơn. Cả hai đều cần. Nhưng cần gấp lúc này là nhớt đúng chuẩn. Vì máy móc thời đại đang chạy tốc độ cao, nhưng nhớt đang dùng kém chất lượng, không rõ nguồn gốc …
Đúng lúc có “nhớt” hiệu “VMĐĐ” … đang quản cáo chào hàng. Bảo đảm có nguồn gốc và chất lượng rõ ràng, có thời gian bảo hành sử dụng lâu dài. Ai tin thì hãy mua về dùng, chất lượng uy tín.
Vấn đề là mỗi người phải tập tự sản xuất lấy … ở đây chỉ hướng dẫn công nghệ …

Mọi con người sinh ra lớn lên đều cần được trang bị kỹ năng VMĐĐ cơ bản, để phòng khi trong quan hệ gặp sự cố khó khăn, ví dụ các ‘lệnh miệng’, các qui định khó hiểu, v.v… thì biết cách từ chối hay phản biện lại để tìm hiểu xem tính hợp lý đúng đắn nằm ở đâu, trước khi kết luận có nên thực hiện hay không.
Nâng cao mức sống tinh thần bằng cách trau dồi vốn sống lương tâm A1, là điều kiện phát triển kỹ năng VMĐĐ.
Có VMĐĐ xã hội sẽ phát triển tốt hơn, những hiện tượng vô lý không còn tồn tại phổ biến. Cái tốt cái hợp lý cái công khai sẽ là những vũ khí ‘chuyên chính’ đối với cái xấu, cái bất hợp lý, cái giấu mặt, v.v… 
Sự sống cần có VMĐĐ, để lẽ phải- hợp lý- công khai trở thành tiêu chí chính trong quan hệ xã hội, thay vì quyền của “kẻ mạnh” là lý lẽ cuối cùng.
Có VMĐĐ môi trường sống xã hội sẽ an toàn bình yên hạnh phúc, không gì tốt bằng. Nhờ vậy phúc lợi nhân dân sẽ được nâng cao không ngừng.

Cứ như thế sự sống sẽ dần thay đổi, số lượng người có vốn sống tinh thần cao sẽ ngày càng tăng lên. Các “kẻ mạnh” về quyền lực và vật chất sẽ thay đổi quan điểm, từ “lộng quyền” chuyển sang “thân thiện” sống hoà đồng với xã hội với nhân dân, có ý thức tôn trọng và đóng góp cho quyền lợi chung xã hội, thay vì xem “cái tôi, cái quyền lợi cục bộ” là cứu cánh của sự sống.
“Kẻ mạnh” mà chịu trau dồi VMĐĐ, thì người nghèo người thất thế v.v… nói chung những “kẻ yếu” sẽ được hưởng lợi rất lớn. Xã hội sẽ không còn người thiếu ăn thiếu mặc thiếu ở thiếu kiến thức. Mức sống cơ bản trở thành phổ cập trong xã hội.
Như thế là đủ điều kiện để xã hội tiến lên mức sống hạnh phúc toàn diện của “thế giới đại đồng”, không khó.
Đấy là bằng cấp tinh thần cao nhất mà con người muốn được cấp.

Ông bà ta đã dạy, có tài phải có đức.
Cái đức không phải là cái do áp đặt hay bắt buộc mà có, như lâu nay vẫn làm.
Cái đức là cái rèn luyện lâu dài và tự nguyện của cá nhân, thì kết quả đạt mới đúng, bền và hữu dụng.
Cái đức là thành phần cơ bản của kỹ năng sống, bên cạnh các nhu cầu ăn mặc ở. Nó cũng là một dạng của TÀI NĂNG, không phải ai cũng rèn đức giỏi, tốt như nhau.
Có nhiều người thiếu tài năng về ‘ĐỨC’ nhưng giỏi về “tài” ‘VÔ ĐỨC’, nên sống giả vai ‘người ‘tài đức’ rất khéo khó phát hiện. Nhờ vậy họ trở thành “kẻ mạnh” bằng con đường bất chính. Nếu may nữa họ đi thẳng lên làm lãnh đạo xã hội. Vậy là khó sống, khó lý giải, nếu muốn tìm nguyên nhân gốc.

Như thế đạo đức không phải chỉ cần đối với người nghèo,người khổ (vì sợ mất lòng chủ). Mà nó hữu ích cho tất cả mọi người, nhất là những người giàu tận đỉnh, đến những người có chức có quyền tột bậc trong xã hội.
Vì họ là những người dễ trở thành mất đạo đức hơn ai hết:
-         Một là, vì khi họ đã cấu kết với nhau thành một khối thế lực thống nhất, thì toàn xã hội sẽ dễ dàng trở thành những nạn nhân phải sống cuộc đời đen tối trước mức sống cách biệt rất lớn của họ.
-         Hai là, vì họ không ý thức rằng sự chia sẻ những lợi thế (tiền bạc và quyền lực) sang những người bất hạnh, là một QUI ĐỊNH BẮT BUỘC CỦA CHÂN LÝ SỐNG. Nếu không mãi mãi họ sẽ là những người sống không đạo đức, có mức sống tinh thần rất thấp, và không bao giờ đạt được mục đích sống ‘HẠNH PHÚC TOÀN DIỆN’ trong đời.
Biết rằng người nghèo, người mức sống trung lưu, dễ đạt mức sống ‘hạnh phúc toàn diện’ hơn “kẻ mạnh” nhiều. Trong khi “kẻ mạnh” có tất cả, chỉ trừ ‘hạnh phúc toàn diện’. Đây là cái giá phải trả lớn nhất, cho những ai có lối sống ích kỹ bạo quyền trái tự nhiên với đồng loại.

Nếu kết quả cuối cùng trong VMXH, ai cũng đạt kỹ năng VMĐĐ, thì hạnh phúc sẽ chia đều hết mọi người. 
Vì thế trong VMXH, VMĐĐ (hay KHTT) là một môn học không thể thiếu trong sách giáo khoa của các trường phổ thông, ở mọi cấp học. Nó là môn học về tinh thần nhằm rèn luyện xây dựng nhân cách, và kỹ năng sống thiện, tình thương, và kỹ năng dùng lý trí trong quan hệ sao cho đạt hạnh phúc cá nhân và xã hội.
KHTT  là một nghề cao quý, nó chọn người có năng khiếu để trở thành chuyên gia trong lĩnh vực này, và nó phù hợp với bất kỳ ai muốn sống đời tốt đẹp. – Mọi thực khách đều muốn ăn ngon, bù lại phải có đầu bếp giỏi năng khiếu đặc biệt (cái tâm).
Bằng cấp về KHTT là sự cảm nhận giá trị lương tâm (A1) trong bản thân cá nhân, đồng thời biến nó thành hành động công khai hữu ích được xã hội công nhận.
Bằng cấp sẽ được nâng cao, khi trình độ nhận thức lý luận được nâng cao, hiệu quả hành động cũng được nâng cao (chiều rộng và sâu) tương xứng.
(Ghi chú: “Cách Sống Học”, “Khoa Học Tinh Thần”, “Học Thuyết Nhân Tâm” đều có nghĩa gần như nhau, tác giả gọi thay đổi tùy theo ngữ cảnh)


XI. VĂN MINH LÃNH ĐẠO
Thói quen lãnh đạo muôn đời là thích trên phán dưới nghe, không nghe ắt sinh chuyện lôi thôi khó sống với trên.
Ngược lại dưới góp ý, trên nghe hay không thì tùy, vì vậy làm kẻ dưới phải chịu thiệt thòi bất công đủ điều.
Trên đây là kiểu quan hệ một chiều từ thời nô lệ phong kiến. Nó tùy tiện không văn minh.
Nhưng nhiều người trong thời đại văn minh vẫn thích dùng phương thức quan hệ này, vì nó rất có lợi cho người đang nắm ưu thế uy quyền. Họ được tự do muốn làm gì thì làm, còn người khác thế nào thì mặc – lâu dần con người thành vô tâm và ác.

Sự tác hại của kiểu quan hệ như trên là rất lớn. Nhất là khi người có quyền thế trên phạm vi rộng (xã hội …), vừa mắc bệnh dốt (về qui luật tự nhiên), vừa kém đạo đức, vừa chủ quan, vừa quyết tâm kiên trì thực hiện những mục tiêu hành động mù quáng, v.v…không cần quan tâm tham khảo dư luận xã hội rộng rãi, hay tranh luận công khai tính đúng sai của vấn đề với mọi người, … thì hậu quả đem lại là vô cùng.
Khi ấy các cấp dưới tha hồ lợi dụng lổ hỏng của trên, để thu lợi bất chính, gây thiệt hại dây chuyền tiếp theo.
Trong khi mọi phê phán giám sát từ phía nhân dân, đều bị triệt tiêu theo cách này hay cách khác.
Mô hình quan hệ một chiều như trên, dễ lây lan đến mọi người, từ xã hội đến gia đình … đến các em học sinh. Họ bắt chước những hiện tượng xảy ra công khai tiêu biểu trước bàn dân thiên hạ như trên. Vì nó như là tấm gương cho thấy như thế là hợp lý là đúng, là hợp đạo lý sống của mọi người và xã hôi.

Vì người ta không cho phê phán khi “người lớn” làm sai, đặc biệt giữa chính quyền với nhân dân.
 – (Mặc dù về nguyên tắc nhân dân là cấp trên của chính quyền, nhưng thực tế chính quyền là cấp trên của nhân dân, vì lý do … hiến pháp qui định. Mà hiến pháp thì chính quyền không cho sửa … chỉ chờ khi nhân dân nỗi dậy … nhân dân thì chần chừ vì sợ … tội nghiệp chính quyền đau, con em mình đau … ai cũng khổ … nhưng bí quá cũng phải liều … dù sợ …!).
Những thiếu hiểu biết ban đầu (trong quá trình tiến hoá) đã cho con người những kỹ năng sống sai lầm như trên, đến những qui định kỳ lạ của hiến pháp …. Lý do vì thiểu số người được bầu chọn (theo cách kém hiểu biết) đã “chính thức thành nhân dân – hợp pháp”, còn số rất đông người còn lại đã bị ‘MẤT HẾT QUYỀN CÔNG DÂN’ (do mất quyền quyết định mỗi khi bất đồng ý với chính quyền).

Nếu xét từ lòng tham và sự vô lương, thì ai cũng thích cơ chế một chiều, bởi nó rất dễ làm và rất dễ để tư lợi bất minh.
Đây là cách … “làm theo sở thích, hưởng theo bất lương”.
Nếu ai chống lại cách làm trên, đã có súng ống sẵn sàng ...
Sự kín kẽ của cơ chế một chiều càng hoàn hão, mối nguy hại cho xã hội càng lớn. Người thật tài dễ trở thành nạn nhân trực tiếp của cơ chế này. Vì nó chỉ cần người bất tài nhưng biết … vâng lời là đủ.

Trong VMXH không cho phép cách làm trên tồn tại, vì nó phản khoa học phản tự nhiên phản đạo đức, phản lại lợi ích xã hội một cách trầm trọng và trắng trợn.
Mà nó chủ trương mọi quyền lực đều phải thông qua hệ thống diễn đàn (DĐND hay VMDĐ) chứng minh công khai, khi muốn dùng nó để giải quyết một vấn đề mà có nhiều người không đồng ý. Quyền quyết định cuối cùng thuộc về nhân dân toàn xã hội (tất cả những ai quan tâm, dựa trên các kỹ năng lý luận phân tích hợp lý – lương tâm A1 và HTNT).
Đến nay chưa có mô hình xã hội nào trên thế giới làm theo cách này, hoặc đã có làm nhưng chưa triệt để chưa đạt trọng tâm, vì thiếu ngôn ngữ trung gian làm phương tiện hợp nhất ý chí toàn dân.
HTNT và DĐND là phương tiện thống nhất quyền lực của nhân dân hiệu quả. Nó giúp nhân dân tạo thành thế mạnh, đủ lực, đủ khả năng quản lý thành công chính quyền.
Để người lãnh đạo trong chính quyền trở lại đúng nghĩa, là “anh thư ký” năng động và tốt bụng phục vụ nhân dân.

Trong VMXH, khi ‘lãnh đạo’ đã được nhân dân tin cậy giao cho quản lý xã hội, thì phải có mức sống tinh thần, hay kỹ năng sống, hay trình độ KHTT, giỏi hơn mọi người. Khi ấy người ‘thư ký’ (lãnh đạo) sẽ biết đưa ra những lý giải tốt nhất, nhằm THUYẾT PHỤC mọi người CÙNG ĐỒNG HÀNH theo quan điểm của mình.
Nếu được mọi người ủng hộ, chứng tỏ người ‘thư ký’ ấy có thực tài và đức độ, cũng như đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ lâu dài.
Làm cách nào hóa giải thành công những mâu thuẫn trong xã hội, đồng thời nâng cao trình độ dân trí trong nhân dân, là trách nhiệm vinh quan của người ‘thư ký’. Người ‘thứ ký’ bất tài thiếu tâm nhất định sẽ không thể trụ vững trong môi trường VMXH như trên.
Ta gọi người ‘thư ký’ như trên, là một … “VĂN MINH LÃNH ĐẠO” (VMLĐ).

VMLĐ là người biết tạo niềm tin và uy tín bằng trình độ đạo đức, phẩm chất tinh thần, kỹ năng phân tích tình huống sự việc (quan hệ, tâm lý, nhân cách), vạch ra phướng hướng chiến lược phát triển tương lai, một cách hợp tình hợp lý hợp logic, được mọi người trong xã hội đồng lòng ủng hộ, v.v…  và cuối cùng đem lại hiệu quả cao cho đời sống nhân dân và sự nghiệp phát triển xã hội.
Tất yếu để đạt thành công như trên, khái niệm dùng quyền lực chủ quan (bạo lực) để áp đặt nhân dân, là một hiện tượng hoàn toàn xa lạ đối với VMLĐ.
Ngoài ra kỹ năng xét đoán con người về nhân cách, kỹ năng sống, phẩm chất tinh thần, v.v… trong chọn lựa người tài phục vụ hiệu quả cho xã hội, cũng là một ưu thế đặc thù của một nhà VMLĐ tài năng.
Dưới sự điều hành của VMLĐ, bao giờ cũng tạo thuận lợi cho mọi người, mọi ngành nghề, hoạt động tốt hơn thuận lợi hơn, trong khi các hiện tượng tiêu cực bế tắc trong mọi hoạt động xã hội giảm dần. Trình độ của VMLĐ càng cao thì thành quả mang lại càng có giá trị lan toả sâu rộng.

Ngược lại nếu người lãnh đạo kém hay xấu, thì kết quả tiêu cực sẽ xảy ra phổ biến trong xã hội, với tiến độ ngày càng tăng và bế tắc.
Đâu đâu cũng thấy phát sinh tiêu cực, mất đoàn kết, quyền lực bị lạm dụng, đạo đức xuống cấp, người tốt tích cực bị chèn ép ngày càng nhiều, kinh tế xã hội không thuận lợi, v.v…
Trong khi người lãnh đạo thì như luôn ẩn mình vô can, vô trách nhiệm trước mọi diễn biến đáng lo,  v.v ...
Nếu có đặt câu hỏi thì người ta sẽ có trăm ngàn lý do để biện minh (một chiều) ... cho mọi thất bại là đúng đắn hợp lý. 
‘Kẻ cướp’ bao giờ cũng thích ‘một chiều’ … để không ai bắt tội được mình. Nhưng ‘nạn nhân’ bao giờ cũng cần ‘hai chiều’, từ lý lẽ đến hành động, để đưa tội phạm vào tròng.
Vì thế một xã hội đã chọn sai người lãnh đạo cao nhất, và chọn sai đường lối phát triển, thì người lãnh đạo hết mười phần có nguy cơ trở thành ‘kẻ cướp’. Họ cướp về vật chất lẫn tinh thần của nhân dân.

Trong khi VMLĐ chỉ dựa trên chân lý để hành xử trong quan hệ, dưới sự giám sát chặc chẽ của toàn dân (DĐND), nên không ai ‘cướp’ được của ai cái gì, khi quyền lực thật sự đã thuộc về nhân dân. Nên mọi việc trong xã hội vận hành rõ ràng, minh bạch, công khai, hiệu quả.
Một VMLĐ giỏi còn là người biết cách đưa mọi người tiến lên vị trí lãnh đạo thay mình, nếu cảm thấy xã hội đã có đủ năng lực.
“Nhân dân lãnh đạo nhân dân thành công”, là mục đích lớn nhất và cơ bản nhất của sự nghiệp VMLĐ.
Trên đây là những tiêu chí phải hoàn thành của VMLĐ, mà không bất kỳ một nhà lãnh đạo nào khác hiện nay có thể đáp ứng, cho dù nhân dân luôn mong mỏi.


Bằng con đường khai thác hệ thống DĐND, nhân dân dưới sự hướng dẫn của VMLĐ, sẽ từng bước hình thành khả năng tự lãnh đạo. Hay ‘ý chí’ của người ‘thư ký’ với nhân dân hoà làm một. Lúc bấy giờ khái niệm ‘thư ký’ hết sức linh hoạt, bởi mọi người ai cũng có thể lên thay thế lẫn nhau trong vị trí này, nếu thấy lợi trong công việc.
Chỉ khi ấy người dân mới thật sự thỏa mãn với cuộc sống.
Từ cơ chế DĐND, nhân dân học cách lớn lên với thời đại, lớn lên với tư cách những người chủ tập thể. Để từ đây họ có thể chủ động chọn và thuê những ‘thư ký’ mà không sợ bị phản bội - (hành dân).
Một người chủ kém sẽ không quản lý được “thư ký” gian.
Trong VMXH, khi chủ tớ đều ngang tài ngang sức, thì không việc gì không giải quyết thành công, không cái gian nào tồn tại trước ý chí thống nhất (nhân dân).

Một xã hội đạt trình độ phát triển như trên, thì nhân dân xứng đáng với tên gọi … “VĂN MINH QUẦN CHÚNG”.


XII. VĂN MINH QUẦN CHÚNG
Xưa nay quần chúng được tiếng là thấp cổ bé miệng trước chính quyền.
Ngược lại trong VMXH, chính quyền trở thành thấp cổ bé miệng (nhưng cho tự do nói) trước “VĂN MINH QUẦN CHÚNG” (VMQC).
Vì VMQC nay đã trở thành những nhà lãnh đạo xã hội, và chính quyền trở lại là những ‘thư ký’ dưới quyền.

Đã là VMQC thì không còn quyền đỗ thừa ai khác, khi thành quả phát triển xã hội bị thất bại.
Tất yếu mỗi người trong xã hội phải gánh một phần trách nhiệm, hoặc số người là tác giả liên quan trực tiếp (trong diễn dàn) phải chịu trách nhiệm chính.
Vì vậy đã là VMQC, thì trong xã hội ai cũng phải có ý thức trách nhiệm đối với việc chung, nhất là về ‘Chính Trị Xã Hội’. Không biết nhiều cũng phải biết ít, không chuyên nghiệp cũng phải cơ bản. Đây là nguyên tắc, đây là qui luật sinh tồn tối thiểu của mỗi công dân.
Là VMQC không ai trong xã hội có quyền nói “tôi không biết đến chính sự” hoặc “tôi không thích …” v.v...
Nó giống như làm người thì không ai có quyền nói “tôi không thích ăn, mặc, ở, v.v…”. Nếu không thích thì “đừng ăn đừng mặc đừng ở v.v…”
Trước người dân do bị chính quyền làm cho “dốt quá”, bằng cách bị hù doạ và sát hại những ai muốn tham gia chính sự trái ý.
Nhưng nay đã là VMXH, thì mọi người phải ý thức hoàn thành chức năng ‘chủ’ xã hội của mình, Vì vậy phải biết quản lý chính sự. Nếu không ‘kẻ ác kẻ gian’ sẽ lợi dụng sự “bê bối và lười nhát trong canh cửa” của ‘chủ’, để tha hồ lẽn vào chiếm quyền ‘làm chủ’ thì nguy.

Việc ‘làm chủ xã hội’ suy cho cùng không khó với bất kỳ ai.
Chỉ cần mỗi người dân “cho ý kiến trung thực khách quan” theo quan điểm riêng, về những vấn đề xã hội đặt ra trong phạm vi cá nhân có thể hiểu.
Biết ít nói ít, biết nhiều nói nhiều. Không biết việc này thì biết vấn việc khác, v.v… Nếu nói không biết gì cả là vô lý, là vô trách nhiệm, là không xứng đáng làm VMQC. Phải quay lại học “kỹ năng làm người”.
Nếu cá nhân đạt sự quan tâm tối thiểu như trên, như thế là đã làm tốt vai trò lãnh đạo quần chúng rồi. Nếu có điều kiện mở rộng hơn kiến thức, mở rộng hơn pham vi quan tâm các vấn đề chung xã hội, thì không còn gì tốt bằng. Nó vừa có lợi cho bản thân (trí tuệ phát triển toàn diện), vừa có lợi cho xã hội (kẻ xấu không giành được chính quyền).
Tuy các việc quan tâm trên không khó, không lớn, nhưng tiếng nói nhiều người cộng lại, sẽ tạo nên quyền lực nhân dân trong mục đích làm chủ xã hội (đất nước).

Làm người lãnh đạo xã hội hóa ra không khó, cho dù nhận thức của người dân còn giới hạn. Thế mà lâu nay nhiều chính quyền không tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của những người dân (bình thường và trí thức). Không biết rằng họ là số đông, là nguồn lực cơ bản của xã hội.
Mỗi người góp một ý cũng là điều kiện để tìm ra ‘chân lý sống’ của xã hội và thời đại. Từ chân lý này sẽ được dùng trong điều hành và định hướng phát triển xã hội, phát triển mức sống của mỗi người dân.
Mỗi ý kiến là một khái niệm mù mờ, nhiều ý kiến sẽ tạo thành một ‘quan điểm nhận thức chính sự’ rõ ràng, rất quan trọng, rất quyết định.

Để biết quan điểm chính sự sai hay đúng, mọi người tham gia diễn đàn tranh luận sẽ kết luận được vấn đề. Nhiều lần như vậy, dân trí sẽ tăng dần. Lúc này dễ còn mấy ai qua mặt được người dân, kể cả người ta muốn tái lập lại chính quyền tiêu cực (như kiểu ML ...).
Cứ thế xã hội ngày càng mạnh, thế nước càng vững chắc.
Khi mọi người dân biết và dám nhận xét góp ý các vấn đề chung của xã hội, thì không còn chính quyền nào dám cỡi đầu dân, biến họ thành “thấp cổ bé miệng”, để tự do thu lợi bất minh, đẫy vận nước vào thế cờ tàn …

Nhân dân lãnh đạo nhân dân, đó là con đường tất yếu để đưa xã hội tiến lên thịnh vượng ngắn nhất, nhanh nhất.
Vấn đề còn lại, là chính quyền (hiện tại) có dũng cảm chuyển đổi, mở cửa cho nhân dân tiến lên hay không. Hay phải đợi nhân dân tức nước vỡ bờ tìm đường sống ...

Khi cánh cửa xã hội đã mở, quyền lực đã bàn giao.
Mỗi người sẽ là một thế lực nhỏ, một viên gạch chân lý thô. Nhiều viên gạch liên kết lại, sẽ kiến tạo nên ngôi nhà chân lý hoàn thiện. Ngôi nhà chân lý ấy không một cá nhân thiên tài hay một tập thể siêu việt nào, có thể kiến tạo thay.
Cuối cùng sẽ có những việc ngoài tầm giải quyết của trình độ số đông đương thời, khi ấy mới cần có những nhà khoa học tài năng (Người Chỉ Dẫn - NCD) nghiên cứu mở nút thắt.
Sau khi được nghe những gợi ý tham khảo của những người NCD, mọi người trong diễn đàn sẽ đưa ra quyết định kết luận cuối cùng cho thực thi. Và bao giờ trong cái quyết định tập thể ấy, cũng có người chủ trương chính, đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân về tính đúng đắn của quan điểm đề xuất kết luận. Để sau này tiện việc truy nguyên rút kinh nghiệm, dù hay dở đúng sai thế nào.

Quyền và trách nhiệm là hai mặt của một hành động.
Nhân dân muốn có quyền mà không muốn chịu trách nhiệm, là vô lý.
Xã hội (chính quyền) không giao quyền cho dân, mà đòi hỏi họ phải gánh trách nhiệm mỗi khi tai hoạ (giặc) ập đến, cũng là vô lý bất công.
Vì thế tốt nhất, ‘Quyền và Trách Nhiệm’ nên chia đều cho hai bên, thì việc chung sẽ thu được kết quả cao.

Sự phân chia quyền lực và trách nhiệm như trên nghe rất đơn giản và hợp lý, đối với mọi người dân.
Nhưng xưa nay không chính quyền nào muốn áp dụng. Một là không biết phải làm sao hay phải dựa trên cơ sở lý thuyết nào, hai là năm khi mười hoạ được “đứng trên thiên hạ” thì “dại gì” đem chia quyền cho dân … uổng phí quá.
Như thế là sai, phải nghĩ rằng, “dịp may hiếm có … không ai chia, ta phải mạnh dạng chia quyền cho dân, để cứu dân, cứu vận nước”.
Nay lý thuyết đã có, thực tế đã chính mùi, vấn đề còn lại là chính quyền có muốn thực hiện hay không mà thôi.
Nếu thực hiện … thì rõ là chính quyền hiện nay thật lòng thương yêu nhân dân.
Nếu không thực hiện … thì rõ là chính quyền hiện nay có quyền lợi nghịch với lòng dân.

Qui luật tiến hoá luôn là người thầy sáng suốt đối với loài người. Lúc dễ lúc khó, có lúc rất chiều chuộng con người nếu đã lỡ sinh lỗi lầm ...
Nhưng chớ lạm dụng quá đáng sự ưu ái ấy, để gây ra sự thống khổ kéo dài cho nhân dân. Như thế “Ông …” sẽ nỗi giận ... nhân dân dậy sóng  …






PHẦN II: CHỦ NGHĨA GIÁO DỤC


Để xây dựng VMXH, con người cần hoàn thành hai nhiệm vụ cơ bản, VĂN MINH GIÁO DỤC và xây dựng hệ thống DĐND - (trên nền mức sống vật chất đã đạt khá cao hiện nay).
Trách nhiệm của giáo dục là truyền tải kiến thức cho các thế hệ đi sau.
Tuy nhiên kiến thức nhà trường dù phong phú đến đâu, cũng không thể theo kịp những diễn biến phức tạp và nhanh ngoài xã hội, nhất là trong thời đại thông tin ngày nay.
 Vì thế DĐND sẽ là một bổ khuyết hiệu quả cho sự nghiệp giáo dục.

Với cơ chế giáo dục bổ khuyết này, sẽ giúp người học viên không còn cảm thấy bơ vơ bỡ ngỡ khi phải một thân một mình bước vào đời. Những cạm bẫy của cuộc sống sẽ không còn là gánh nặng hay mối đe doạ cho bất kỳ ai. Một môi trường sống như vậy là rất lý tưởng.
Hoàn thành được trách nhiệm trên, ngành giáo dục sẽ chính thức trở thành trung tâm quản lý xã hội, vì từng bước chốt chận được mọi sai lầm (tội phạm) phát sinh trong xã hội.
Như thế trong thời đại văn minh xã hội, ngành giáo dục sẽ trở nên cao quý và vinh quang hơn bất kỳ mọi ngành nghề khác. Vì nó đã là nhân tố quyết định, cho sự bình an của con người và xã hội.



I. VĂN MINH GIÁO DỤC (VMGD)
Nhưng nhìn lại tình hình giáo dục hiện nay, hình như đây đó nghe nhiều tiếng đồn về sự kém hiệu quả của nó, nhất là mặt đạo đức tinh thần (kỹ năng sống và phát triển tâm hồn).
Nguyên nhân vì phạm trù tinh thần ngày nay chưa được khai thông trong khoa học. Kết quả dẫn đến, giáo dục luôn bị khiếm khuyết trong mảng đào tạo “kiến thức nhân cách và kỹ năng phát triển tinh thần”.

Trong văn minh thời đại vai trò của giáo dục hoàn toàn khác.
Vì nó có khả năng hoàn thành xuất sắc các yêu cầu trên. Tức là khoa học tinh thàn là một phần tất yếu trong chương trình giản dạy kiểu mới.
Con người là sản phẩm của giáo dục.
Nên không ai khác ngoài giáo dục, phải chịu trách nhiệm trước xã hội và trước mỗi công dân, nếu con người không hoà nhập và phát triển thành công trong môi trường xã hội văn minh hiện đại.
Ai đó bị tù tội ư, giáo dục phải lên tiếng. Đất nước bất ổn chậm tiến ư giáo dục phải trả lời. Nhân dân chưa sống hạnh phúc ư, giáo dục phải nhận lên tiếng nhận trách nhiệm. v.v…
Vâng, tất yếu không phải một mình giáo dục phải chịu tất cả, nhưng nó phải chịu phần chính. Vì mọi nhà lãnh đạo cũng từ giáo dục mà ra, mọi công dân cùng được đào tạo từ giáo dục.
Vì thế một giáo đục đúng nghĩa, mạnh và hiệu quả, sẽ đủ khả năng nhận lãnh tất cả những trách nhiệm trên.
Đồng nghĩa với khái niệm khoa học kiểu mới, cũng phải đủ mạnh để làm bệ phóng cho giáo dục hiện đại.
Hay ta nói rằng, cả hai phải tiến lên … “văn minh khoa học” và “văn minh giáo dục”.

Trong văn minh thời đại, tất yếu phải có ‘văn minh khoa học’, đồng nghĩa ‘khoa học vật chất’ và ‘khoa học tinh thần’ cùng có cơ hội phát triển cân đối.
Khác với khoa học vật chất, trong “khoa học tinh thần” ai sẽ là nhà khoa học?
Mọi người cần thiết phải phấn đấu trở thành ‘những nhà khoa học tinh thần’.
Vì sao?

Vì mỗi đời người là một bài toán độc lập nhất định. Mà chỉ có chủ sở hữu (cá nhân) mới đủ điều kiện tìm ra lời giải tối ưu cho nó.
Năng lực chủ sỡ hữu kém lời giải sẽ kém và ngược lại.
Thực tế trên là một định mệnh ngẫu nhiên mà tạo hóa đã an bày cho mỗi đời người. Mọi người muốn tham gia giúp làm thay cũng không được. Ngoại trừ một số góp ý định hướng đào tạo …
Mọi con người sinh ra lớn lên đều không thể từ chối trọng trách thiêng liêng này. Theo yêu cầu, cá nhân phải cố gắng hoàn thành mục đích trên một cách tốt nhất.
Đó là phải hoàn thành công trình nghiên cứu về con đường trưởng thành của riêng mình.
Ta gọi họ là “những nhà khoa học tinh thần nghiệp dư”.
Nếu không như thế sự sống sẽ đóng cánh cửa lại với họ.

Để hoàn thành công việc khó nhọc trên, các nhà khoa học tinh thần chuyên nghiệp sẽ có những trợ giúp thích hợp, thông qua các chương trình giáo dục trong nhà trường, và sau nhà trường. - Cụ thể là hệ thống VMDĐ (DĐND).
Tất cả tạo thành một chu trình giáo dục khép kín, nhằm giúp mọi người có điều kiện hoàn thành tốt nhất công trình nghiên cứu khám phá và thiết kế cuộc đời mình thành công.
Đây là một sự nghiệp đáng được trân trọng, đối với bản thân và đối với xã hội.
Thành quả trưởng thành là một công trình khoa học của mỗi cá nhân, những khoa học gia trong thời đại văn minh tinh thần.
Và KHTT sẽ là bà đỡ cần thiết, giúp tất cả các cá nhân hoàn thành tốt đẹp sản phẩm công trình “ĐỜI NGƯỜI” của riêng mình.


II. SỨC MẠNH GIÁO DỤC
Văn minh giáo dục là sự kết hợp giữa giáo dục vật chấtgiáo dục tinh thần cho từng học viên.
Trong giáo dục hiện đại, tinh thần luôn đóng vai trò trọng tâm, vì nó có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nhân cách con người, đến kỹ năng quan hệ giữa người với người.
Nếu giáo dục nói một đàng thực tế đi một nẻo, giáo dục như thế là hỏng là xáo rỗng là ảo là hư … không thật, không lợi, không hiệu quả ...

Nhiệm vụ của giáo dục là làm sao cho học viên khi ra trường, phải thông thạo những hiện tượng thực tế ngoài đời, ngoài xã hội, như chính những gì đã được giản dạy trong lý thuyết. Tức là lý thuyết và thực tiễn cuộc sống phải đi đôi.
Hay chính xác hơn người học viên khi rời khỏi mái trường để tham gia vào môi trường xã hội, thì phải thành thạo đâu là công đoạn tiếp theo mình phải làm, để đạt kết quả tốt nhất. Tốt từ lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn đến kỹ năng nhận thức toàn diện xã hội.

Để thực hiện tốt hoài bão trên, rõ ràng các cơ chế vận hành xã hội đang có như hiện nay, cần được rà soát lại đồng bộ sao cho khơp với nội dung giảng dạy kiểu mới trong nhà trường.
Ví dụ: nhân cách mọi người ngoài xã hội phải đúng đắn theo qui định ... -  một vấn đề không tưởng chăng? nhưng trong văn minh thời đại nó sẽ là điều hợp lý tất yếu theo thời gian.

Bởi KHTT sẽ là cứu cánh của vấn đề.
Nó sẽ giúp con người vượt qua thành công mọi nan giải về nhân cách, về mục đích sống, về hạnh phúc đời người v.v…, mà trong thời đại hiện tại không thể.
Nếu những dự kiến trên đều trở thành hiện thực trong tương lai, thì giáo dục đã phát huy đúng với sức mạnh vốn có.
Và đấy là sức mạnh của giáo dục.
Lịch sử đã tạo ra chuyên ngành “Giáo Dục” nhưng cũng gây cho nó những khiếm khuyết. Nay nếu được đổi mới, hi vọng “khoa học giáo dục” sẽ tìm thấy lại chính mình. 


III. CHÂN LÝ GIÁO DỤC
Bản chất con người là sống và hành động theo tâm A1.
Trong tâm A1 bao gồm “KHOA HỌC VẬT CHẤT” (KHVC) và “KHOA HỌC TINH THẦN” (KHTT).

Tâm A1 có đặc điểm là không thể phát triển nhanh và thuận lợi, khi nó được đào tạo theo phương thức giáo dục áp đặt, nhồi sọ, ép buộc, mệnh lệnh một chiều, sợ hãi, bạo lực, chủ quan, vô lý, vô tình, vô cảm, vô nhân, v.v…, gọi chung là không hợp TÌNH và LÝ và cũng không hợp tự nhiên.
Giáo dục tốt là phải có nội dung truyền đạt hợp lý đúng đắn, mọi người được tự do tranh luận công khai đa chiều rộng rãi, trong sự thân thiện tình người, v.v… để cuối cùng kết quả tiếp thu tự động chạy đúng vào trọng tâm chương trình đã hoạch định.
Yêu cầu này, trong KHVC, con người đã hoàn thành tốt.
Nhưng đối với KHTT, con người chưa làm được ... vì chưa có KHTT.

 (Chú thích:
-         Biết rằng KHTT là chuyên ngành đạo tạo về sự sống, về quan hệ giữa người với người, về quan hệ giữa cá nhân với nội tâm, về kỹ năng quản lý vận hành trí tuệ của não, về kỹ năng sống hạnh phúc nói chung, v.v...  Gọi chung là đào tạo “kỹ năng sống và quan hệ”.)

Vì chưa có KHTT, nên nhận thức con người trong quan hệ, đến giáo dục chính trị xã hội (quan hệ chính quyền với nhân dân) v.v… , còn mang tính tuỳ tiện nên dễ phát sinh ‘bạo lực áp đặt’ làm phương tiện, khi lý lẽ bị thiếu trầm trọng.

Trong VMXH, KHTT đã được hình thành.
Đặc điểm của KHTT là tính trừu tượng cao, nên các khái niệm “chân lý” rất khó để nhận diện và cũng như rất khó để mọi người thống nhất đồng tình.
Nên một nội dung truyền đạt có thể đúng về hình thức (nghe “mát tai” hợp lý …), nhưng sai về bản chất nội dung. Nhưng người nghe nếu thiếu cảnh giác, thiếu kinh nghiệm sẽ rất khó phát hiện.
Đặt biết nếu mới nghe lần đầu thấy hay lạ, dễ ngộ nhận nó là chân lý.
Cộng với uy tín người (bằng cấp lý thuyết) giới thiệu, thì sự ngộ nhận càng lớn hơn.
Nhưng quên rằng trong khoa học, cái đúng, cái chân lý, phải được kiểm tra trong thực tiễn về thời gian và trong mọi hoàn cảnh. Chỉ khi nó đạt thành công tuyệt đối thì mới được công nhận.

Thế nhưng trong thực tế, do nhiều áp lực và do tính phức tạp của chân lý trong KHTT, nên nhiều người đã vội kết luận đây đó …  là ‘chân lý’, trong khi thời gian và điều kiện kiểm nghiệm chưa hội đủ.
Lâu dần cái “đúng” giả được công nhận, lần sau và sau nữa v.v… cũng công nhận (cho dù thật bại ứng dụng đã xuất hiện nhiều), nhưng vì do thành quen, do lười kiểm tra, do tham vọng, do hoàn cảnh, v.v… Nên lâu dần thành quen, thành khó sửa, thành “hè nhau” tung hê … cái ‘đúng giả’ là ‘đúng thật một trăm phần trăm’, là “chân lý”, v.v…
Đến khi đối diện trước cái ‘đúng thật’ hay ‘chân lý thật’, thì con người không còn khả năng phân biệt, hoặc có phân biệt do bản chất lương tâm, nhưng từ chối công nhận lẫn tiếp thu … vì hoàn cảnh vì lòng tham v.v … không cho phép. 
Trong KHTT, một giá trị được gọi là chân lý, là khi nó công khai ra, và đươc mọi người công nhận từ nhận thức đến kết quả thực tiễn trên mọi khía cạnh không thời gian.

 (Chú thích:
-         Một nội dung đúng (lẽ phải -chân lý) được mọi người đa số công nhận, nhưng có một thiểu số người không công nhận do bị thói quen của tâm A2 chi phối.
Trường hợp này nếu phân tích kỹ, họ có thể chấp nhận về lý nhưng về tình thì chưa.
Nếu trường hợp tình và lý đều không chấp nhận (A2 mạnh), thì tối thiểu họ cũng không đưa ra được một phản biện hợp lý nào để mọi người công nhận (xã hội hay thế giới).
     
-         Đến đây chân lý có thể tạm kết luận về lý thuyết, phải chờ chứng minh thêm trong thực tiễn.- Có những trường hơp phải kéo dài thời gian (nhiều năm).
Tuy nhiên lúc này, ai giác ngộ trước (công nhận chân lý) vận dụng trước, ai chưa thì chờ kết quả chứng minh.

-         Vì thế vai trò của giáo dục từ sớm rất quan trọng, sai một li đi một dặm, … gây giác ngộ chậm.)

Trong thực tế phương pháp giáo dục “đúc khuôn”, thường được áp dụng trong lĩnh vực tinh thần. Khi việc chưng minh ‘chân lý tinh thần’ quá nan giải.

(Chú thích:
-         KHTT chứng minh, bản thân nó có chân lý như KHVC. Nó chỉ khác về phương thức biểu hiện - chủ yếu bằng cảm nhận của ‘tâm giác’ là chính, kỹ năng này có thể được đào tạo hoàn toàn bằng con đường giáo dục. (xem thêm tác phẩm “Ý Thức”)
-         Bên cạnh có thêm lý lẽ minh chứng, kết hợp với kết quả ứng dụng thực tiễn.
-         Tuy nhiên kết quả ứng dụng thực tiễn, thường bị trãi rộng ra về không thời gian, nên nhiều người khó quan sát thấy. – Vì vậy đây là lý do phổ biến để các học thuyết hay quan điểm ‘phi chân lý’, có cơ hội nhảy vào tự khai là “chân lý”, để tồn tại và gây kết quả tiêu cực.
-         Nhưng theo qui luật tự nhiên, các giá trị ‘phi chân lý’ sẽ tự động tàn lụi, chỉ chừa lại các giá trị ‘chân lý’ đúng nghĩa trường tồn với thời gian.
-         Cuối cùng là nguyên tắc công khai tranh luận (rộng khắp xã hội), sẽ là liều thuộc thử đặc biệt hiệu nghiệm, để phát hiện ra ‘phi chân lý’ ngay tức thời, trong điều kiện xã hội đã tìm ra ‘chân lý’ đúng nghĩa thành công.
)

Đặc điểm của “đúc khuôn” là áp đặt bằng mọi hình thức, từ quyền lực đến tình cảm lý lẽ, v.v… nhằm mục đích đào tạo nhân cách phát triển theo mẫu đã định trước (nhưng trái tự nhiên).
Thông thường người tiếp thu có thể biết hoặc không biết mình đang bị “đúc khuôn” nhân cách, quan điểm.
Vì họ bị nhầm lẫn bởi HÌNH THỨC LÝ LUẬN của nội dung giáo dục là tốt và hợp lý, kể cả được cho tranh luận tự do thoái mái (nhưng không thấy bị qui định một chiều, không được lý luận chứng minh ngược) nên càng tin hơn.
Kết hợp với nó là những lôi kéo về tình cảm, về quyền lợi vật chất, về các lợi thế đời sống xã hội, về những hứa hẹn tương lai (khó kiểm chứng), … kể cả đe doạ quyền sinh tồn …

Người thường, nếu không để ý, sẽ không thấy phương thức nội dung giáo dục như trên là phiến diện, là sai lầm, là ngộ nhận, là độc ác, là bất lương, v.v...
Vì trong giáo dục tinh thần, BẢN CHẤT CỦA NỘI DUNG LÝ LUẬN so với QLTN mới có giá trị quyết định. Tức là CÁI LÝ CỦA TÂM phải thông, sau khi mở rộng tranh luận đa chiều trên phạm vi toàn xã hội (nhiều người, đa dạng quan điểm) nếu cần.
 – Đây là vấn đề khó thực hiện khi chính quyền cố tình ngăn cản một cách bất chính. Với lý do khó thực hiện, tốn kém, không cần thiết, trình độ dân trí thấp (cho dù đã giúp đánh thắng bao nhiêu giắc to đầu), xem thường lãnh đạo, phản động, muốn phá hoại khối đại đoàn kết, chống lại nhân dân, chống lại đường lối sáng suốt, v.v… Và nhất là khi ‘chân lý sống’ đúng nghĩa chưa được xác lập để cạnh tranh song song.
Tất cả như trên gọi chung là giáo dục áp đặt theo kiểu “đúc khuôn”.

Sự sống từ lâu đã có chân lý riêng của nó.
Để tiếp thu chân lý sống, con người cần được giáo dục một cách tự nhiên hợp lý. Tức là ngoài các kỹ năng giáo dục thông thường, người học còn được khuyên khích tranh luận công khai đa chiều không giới hạn, kể cả trên phạm vi xã hội loài người (internet).
Vì phạm vi tranh luận càng rộng thì tính chân lý trong lý luận nhận thức càng thêm sáng tỏ và đúng đắn. Nên không gì phải ngại hay cấm đoán.
Trong khi các “chân lý” khác thì sợ nguy cơ vượt rào, phá sản “chân lý”.
Ngược lại một ‘chân lý đúng’ không bao giờ sợ bị phá sản, cản mở rộng càng tăng giá trị thành công.

Bản chất của tinh thần là một phạm trù mang tính khoa học.
Do vậy mọi tranh luận theo phương pháp luận lôgíc khách quan đa chiều đều dẫn đến kết quả tốt đẹp, đúng với dự kiến kết quả.
Trong khi những giá trị phi chân lý không bao giờ thực hiện được như trên, cho dù về hình thức nó cho cảm giác rất hợp lý rất đúng, kể cả rất hợp tình nữa.
Chân lý giáo dục trong KHTT có tính ưu việt hơn ở nguyên tắc này.
Như thế nó là chân lý khách quan, còn lại là chân lý chủ quan.
Ngoài ra không còn một phương pháp nào khác hiệu quả hơn, trong phân biệt ‘chân lý sống’ (cá nhân hay xã hội).

HTNT là một gợi ý mở đường để con người cùng tranh luận tìm ra chân lý trong KHTT.
Sự sống bắt đầu từ chân lý gốc (CLG). Nó có nhu cầu được mọi người mở rộng thành các lẽ phải- chân lý (LPCL) đa dạng, nhằm lý giải các hiện tượng mâu thuẩn trong sự sống, trong quan hệ. (xem “Ý THỨC”).
Chân lý suy cho cùng là các nhận thức lẽ phải thông dụng, mà con người đã vận đụng từ lâu trong đời thường. Nhưng thực tế nó thành không có, không thấy, là vì con người chưa tìm ra phương thức (học thuyết) chứng minh giá trị đúng đắn của nó.
Vì chưa chứng minh được, nên tưởng nó không có.
Do không có, nên ‘chân lý’ được hiểu là ‘không chân lý’, tức là điều sai trái. Ngược lại điều sai thì cho nó là ‘chân lý’ -  thường là do “kẻ mạnh” qui định.
Nhưng thực tế chứng minh, không ‘chân lý- kẻ mạnh’ nào đúng cả, vì chúng không nhất quán nên phủ quyết lẫn nhau, thành không ai chịu nghe ai. Sinh loạn và sụp.

Cuối cùng chân lý tuỳ mỗi người cảm nhận và kết luận theo cách riêng.
Hay người ta nghĩ rằng chân lý phải do các cá nhân đặc biệt nghĩ ra, nhờ thần linh mách bảo, hay do bẩm sinh thiên phú, v.v...
Xã hội thành đa chân lý, sự sống thành lộn xộn.
“Lộn xộn” là môi trường lý tưởng của bạo lực và cái ác lên nắm quyền.
Cái ác phát sinh, lại nhân danh quyền duy trì trật tự “chống lộn xộn” … để triệt hại những biểu hiện tích cực nào không lợi cho “ác”.
Ác chồng ác, rối thêm rối … đời sống tinh thần bị bế tắc, xã hội bất ổn, bệnh tâm thần gia tăng, v.v…

Hướng nhìn về lương tâm (A1) sẽ giúp con người tìm thấy lối thoát.
Mục đích lớn nhất của giáo dục là phát huy bản chất sống tích cực của con người.
Làm người mà không làm chủ được bản chất tích cực của tinh thần, là sự sống xem như mới chạy được nửa công suất. Sự sống thành kém.
Chỉ vì thiếu chân lý dẫn đường, nên mọi người chạy bổ vào nhau để tìm đường sống, thành gây tai nạn mọi nơi. Công suất người khoẻ mạnh giảm.

Vật chất có nguyên tử làm nhân trung tâm điều khiển.
Con người sống bằng tinh thần, có trung tâm A1 làm tâm điểm điều khiển.
Biết tâm, con người sẽ làm chủ chân lý, làm chủ nhân cách, làm chủ cuộc sống cá nhân và xã hội, cũng là làm chủ tương lai.

Khi mức sống vật chất đã cơ bản, thì vốn phát triển giá trị tiếp theo của đời người, chỉ có thể là vốn sống tinh thần. Vốn sống tinh thần chỉ có thể là kỹ năng làm chủ tâm A1.
Làm chủ tâm A1 là làm chủ kỹ năng tư duy ý thức và tư duy vô thức (tiềm thức), tức là làm chủ sự sống và quan hệ.
Thiếu nó mục đích đường dài sẽ thất bại, lợi ích bề rộng kém phát triển, chất lượng bề sâu kém.

Loài người từ lâu sống trong kém chất tinh thần như trên.
Vì thế, từ một dân thường đến các nhà lãnh đạo, đến các khoa học gia v.v… , đều ít nhiều khổ tâm trước những bất thường của cuộc sống.

Tiềm thức (vô thức hay tâm) là do ý thức , cộng bản năng , cộng thời gian , tạo thành.
Ý thức do ý chí quyết định, bản năng tích cực do A1 định hướng, thời gian tạo kết quả ổn định.
Công thức trên đã do tạo hóa định luật từ muôn đời.
Muốn làm chủ sự sống, đạt kết quả tốt đẹp lâu dài toàn diện, công thức trên cần được con người vận dụng nhuần nhuyển thành công.

Loài người đã thử vượt qua giới hạn của công thức trên từ nhiều ngàn năm qua, nhưng thất bại đến nay đã rõ.
“Đời cha ăn mặn, đời con uống nước” kéo dài, vô tình cản trở các thế hệ sau tìm ra chân lý sống. Do bị che phủ bởi dưới nhiều tầng lớp tập quán nhận thức đè lên lý trí tình cảm, đến giáo dục cũng bị sai lệch mục tiêu.
Nay có điều kiện từ tốn nhìn lại toàn diện và xuyên suốt cuộc sống, hi vọng mọi người sẽ khám phá ra chân lý giáo dục, cũng là chân lý sống.
Biết nguyên nhân gốc tại đâu, sự sống sẽ thoát được vòng lẩn quẩn, không còn đúng sai xoay vòng lẫn lộn.
Có chân lý giáo dục, sự sống con người và xã hội sẽ sớm đi vào ổn định trật tự và phát triển lành mạnh.
Đó là nhiệm vụ vinh quan của VMGD trong một VMXH.


IV. LỢI ÍCH CỦA VMGD
Sản phẩm của giáo dục là “con người trưởng thành toàn diện tốt đẹp”.
Con người trưởng thành là tính từ cơ thể đến trí tuệ.
Trí tuệ trưởng thành là vốn tinh thần, là nguồn lực của phát triển.
Muốn nguồn lực trên đạt hiệu quả hoạt động cáo nhất, nó cần có kỹ năng vận hành trí tuệ hiệu suất nhất.
Và đây là nhiệm vụ của VMGD.

Trí tuệ có lõi là tâm (tiềm thức), tâm có nhiệm vụ điều khiển trí tuệ, tạo thành kỹ năng sống và vốn sống của một nhân cách.
Ý thức chi phối được tâm, nhận thức và hành động chi phối được ý thức.
Nhận thức và hành động tạo ra “ý nghĩa” của mỗi việc làm, mỗi lao động (trí óc hay chân tay).

Đặc điểm của tâm là ghi nhớ mọi “ý nghĩa” phát sinh trong lao động, dưới dạng các cảm giác (cảm xúc).
Sau nhiều lần nó tích tụ cảm xúc thành một “quyền lực của tâm”, để cuối cùng nó định hướng ngược trở lại cho ý thứcnhận thức điều khiển lao động (hành động).
Trên đây là chu trình vận động khép khín của tinh thần (não), từ đầu vào đến đầu ra.
Nếu vòng tròn khép kín trên mang tính “đúng” (chân lý và thiện), thì nhân cách sẽ phát triển “tích cực” (thiện) ổn định lâu dài thành bản chất thiện.
Nếu vòng tròn khép kín trên tình cờ là “sai” (phi chân lý và ác), thì nhân cách sẽ phát triển “tiêu cực” (ác) ổn định lâu dài thành bản chất ác.

Để chuyển từ chu trình khép kín này sang một chu trình khép kín kia, con người phải đột phá bằng chìa khoá nhận thức.
Điều chỉnh nhận thức, sẽ điều chỉnh được “ý nghĩa” lao động.
Nhiều lần điều chỉnh “ý nghĩa” láo động, là điều chỉnh được “quyền lực của tâm” từ ác thành thiện.

Chân thiện mỹ, tình người, v.v… là các cảm xúc tốt đẹp của tâm A1.
Khi “quyền lực của tâm” chuyển sang vận hành theo chu trình thiện, tức là thoả điều kiện của tâm A1. Đồng nghĩa các tiêu chí về chân thiện mỹ v.v… đã được thoả trong quá trình phát triển vốn sống tinh thần.
Nếu quá trình phát triển như trên đạt kết quả tích cực ổn định chính mùi theo thời gian, thì cá nhân sẽ đạt mức sống “HẠNH PHÚC TINH THẦN TOÀN DIỆN” trong tâm hồn – hay còn gọi là “đắc đạo” vậy.

Con người lớn lên dưới tác động của môi trường sống (chưa có KHTT) tự phát, có khuynh hướng ngã về chu trình “sai và ác” một cách tự nhiên.
Nếu cá nhân may mắn hưởng được những tác động giáo dục tích cực của môi trường (gia đình, nhà trường, tôn giáo), cộng với ưu thế bản năng thuận lợi, có thể tránh bị rơi vào chu trình tiêu cực, để gia nhập vào chu trình “đúng và thiện”.
Nhưng do ranh giới giữa đúng (thiện) và sai (ác) từ lâu ít nhiều còn mơ hồ, nên trong đánh giá sản phẩm nhân cách con người cũng còn tương đối. Trừ phi trong một số trường hợp, đã hội đủ điều kiện thực tế để chứng minh – ví dụ “cháy nhà lòi …mặt chuột”.

Trên đây là qui trình xã hội sản sinh ra những công dân, chưa mấy minh bạch về giá trị tinh thần cho thời đại.
Vì thiếu tính minh bạch, nên một cá nhân ‘xấu’ vẫn có thể tự công khai cho mình là ‘tốt’, và “bắt buộc xã hội cũng phải công nhận như thế”. Cho dù thực tế có thể có nhiều người hoài nghi về hiện tượng trên, hoặc cảm nhận rõ đây là một sự lừa gạt gian dối, kể cả nó có thể mang tính ác.
Nhưng tất cả cũng phải đành “khoanh tay đứng nhìn” …, vì thiếu phương án xác minh giá trị thật của hiện tượng.
Kết quả là con người có thể lẫn lộn khi kết luận, đây là “nhân cách tốt” hay kia là “nhân cách xấu”, trong nhiều trường hợp.

Trên đây là thực tế khách quan mà các xã hội thường gặp, trước bài toán đánh giá ‘nhân cách con người’.
Chỉ đợi đến khi hậu quả lớn xảy ra, con người mới có thể qui kết thành tội phạm, thành đúng hay sai, thiện hay ác. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, nhiều phen cũng phải chịu đầu hàng vì có khi người gây tội chưa hẳn  đã là kẻ ác thật … vì lý do hoàn cảnh, những tác động khách quan, xa gần, v.v…
Thế là phức tạp, là chưa có lời giải xác thực.

Nhiệm vụ của VMGD là giúp con người minh bạch hoá ranh giới giữa “đúng và sai”, “thiện và ác” trong thế giới con người.
Đây là vấn đề không thể giải quyết ngay một lúc. Nó là một quá trình đào tào nhân cách lâu dài. Và đào tạo dư luận từ xa.
Để cuối cùng theo thời gian, xã hội tạo thành một lớp người, một phong trào dư luận, một môi trường nhận thức quan điểm công khai, mà nơi ấy cái thiện (chân lý) và cái ác (phi chân lý) đã được minh bạch hoá rõ ràng bởi số đông, bởi thói quen tập quán, bởi dư luận.
 Khi ấy cái đúng và cái sai mới dễ nhận rõ, và con người mới đủ khả năng phê phán về một nhân cách mà không sợ sai, không sợ “hồi mã thương” một cách vô lý và oan ức.

Trong điều kiện môi trường xã hội ngày nay, khi quan điểm sai và đúng còn đang tranh giành lẫn lộn trong từng cá nhân, trong từng gia đình và xã hội, trên thế giới, v.v… thì một nhận xét đúng hay sai thường chỉ đem lại kết quả tương đối.
Nó chỉ tuyệt đối khi VMXH tiến hành cấu tạo nên môi trường sống mới do VMGD chịu trách nhiệm xác lập.
Đấy là sự khác biệt giữa lợi ích của VMGD với các mô hình giáo dục đang phổ biến.

 Phương thức của VMGD là dựa trên các chứng minh trong KHTT, để rút ra những kiến thức hợp lý nhằm trang bị từ sớm các kỹ năng nhận thức có lợi cho mục đích phát triển tâm tích cực A1 của con người.
Khi tâm tích cực phát huy thành ưu thế mạnh, thì môi trường sống xã hội trở nên an toàn. Cứ thế qui trình tiếp tục xoay vòng khép kín theo hướng tích cực tiến lên mãi mãi.
Khép lại kiểu môi trường sống tiêu cực cũ, đúng sai lẫn lộng từ môi trường xã hội đến môi trường giáo dục. Làm người sống trong môi trường đó muốn “đúng hay thiện” cũng không xong, nên đành … ba phải “gió bề nào che bề nấy” cho yên chuyện, ấm thân.
Từ môi trường cũ tiến lên môi trường mới, là sự nghiệp tiến hoá của thời đại.

“Nhơn chi sơ tính bổn thiện”.
Thời điểm tốt nhất để giáo dục con người là lúc tuổi nhỏ. Cộng với một nội dung giáo dục đúng đắn mang tính khoa học toàn diện từ vật chất đến tinh thần, thì kết quả thu hoạch “sản phẩm con người” chắc chắn thành công như 1+1 = 2.
Trong môi trừơng văn minh xã hội, mọi người được giải đáp chính thức về mọi vấn đề cuộc sống mình quan tâm. Người có tâm tích cực, có lối sống vì lẽ phải, sẽ có cơ hội phát triển thuận lợi. Trong khi những người có tâm tiêu cực sẽ khó tìm thấy đầu ra, nên buộc cũng phải chuyển hướng tích cực theo trào lưu chung.
Lúc bấy giờ xã hội có thể phát triển nhiều hội đoàn thể đa dạng, do mọi người tự do thành lập. Nó nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt phong phú của con người, đồng thời đây cũng là một hình thức của VMDĐ, nơi mọi người có thể bổ sung cho nhau kỹ năng sống hoàn thiện. 

Trong khi chờ đợi xã hội phát triển thành nền VMGD đồng bộ, thì mỗi cá nhân có thể tự ý thức rèn luyện theo khả năng riêng, hoặc rèn luyện theo nhóm. Tất yếu phải gặp nhiều khó khăn hơn, nhưng … “trời sinh voi sinh cỏ”.
Trong trường hợp này, cá nhân có ý thức và ý chí mạnh mẽ sẽ vượt qua được tất cả.
Nói chung dù ở độ tuổi nào, địa vị xã hội ra sao, người xấu hay tốt, đều có nhu cầu phấn đấu hoàn thiện bản thân hay nhân cách. Nó như một hình thức giải trí bồi bổ tinh thần, vừa là mở mang trí tuệ, vừa là trang bị kiến thức nhằm truyền đạt cho các thế hệ tiếp theo, v.v...

Đặc điểm của phạm trù tinh thần là không giới hạn giá trị hưởng thụ trước mắt và lâu dài (hạnh phúc tinh thần).
Tuy nhiên cái dở của hạnh phúc tinh thần là hiệu quả mang lại chậm, lúc đầu khó nhận thấy, điều kiện để đạt thành công cũng rất khắc khe, phức tạp. Đòi hỏi phải có tính kiên trì, có tấm lòng thật rộng mở, khoan dung, trong sáng, v.v…
Nhưng bù lại khi đã thấy được thành quả cảm nhận từ tâm, thì không giá trị nào có thể sánh bằng.
Vì vậy mọi sự đầu tư đúng đắn đều được tận thu tận hưởng đến tận cùng, một cách xứng đáng.

Trong khi sự tận hưởng của hạnh phúc vật chất chỉ có thể trong giới hạn, đồng thời dễ làm hỏng nhân cách, mất tự chủ, ác, v.v… nếu thiếu kết hợp rèn luyện ý thức đạo đức.
Nhưng bù lại nó có lợi thế là mang lại giá trị kích thích trực tiếp ban đầu rất mạnh, rất cụ thể, rất lôi cuống, rất hấp dẫn, rất dễ thụ hưởng, và rất hiệu quả tức thời.
Kết hợp thành công hai hạnh phúc trên lại trong một đời người, là cứu cánh của VMGD.



V. NHẬN THỨC CHO TÂM
Nguyên tắc của tâm là đầu vào tốt, thì đầu ra sẽ tốt.
Đầu vào tốt khi các nhận thức cho tâm mang ‘ý nghĩa tích cực (phù hợp A1).
Nhận thức cho tâm là bao gồm các ‘tư duy nhận thức đến hành động’.
Tất cả được được hệ thống hóa lại, nhằm theo dõi sự phát triển về nhận thức và nhân cách, trong quá trình hoàn thiện hoá đời sống tinh thần.
Mục đích lớn nhất của hệ thống tư duy là tiến đến “hạnh phúc đời người”.
(chú thích: ‘hạnh phúc đời người’ theo nghĩa, “hạnh phúc cá nhân hòa trong hạnh phúc mọi người”.)

Bản chất sự sống là đa dạng phong phú, nên nhận thức về sự sống cũng rất đa dạng và phong phú.
Bản chất của tâm A1 là điều tiết sự sống theo quĩ đạo nó qui định, trong khi con người xã hội có thói quen sống phát triển tự phát tự do sai qui định. Suy ra đầu vào của tâm mang giá trị tiêu cực, kết quả đầu ra cũng sẽ tiêu cực.
Đấy là lý do con người phải rèn tâm trong quá trình sinh tồn, để không phải chịu nhiều thiệt hại mất mát đau khổ mâu thuẩn đối kháng khi ý thức sai ý nghĩa và mục đích sự sống.

Sự sống cá nhân hay xã hội là một chuỗi các vận động liên hoàn có hệ thống và toàn diện. Vì vậy một hiện tượng xảy ra, không đơn giản là do tự phát ngẫu nhiên, mà nó phải có nguyên nhân trước đó.
Nhìn một hiện tượng xảy ra đơn lẽ, có khi không thấy lý do cụ thể. Nhưng nếu chúng ta cộng chung nhiều hiện tượng đơn lẽ lại sẽ thấy nguyên nhân tất yếu của nó.
Do vậy để hiểu rõ sự sống, con người cũng cần tập đầu vào của tâm sao cho nó, hướng tư duy của não thành thói quen vận động có hệ thống phù hợp với thực tế sự sống đang xảy ra, nhưng theo góc đọ A1 .

Thế nào là hệ thống hoá đầu vào cho tâm.
Sự sống bắt đầu từ tuổi nhỏ, đến khi khốn lớn biết tự nhận thức, là cá nhân đã tích luỹ một kinh nghiệm sống nhất định. Tương ứng với nó là sản phẩm “nhân cách”, hay “cách sống” của cá nhân chủ thể.
Và sản phẩm “nhân cách” ấy có thể xấu hay tốt ...
Bài toán đặt ra là cá nhân phải lùi về quá khứ để truy nguyên lý do, vì đâu mà cá nhân có thành quả “nhân cách” như đang có. Nhằm, vừa là mục đích, rèn luyện kỹ năng hệ thống hoá tư duy một cách logic, vừa là để phát huy và khắc phục các ưu khuyết, vừa là để khám phá về bản thân.
Theo nguyên tắc, mỗi cá nhân sẽ tìm thấy một khuyết điểm cơ bản nỗi bật, bên cạnh một ưu điểm cơ bẩn nỗi bật. Và trong mỗi cá nhân, bao giờ cũng chọn một trong hai ưu khuyết này làm điểm nhấn mạnh nhất trong phát triển nhân cách.
Cái được chọn làm trung tâm phát triển nhân cách, nó phải có thân rễ chính trong quá khứ, làm nguyên nhân nuôi nó có thành quả như ngày nay. Và ta gọi than rễ này là “CÒI” rễ.
Nếu ‘còi’ mang nghĩa tích cực, thì vấn đề quá đơn giản cá nhân chỉ việc phát huy tiếp tục những gì đang thành đạt trong cuộc sống.
Vấn đề chính ở đây là đi tìm ‘còi’ tiêu cực, vì nó đang cản trở nặng nề cuộc sống hiện tại. Một là phải tìm ra ‘còi’ tiêu cực chính là gì, kế là khắc phục nó cho đến khi thành công. – Nên khái niệm ‘còi’ được dùng chủ yếu để chỉ nguyên nhân tiêu cực.

Cách khắc phục là dùng nhận thức ‘hợp lý’ khắc phục nguyên nhân nhận thức ‘bất hợp lý’, v.v... (xem “Cách Sống Mới”)

Bên cạnh thân rễ chính có các nhánh rễ phụ, hay bên cạnh ‘còi’ là các nguyên nhân của các khuyết điểm nhỏ, gọi là “CỎ DẠI”. Cũng như trên, cá nhân nên nhổ ‘cỏ dại’ cho sạch.
Nếu kết quả nhỗ ‘cỏ dại’ và triệt phá ‘còi’ thành công, thì kỹ năng tư duy não sẽ đạt hiệu suất cao, đồng nghĩa nó phù hợp với quĩ đạo A1 .
Lúc bấy giờ ‘tư duy ý chí’ của cá nhân, sẽ cảm thấy thuận lợi trong chọn lọc các ‘nhận thức tích cực‘ cho đầu vào của tâm.

Khi các nguyên nhân quá khứ được khắc phục thành công, cá nhân mới dựa trên kinh nghiệm thói quen tư duy phân tích nhân quả hợp lý trong quá trình xử lý (và đồng thời rèn luyện) ấy, để đúc kết thành ‘công thức tư duy kiến thức sống’ (kết hợp giữa ‘tư duy ý thức’ và thành quả chuyển biến của ‘tâm’) mang đặc trưng của nhân cách cá nhân đó. Hay đây cũng là ‘trình độ sống’ mà cá nhân đã đạt được.
 Kế đến cá nhân vận dụng phát huy công thức trên để áp dụng cho chặng đường sống tiếp theo (tương lai). Bằng cách chọn lọc sao cho những nhận thức và hành đông luôn đúng …, tức là đừng trái với A1 mà thời kỳ quá khứ đã vấp phải (do không biết).
Giai đoạn phấn đấu này tương đối dễ dàng hơn so với truy nguyên hoàn thiện lại nhân cách từ gốc, của giai đoạn trước.
Thế nhưng, trong giai đoạn kiến thiết tương lai này tuy có cái dễ hơn, bù lại gặp khó trong vấn đề khác.
Vì lúc này cá nhân phải đối diện và lý giải trước một rừng các vấn đề quan hệ phức tạp do đời sống xã hội đặt ra, và đòi hỏi cá nhân phải đưa ra lời giải đúng tất cả, để thoả điều kiện của A1.
Thông thường theo HTNT, cá nhân muốn hoàn thành yêu cầu trên, cần phải có sự trợ giúp từ phía xã hội (NCD). Nếu không e rằng đơn thân cá nhân khó có thể hoàn thành, hoặc nhiều lắm chỉ thành công trong phạm vi giới hạn cục bộ, còn ngoài ra … phải có một sự may mắn …

Và … sự may mắn ấy đến thật, thì quá trình diễn biến rèn luyện tiếp theo sẽ đạt thành quả như ý. Tức là đầu vào cho tâm được đảm bảo an toàn cơ bản, tính từ tuổi thiếu thời cho đến thời điểm … tương lai tương đối dài … để đủ đúc kết thành công thức chung (nguyên lý) về sự sống … - HTNT đã được hình thành theo cách này.
Một người làm được thì nhiều người cũng có thể thành công tương tự.
-         Một là, bằng phương thức tương tự như cá nhân trên, cộng với NCD, - (tập trung thay đổi trực tiếp tại ‘tâm’).
-         Hai là, bằng phương thức “Truy Ngược” tức là học sống theo thành quả quan điểm từ thành tích trên, để cuối cùng tạo sự chuyển biến tích cực ngược vào tâm, - (tập trung thay đổi trực tiếp từ hành động đến nhận thức, khi số lượng tăng chất lượng ‘tâm’ thay đổi.)
Phương thức hai dễ áp dụng hơn phương thực một. Phương thức một có thể chỉ dùng cho những ai có năng khiếu …

Theo HTNT, sự sống chỉ có một nguyên lý vận động và tồn tại dành cho loài người. Như đã biết, nó chỉ có thể là con đường của tâm A1.
Nếu kết luận trên là không sai, suy ra kết quả trên có thể áp dụng cho mọi người, trên con đường chinh phục  sự sống, ‘chân lý’ ‘lẽ phải’ cũng như ‘hạnh phúc’ cho thế giới loài người.

HTNT cũng là cơ sở để ngành “KHOA HỌC TINH THẦN” (KHTT) được đề xuất hình thành.
KHTT là một ngành khoa học nghiên cứu về tinh thần, về quan hệ, về sự sống tổng hợp nói chung.
KHTT có khả năng chứng minh vì sao có ‘cái ác’ vì sao có ‘cái thiện’, và bằng cách nào khắc phục nó thành công. Để xây dựng một môi trường sống mới tích cực, hợp lý, phân minh, v.v…
Đây cũng là ngành khoa học chịu trách nhiệm chính nghiên cứu và kết luận về “Hạnh Phúc Đời Người”.

KHTT tương tự như một tôn giáo. Nó cũng đòi hỏi người theo học phải có niềm tin. Tuy nhiên niềm tin ở đây thuộc về kỹ năng nhận thức của bản thân, dựa trên các chứng minh về qui luật tự nhiên (QLTN) được áp dụng diễn giải trên toàn tất cả các mặt của sự sống – ngoại trừ một số hiện tượng cá lẽ đặc biệt không gây ảnh hưởng đến qui luật sống.
Nếu các tôn giáo có khuynh hướng tách cá nhân ra khỏi đời sống xã hội, nếu muốn đạt đến kết quả tuyệt đối. Ngược lại, KHTT giúp con người hoàn thành tốt chức năng sống, ngay tại môi trường xã hội mình đang sống. Bằng cách chứng minh thành công mọi vấn đề đặt ra của cuộc sống, từ phạm vi hẹp đến rộng nhất có thể, chỉ với một tiêu chí duy nhất gọi là ‘CHÂN LÝ’.
“Đắc đạo” trong KHTT, đồng nghĩa với cá nhân đạt thành công về ‘Hạnh Phúc Vật Chất’ và ‘Hạnh Phúc Tinh Thần’” trong đời người.
Sự đắc đạo ấy tất yếu xảy ra trong cuộc sống hiện tại, và làm sao để tất cả mọi người cùng đạt như thế.

Trong KHTT, nhận thức đi đôi với hành.
Niềm tin người học sẽ được củng cố dựa trên kết quả thực hành về kiến thức vật chất và tinh thần. Theo nguyên tắc nhận thức đúng thì kết quả phải đúng, sự sống phải vui sương và hạnh phúc.
Theo QLTN, sự sống là một chuỗi dài lý lẽ liên kết rất hợp lý và logic. Mọi con người khi được thông lý kịp thời và đầy đủ, đều có thể tìm ra những kết luận giống nhau về các hiện tượng sự sống.

Bản chất sự sống là một khối tồn tại thống nhất, dựa trên một nguyên lý vận hành thống nhất. Nên mọi cá nhân dù bắt đầu từ đầu mối nhận thức nào, cũng đều có thể lần theo mối dây nhận thức (và hành động) để truy ra điểm cuối gắn vào QLTN (nguyên lý sống).
Tất cả theo nguyên tắc, mọi vận động của con người đều liên quan mắc xích chặt chẽ với nhau như hình với bóng. Chỉ có khác là nó đi đường vòng xa, hay trực tiếp gần. Trường hợp “đường xa”, thành khó hiểu nên sinh mâu thuẩn (hiểu lầm), trường hợp “đường gần” ai cũng hiểu nên dễ đoàn kết.
Và thế giới sự sống hiện nay trở nên phức tạp, là do còn dùng nhận thức … theo kiểu “đường xa”, mà thiếu những người biết chứng minh nó cũng là “đường gần”.
“Đường xa” lâu ngày nhân cách biến dạng … ác dần.
“Đường gần” lâu ngày nhân cách ổn định tự chủ … đắc đạo.

Sự sống là một khối thống nhất. Xã hội là một khối thống nhất. Cá nhân là một khối thống nhất. Cộng cả ba lại thành một khối thống nhất về sự sống.
Dù đứng ở góc độ nào, cũng có dùng phân tích lý luận lần mò ra đầu mối của hiện tượng tồn tại ở các vị trí còn lại. Đây là cách giúp con người có thể tìm ra đáp án lý giải mọi hiện tượng, và phương án khắc phục cho nó.
Như thế, mỗi đời ngươi là một chuỗi nhận thức, nếu biết cách mở và lần theo có thể hình về khả năng và tương lai  ... Nhưng hiệu quả nhât là trong môi trường VMXH, nơi đó tất cả mọi hiện tượng gần như đã hoàn thành tiêu chuẩn hoá.

Con người ngày nay phần nhiều quen sống thiếu trật tự trong tư duy và hành động, nên việc xét đoán trở nên phức tạp. Thành quả sống cũng phức tạp.
Để sự sống được bình yên và hiệu quả, tốt nhất là con người nên chỉnh sửa nó, bằng cách … “khai tâm”. Tức là cá nhân tìm xem ‘tâm A1 ‘ đang ở đâu, và tạo điều kiện phát huy nó lên.

(Lưu ý: trong ‘tâm A’ có tâm tiêu cực A2tâm tích cực A1. Chữ  ‘tâm’ trong đời thường, được dùng theo nghĩa của ‘tâm A1’, nhưng nghĩa của ‘tâm A1’ rộng hơn ‘tâm – dân gian’ - (xem “Cách Sống Mới”). Như thế “khai tâm” cũng có nghĩa “khai tâm A1”.)

Một số gợi ý về ‘khai tâm’ (phát huy cái chân thiện, cái tốt bên trong):

1. Hướng sự chú ý vào nội tâm, để hình thành thói quen tư duy liên thông giữa ý và tâm. - Điều kiện để sau này dùng ý chủ động làm chuyển tâm.
Ví dụ: nhìn vào tâm trạng vui, buồn, lo lắng v.v… mỗi khi ta làm việc ‘đúng’ hay ‘sai’, và mong muốn chỉnh sửa lại nó theo hướng tích cực. Như thế là bước đầu của khai tâm.

2. Trong mỗi hành động ta gắn cho nó một ý nghĩa tích cực (mục đích tích cực), như thế là củng cố sự bền vững cho thành quả khai tâm.
Mỗi ý nghĩa tích cực của hành động, là mỗi lần cá nhân đã thông lý.
Trong sự sống, con người cần nhiều thông lý như cây cần có nhiều nước.
Xã hội càng phát triển thì sự thông lý trở thành điều kiện sống còn của phát triển.
Sự thông lý toàn diện, đồng nghĩa kết quả ‘khai tâm’ đã đi đến “đặc đạo” hay “chánh quả” hay “hạnh phúc trọn vẹn”.
Ví dụ:
- Làm việc gì cũng tính lợi cho bản thân và cho mọi người (khai tâm).
- Làm việc gì cũng gian dối, lừa gạt, v.v … hại người lợi mình (bế tâm).
- Mọi người góp tiền cứu trợ vì việc chung (khai tâm), nhưng cá nhân chiếm lấy hết (bế tâm).

3. Khai tâm là tốt nhưng cần hệ thống hoá tất cả các nhận thức và hành động lại, nếu không nó sinh mâu thuẩn. Cuối cùng kết quả thành bế tâm.
 ‘Bế tâm’ sẽ làm kỹ năng trí tuệ kém phát triển, chất lượng sống giảm, nhân cách có nguy cơ biến dạng từ ‘thiện’ thành ‘ác’, v.v…
 Môi trường sống ngày nay rất đa dạng và phức tạp, nếu cá nhân không hệ thống hóa các hành động (suy nghĩ) theo một tiêu chí nhất quán chặt chẽ,  thì nhất định sẽ bị lạc đường đến tâm.
Đây là hiện tượng đang phổ biến trong xã hội hiện đại.
Ví dụ:
-         Hôm nay cá nhân làm việc thiện (tích cực), nhưng hôm sau buôn bán gian lận (tiêu cực). – Kết quả khai tâm bằng không.
-         HTML đề ra mục đích “tất cả vì nhân dân” (tích cực), nhưng trong thực tiễn cá nhân không được làm chủ trên mãnh đất của mình. Hậu quả “người cày không có ruộng”. (tiêu cực). – Kết quả khai tâm bằng không cho những ai thi hành đường lối này.
-          
Trong ba nội dung trên, hai gợi ý đầu dễ thực hiện. Riêng gợi ý thứ ba không dễ làm, vì nó liên quan đến cơ chế xã hội.
Khi cơ chế xã hội không vận hành song song với tâm A1, vô tình nó buộc con người phải sống và hành động trái với lương tâm. Trong khi từng cá nhân đều có nguyện vọng sống theo lương tâm, để được khai tâm.
Hậu quả là những việc nhỏ dễ thì làm đúng với lương tâm, nhưng khi mở rộng ý nghĩa lên phạm vi xã hội, thì thành sai. Hệ thống tư duy lý giải của cá nhân bị bế tắc. Cuối cùng phải nhắm mắt làm theo mệnh lệnh v.v…, trí tuệ, nhân cách, xã hội … bị thoái hoá dần.
Vì lý do trên HTNT được giới thiệu như một đáp án tối ưu cho mục đích hệ thống hoá, từ lý luận đến thực tiễn, cho đối tượng nhận thức cá nhân đến xã hội và trên thế giới.
Nó không khó để tìm ra lời giải, nhưng khó ở thói quen cũ đang bám ở tâm A2  nó tích cực cản trở nhận thức của con người, kế đến là hệ thống cơ chế xã hội cho phép ưu thế thuộc về tâm A2.
Tức là mục đích của khai tâm, là dùng ‘LÝ LẼ’ làm quyền lực chính cho sự sống. Trong khi xã hội văn minh đang loay hoay dùng ‘VŨ KHÍ’ làm quyền lực chính, mỗi khi lý lẽ bế tắc.
Cuối cùng phải nhờ đến QLTN, là quyền lực cuối cùng trong xử lý. Thời gian và bản chất sinh tồn là hai yếu tố cơ bản của đáp án.



VI. MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN

1 °
Vấn đề.
Ta xét một hành động:
-         có mục đích sống thứ nhất là B, “cảm xúc B” xuất hiện. - (gọi B là đối tượng vật chất (+ cá nhân chủ thể hưởng thụ vật chất). )
-         và mục đích sống thứ hai là A, “cảm xúc A” xuất hiện. - (gọi A là đối tượng người (+ cá nhân chủ thể hưởng thụ tinh thần). )

Thông thường trong cuộc sống, con người có hai nhóm mục đích sống song hành với nhau trong mỗi hành động. Một nhóm mang tính quan hệ vật chất, một nhóm mang tính quan hệ con người.
Ví dụ :    - tôi kiếm tiền     (“tiền” là mục đích B)
              - nhờ bán rau     (“rau” là mục đích B)
              - tiền đó dùng cho tôi   (“tôi” là mục đích A).
              - và cho cha mẹ tôi   (“cha mẹ” là mục đích A).

Nhóm mục đích B gợi về ý nghĩa “số lượng” (hưởng thụ vật chất).
Nhóm mục đích A gợi về ý nghĩa “chất lượng” (hưởng thụ tình người).
 Hay là:
- nhóm mục đích B mang tính ‘vật chất’
- nhóm mục đích A mang tính ‘tinh thần’.

Trong cuộc sống để có hạnh phúc, theo nguyên lý tự nhiên, con người muốn được thỏa (vui) mọi mục đích sống. Tức là muốn được thành công trên cả hai nhóm mục đích A và B.
Ta đặt :
                                        Cảm xúc C = hạnh phúc toàn diện
ta có công thức :

           Cảm xúc C  =  cảm xúc A (vui) + cảm xúc B (vui)                 (1)                  
     
Tuy nhiên trong cuộc sống, do tự nhiên, con người THÍCH ‘cảm xúc B’ nhiều nhất (vui) – vì nó dễ hiểu dễ hưởng thụ, v.v…. , ngược lại ÍT THÍCH ‘cảm xúc A’ (buồn) - vì nó khó hiểu khó thực hiện, không dễ hưỡng thụ v.v…
Suy ra, phương trình (1) trở thành :

           Cảm xúc C  =  cảm xúc A (buồn) + cảm xúc B (vui)                     (2)                  
        
Có nghĩa là lâu ngày cá nhân quên luôn mục đích ‘cảm xúc A’ trong hành động.
Phương trình (2) thành :
           Cảm xúc C  =  cảm xúc B (vui)                                               (3)                  

và con người ngộ nhận:
                               “Hạnh phúc toàn diện  là do cảm xúc B quyết định
Nhưng thực tế cuộc sống chứng minh ngược lại. Sau khi đã có ‘cảm xúc B’, con người không tìm thấy ‘hạnh phúc toàn diện’, mà có khuynh hướng chuyển thành đau khổ (buồn).
Kết luận cho thấy con người đã mắc sai lầm khi bỏ ‘cảm xúc A’ chỉ chọn ‘cảm xúc B’ đơn thuần.

Suy ra sự sống con người và xã hội bị trả giá.
Do tình người bị mất dần, tội ác gia tăng, xã hội chia rẻ, phát triển bị khủng hoảng theo chu kỳ, v.v…
Đó là hiện tượng máy chạy bị nóng, hư, nổ, vì thiếu dầu.
Cuối cùng máy bị nổ thành … nổi loạn, nổ ra cách mạng ...

2 °
Diễn giải.
Dầu nhớt có nhiệm vụ CÁCH LY vật chất không tạo ra ma sát, và CHIA LỰC đều ra mọi nơi để tạo thành TỔNG LỰC hợp lý,
‘Tình người’ (tinh thần) là loại dầu nhớt cần cho bộ máy xã hội, cho quan hệ con người.
Có ‘tình người’ (tinh thần), sự cạnh tranh quyền lợi vật chất trở nên nhẹ nhàng (thi đua), không còn bị ‘QUÁ NÓNG’ như hiện nay. ‘QUYỀN LỰC XÃ HỘI’ sẽ được CHIA đều ra cho nhân dân, không còn TẬP TRUNG vào một nhóm thiểu số độc quyền, gây mâu thuẩn xã hội (nóng máy do bị cọ sát quá lớn tại một vị trí) thành hư và bế tắc … cuối cùng sẽ ‘nổ đấu tranh’.
Xã hội TB tuy có nhẹ hơn (tam quyền phân lập) nhưng vẫn không an toàn. Xã hội CS là một kiểu mẫu về hiện tượng tập trung quyền lực quá lớn vào một chỗ (dễ tạo cho con người có lòng tham vô đáy).

Con người sống và phát triển đến ngày nay là một phần nhờ có ‘tình người’, đã bôi trơn các quan hệ. Tuy nhiên nó đã phải thường xuyên bị tắc, do nhận thức con người và xã hội chưa thông.
Ví dụ:
+ nhờ có tình người (tinh thần) mà cha mẹ và xã hội nuôi (vật chất) con cái khôn lớn. (cảm xúc A + cảm xúc B)
 -   Nhưng con cái lớn khôn thường chỉ chú ý đến ‘cơm áo gạo tiền’ (cảm xúc B), mà quên công ớn (cảm xúc A) của cha mẹ, của xã hội.
+  Từ sự yêu mến (tinh thần) nhân dân góp công sức (vật chất) xây dựng nên chính quyền.  (cảm xúc A + cảm xúc B)
 -   Nhưng khi lên nắm chính quyền, con người chỉ nhớ quyền lực và quyền lợi (cảm xúc B), mà quên trả ơn (cảm xúc A) xã hội. – bằng cách hỏi mọi người (toàn dân, chứ không phải chỉ hỏi một thiểu số người chọn lọc) muốn gì và đáp ứng theo nguyện vọng của họ.

Sự sống thành công là nhờ ‘cảm xúc A + cảm xúc B’ kết hợp lại, thiếu một trong hai đều là thật bại, là TRÁI TỰ NHIÊN.
Nếu trái tự nhiên, ‘cảm xúc B’ sẽ luôn bị ‘cảm xúc A’ trừng phạt (lương tâm và tâm hồn mãi mãi không bình yên, xã hội bế tắc, …).

Ưu tiên ‘cảm xúc B’ lâu ngày thành quen, thành nghĩ rằng thế gian này chỉ có nó là chân lý sống.

Trong khi theo QLTN, ‘cảm xúc A’ LUÔN PHẤN ĐẤU hóan đổi vĩnh viễn ngôi vị hiện tại của ‘cảm xúc B’ xuống để thế chỗ.
Cho dù thực tế rất khó, vì nó đã tạo thành bản chất thứ hai sau bản chất thiện thuộc bản năng gốc của con người.
Nếu chỉ sửa chữa điều chỉnh một vài hành động đơn lẽ, hay đối với một số người, thì không khó. Nhưng hoán vị cả một nhân cách, hay cả một xã hội, thì rất khó.

Tất cả là do tuổi nhỏ đã thần tượng hóa vật chất. (cảm xúc B)
Nên đầu ra khi lớn lên MẤT KHẢ NĂNG (hoặc kém) về ‘cảm xúc A’, là hiển nhiên.
Từ mất khả năng trên, con người càng lao vào mục đích “kiếm tiền” (vật chất) để bù đắp khoảng trống, do bị thiếu hụt vô hình trong cảm xúc. Nhưng chỉ làm hậu quả càng trầm trọng hơn.


3 °
Đáp án.

     A) -  Để khắc phục sự khiếm khuyết trên:
Bước 1: tìm hiểu cơ chế tâm, xác định bản chất sự sống thuộc về A1, với ‘cảm xúc A và B’ phát triển hợp lý.
Bước 2: do A1 là biểu tượng của QLTN đối với sự sống con người, nên việc tiếp theo là so sánh lý giải sự khác giữa thực tế sự sống tồn tại với những qui định tại A1, để hiểu ra điều gì cần chỉnh sửa lại cho đúng.
Bước 3: để tạo điều kiện việc chỉnh sửa thành công, xã hội cần xây dựng hệ thống DĐND rộng khắp, để mọi người thuận lợi trong phát huy thế mạnh tổng hợp nhằm đáp ứng hiệu quả những vấn đề đặt ra từ sự sống.

Làm người ai cũng có ưu khuyết khác nhau, nhưng khi cộng chung lại tất cả sẽ bù đắp cho nhau chỗ khuyết, để cuối cùng tìm ra giá trị hoàn thiện của chân lý sống.
Từ đây mỗi con người sẽ soi rọi lại mình, phát hiện ra điểm khuyết nào cần cải thiện để nâng cao trình độ và chất lượng sống, cho bản thân và cho xã hội.

Để thực hiện 3 bước trên, HTNT đã hoàn thành phần đề xuất lời giải cho bước một và hai, vấn đề còn lại chỉ là xây dựng hệ thống DĐND. Để mọi người có nơi tự do tranh luận, tìm và định ra con đường phát triển chung của xã hội
 Vì chỉ có tranh luận công khai tự do của số đông toàn xã hội, thì hiện tượng ‘bị áp đặt chủ quan quyền lực’ mới không còn, điều kiện tối quan trọng để “tiếng nói của lương tâm” biến thành quyền lực trung tâm của sự sống (thay thế quyền lực chủ quan của các “kẻ mạnh” đã tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử).
Đây là điều kiện thuận lợi duy nhất để con người được sống trong sự công bằng hạnh phúc, như đã hằng mong ước.
Theo chứng minh, HTNT là tiền đề cần thiết để DĐND phát huy hiệu quả. NCD là những nhân tố tuy không mang tính quyết định cho sự thành công, nhưng sẽ góp phần mang lại hiệu suất cao cho diễn đàn, hạn chế bớt sai lầm và thời gian hao phí.


  B) -  Một số lý giải thực tế.
Một lời nói ra hiếm ai nhận mình là chủ quan sai lầm.
Vì thế để xác minh một lý lẽ là khách quan đúng đắn, không phải là việc dễ.
 Nhất l trong thời đại ngày nay khi vốn kiến thức sống của con người rất phong phú, quan điểm sống đa dạng. Đồng thời ngoài xã hội đang còn tồn đọng nhiều vấn đề lớn nhỏ phức tạp chưa có lời giải rõ ràng, v.v…
Nên để phân tích chứng minh một hiện tượng, một quan điểm, một nhân cách, v.v… là đúng hay sai, là rất khó trong nhiều trường hợp. Phải tốn nhiều chữ nghĩa tranh luận kể cả hành động, mà kết quả đạt cũng không bao nhiêu.
Trừ một số trường hợp, hậu quả đã xảy ra công khai rõ ràng, thì “trắng đen” có thể thống nhất rõ ràng bởi còn thiếu  … chính quyền (?).

Song theo HTNT thiên nhiên tạo ra loài người để sống sung sướng và hạnh phúc, chứ không phải để đau khổ.
Vì thế dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, con người rồi sẽ vượt qua tìm đến đích đã định bởi … số trời.
Trong điều kiện môi trường xã hội phức tạp như ngày nay, nếu muốn tìm lý lẽ khách quan (lương tâm) không thiếu. Chúng ta hãy đến những nông dân ruộng đồng, những công nhân làm việc chăm chỉ hiệu quả, những nhà khoa học giỏi chuyên môn, có ý thức phụng sự xã hội, v.v…
 Hoặc những người lao động khiêm tốn cần cù, chấp nhận vui sống vời hoàn cảnh khó khăn, v.v…
Tất cả họ là những tấm gương về lương tâm (người tốt), về những lý lẽ khách quan, mà xã hội có thể tham khảo đối chiếu với những lý lẽ của các nhân cách chủ quan, mà về vật chất quyền thế không thiếu ...

(Chú thích:
-         Con người trong bộ máy chính quyền (M-L) là dễ bị biến chất nhanh nhất (mất lương tâm), đặc biệt các vị trí liên quan sâu đến ‘quyền lợi’ và ‘quyền lực’.
-         Vì trong học thuyết M-L không có khái niệm lương tâm (tinh thần). Nó chỉ chú trọng đến thành tích kết quả. Hay nó chỉ chú trọng đến nguyên nhân và thành quả hình thức (số lượng). Nên nó cần lớn nhất là ‘CHÍNH QUYỀN’ để có ‘QUYỀN LỰC’ (chủ quan), và từ quyền lực HTML đi tìm tương lai (bất kể khái niệm lương tâm) – vì vậy HTML chưa bao giờ tự cho mình đã hoàn thiện, hay đúng tuyệt đối, nhưng những người vận dụng thì cho nó là như vậy, áp đặt nó là như vậy ...
-         Suy ra cái ác trong xã hội M-L đã được hợp pháp hoá, khi người ta vận dụng. Và con người làm việc trong môi trường ấy rất dễ bị thoái hoá nhân cách đạo đức, vì không được bồi dưỡng về giá trị của LƯƠNG TÂM.
-         Luật nhân quả phản ánh rất rõ trong xã hội ML. Cho dù chính quyền rất cố gắng sửa sai, nhằm củng cố TÍNH CHÍNH DANH. Nhưng khi “nhân” còn thì “quả” sẽ lớn dần.

-         Ngược lại HTNT chú trọng tìm nguyên nhân và thành quả nội dung (bản chất). Nên cái cần lớn nhất là ‘CHỈNH SỬA TÂM’ để có ‘QUYỀN LỰC’ (khách quan) - nơi tình người và chân lý. Từ đây HTNT đi tìm mô hình sống tương lai.
-         Tương lai bắt đầu từ, đào tạo ‘nhân cách’ sống có ‘lương tâm’ lên hàng đầu. Chỉ khi ấy con người mới có đủ kỹ năng và thói quen để NGHE RA LẼ PHẢI và CHÂN LÝ là gì.
Nếu không như thế, một nhân cách đã hỏng thì khi nghe ‘lẽ phải và chân lý’ sẽ thành bằng không, mà có khi họ “dũng cảm” định nghĩa ngược lại “không lương tâm, mới là lẽ phải và chân lý” (!).

-         Sai một li … đến nhiều li … thành bánh xe lịch sử của Mác … tăng hiệu lực.
)


Thực tiễn cho thấy, để tâm tích cực (A1) hình thành, con người cần trãi qua một ngành nghề để sống cụ thể, và đạt kết quả ổn định tích cực trong một thời gian nhất định. Khi đó tâm tích cực mới có điều kiện hình thành và phát triển.
Trong khoa khảo cổ học, các nhà khoa học có thể chứng minh một cổ vật có tuổi thọ bao lâu.
Cũng tương tự, “tâm” là kho lưu trữ quá trình sống của một cá nhân, từ khi bắt đầu cho đến thời điểm hiện tại.
Nhìn vào tâm, có thể tìm lại quá khứ để hiểu hiện tại.
Trong quan hệ, con người có thể dùng tâm để cảm nhận tâm của đối tượng. Ví dụ đối tượng đã khai tâm A1 sâu hay cạn, trình độ phát triển cao hay thấp, rộng hay hẹp, v.v...

Điều này chứng tỏ các ‘cảm giác về lương tâm’ (A1) có độ chênh lệch về đẳng cấp hay trình độ.
Nó được cảm nhận khitâm đối diện tâm’. Người cùng ngành nghề, cùng một dân tộc, cùng một xã hội, v.v… dễ đánh giá nhau nhau. Mức thấp nhất … cùng loài người với nhau.
Hiển nhiên tâm nào có trình độ cao hơn, nhận thức tích cực nhiều hơn, trong sáng hơn, sẽ dễ đánh giá tâm kém hơn, vì trình độ nhân cách không bằng.

Biết rằng tâm là một tập hợp các cảm xúc.
Để nhận xét về tâm, người nhận xét chỉ chú ý nhận xét khía cạnh cảm xúc ’quan hệ’. Từ đây theo kinh nghiệm có thể phân biệt được người tốt kẻ xấu, tích cực hay tiêu cực, lương tâm hay không lương tâm, v.v…. Đôi khi cũng mắc sai lầm thất bại (không lớn), nhưng cần thiết để kết luận về một nhân cách có độ phức tạp cao (nhiều mưu tính tiêu cực sâu nhiều cấp).

Tóm lại, sự sống do tự nhiên mà có.
Sự sống con người có bản chất tại tâm A1 làm chủ đạo.
Muốn mở được cánh cửa tự nhiên, xã hội cần có nhiều diễn đàn tranh luận tự do không áp đặt, ngoại trừ … ‘lương tâm’ được toàn quyền tung hoành, bằng các lý lẽ phải trái khách quan, chân lý, khoa học, công khai, và tình người …
Để cái đúng trở thành nhịp cầu tất yếu, giúp sự sống hoà nhập vào QLTN một cách dễ dàng thuận lợi … như mặt trời phải mọc ở hướng đông vậy.




VII. Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ ỨNG DỤNG


°   
Tâm A1  là một tập hợp các cảm xúc thuộc tinh hoa trí tuệ.
Tinh hoa trí tuệ phong phú, con người lung linh sức sống.

Trí tuệ thông suốt, nhất quán, đúng sai công khai minh bạch, nhận thức lý luận không mâu thuẩn, lý thuyết thực hành hiệu quả, v.v… thì cảm xúc tinh hoa sẽ phong phú, trí tuệ phát triển tích cực, tâm A1 càng nhiều cơ hội phát triển thuận lợi.
“Lý (ý thức) có thông, tình (tâm) mới phát”, “tình phát, lý thăng hoa”, “lý thăng hoa, tình rộng mở”, v.v...
Khi lý và tình khớp nhịp nhau, cả hai sẽ lồng vào nhau cùng hợp lực phát triển. Sự sống như thế là đạt đích hạnh phúc. – Ta gọi là VUI.

“Lý” (động) nên bản chất nó là đi tìm “tình”.
Ngược lại, “tình” (tỉnh) nên bản chất nó đứng một chỗ chờ “lý” đến.
Nếu may mắn cả hai tìm thấy nhau, hợp nhau, sự sống phát triển tốt đẹp.
Nhưng ngược lại, nếu cả hai không gặp hoặc không hợp nhau, thì sự sống còn gian nan.

Tình là hai mặt của cuộc sống.
Trong tâm, nó là “cảm” và “ý”.

Lúc này vấn đề quay ngược lại.
Cảm có tính “động”, nó không ngừng giãn nở, tiêu cực hay tích cực.
‘Ý’ có tính “tỉnh”, nó được sinh ra từ ‘cảm’ – [về cao độ đẳng cấp (tính lượng) và về giá trị tốt hay xấu (tính chất)].
‘Cảm’ phát triển tích cực, sẽ giúp ‘ý’ nghĩ ra được nhiều điều hay lẽ phải.
Tiếp theo ‘ý’ tác động ngược lại ‘cảm’, nâng nó lên tầm cao cảm giác mới. Cứ thế cả hai cộng hưởng và biện chứng cho nhau phát triển.

Do ‘cảm’có thể phát triển theo hướng tiêu cực hay tích cực, nên con người cần ý thức trách nhiệm lôi kéo nó định hướng phát triển về mục đích tích cực.
Vì cặp phạm trù ‘cảm’ và ‘ý’ là nằm trong tâm, cái gốc của nhân cách, nên tầm ảnh hưởng của nó là rất lớn, mang tính quyết định đến toàn bộ giá trị và chất lượng của sự sống.

(Trong khi xã hội văn minh chỉ ý thức chú trọng phần ‘lý’ (sản phẩm của ‘cảm’ và ‘ý’), tức phần ngọn nên kết quả quản lý sự sống không đạt. Do không đạt nên trong ‘lý’ bao giờ cũng có ‘bạo lực’ làm phương tiện quyết định.)

 Ý’ là gốc khởi tạo cho ‘lý’ vận động. Từ đây tạo ra tư duy ý thức, lý lẽ, các luận điểm nhận thức, v.v…. Từ lý lẽ con người mới dùng trong lý giải sự sống dẫn đến hành động v.v…
‘Cảm’ là gốc khởi tạo cho ‘tình’ thể hiện. Từ đây tạo ra tình cảm, yêu ghét, thiện ác, v.v… Từ tình cảm này con người định giá trị cho mối quan hệ là tiêu cực hay tích cực, đoàn kết hay chia rẻ, v.v…

(Chú thích: 
- Thông thường ‘ý’ do tâm A2 chi phối cho kết quả ‘lý’, ‘cảm’ do tâm A1 chi phối cho kết quả ‘tình’. Suy ra ‘lý – tình’ có khuynh hướng mâu thuẩn.
- Vì bản chất ‘cảm’ (tích cực - thương) luôn mang tính ‘thiện’ thuộc A1. Mà con người dù tiêu cực (ác) ra sao, cũng phải ít nhất một lần ‘thương’ ai đó. Nên ai cũng có mâu thuẩn nội tâm nhất định, dù là thiện hay ác. Chỉ trừ trường hợp toàn thiện, ‘đắc đạo’.
- ‘Cảm’ và ‘ý’ trong tâm luôn tác động, nhằm tạo sự thống nhất lẫn nhau. Nhưng do trong tâm có hai nguồn A1 A2 khác nhau, nên sản phẩm ‘cảm’ và ‘ý’ luôn bị khác nguồn (theo một tỉ lệ) nên sự khớp nhau về nội dung chỉ đạt tương đối, hoặc nghịch nhau.)

Song song đó, ‘tình cảm’ cũng đòi hỏi (do nội tâm, hay do cảm giác trực tiếp tác động, v.v…) ‘lý lẽ’, phải kết hợp sao cho ‘lý – tình’ được thông suốt (khớp nhau nội dung).
Hoặc ‘lý lẽ’ yêu cầu ngược lại (do dựa trên tư duy lôgíc, hay do áp lực hoàn cảnh, v.v…) ‘tình’, phải thay đổi sao cho ‘lý – tình’ phù hợp (khớp nhau nội dung).
Những yêu cầu trên cuối cùng tác động ngược lại ‘cảm’ và ‘ý’ trong tâm, muốn nó cũng phải thay đổi theo cho phù hợp.
NHƯNG đòi hỏi này luôn bị thất bại, do tâm còn kết cấu bởi hai nguồn A1 A2.
Đòi hỏi này chỉ thành công, khi kết quả khai tâm đã hoàn thành, tức là ý chí (lý lẽ) luôn nằm trong quỹ đạo A1 .
Vì lý do trên, nên nội tâm luôn xảy ra xung đột giữa hai nguồn lực, một là từ ‘ý chí’ (lý) dội vào, hai là từ ‘tâm’ đẫy ra. Cuối cùng tuỳ vào năng lực sống mỗi người (giáo dục) mà cho ra kết quả hành động thực tế.

Nếu các cặp phạm trù “tình - lý” và “cảm - ý” cuối cùng kết hợp khớp với nhau tất cả thành công, sự sống như thế là rất hạnh phúc. – Ta gọi là RẤT VUI (‘đắc đạo’).
Đây là “TÀI SẢN TINH THẦN”, mà không bất kỳ “TÀI SẢN VẬT CHẤT” nào sánh bằng.
Và nó có thể truyền từ đời này sang đời khác, nhưng chỉ một phần qua sao chép. Nó truyền qua cách sống, phong tục tập quán, qua ngôn ngữ ca dao văn chương, qua phong cách thái độ sống, qua nhân cách ứng xử quan hệ, qua lý lẽ minh chứng, v.v…

Ví dụ, người ta hay nói “phước đức ông bà để lại”.
Có thể giải thích, ‘phước’ là “cảm” và ‘đức’ là “ý”. Nhiều ‘phước đức’ có nghĩa là ‘cảm’ trong tâm ‘thiện’, và ‘ý’ trong tâm biết trọng sự ‘công bằng chia sẻ’, cả hai hòa quyện nhau tạo nên một nhân cách tốt đẹp (mà một đời người không đủ để đạt thành quả như trên).
Nếu ‘cảm’ ý’ không đúng (ngoài A1), thì giữa chúng không bao giờ tạo nên sự hòa hợp trọn vẹn thành công. Suy ra thế và lực của THIỆN bao giờ cũng thắng ÁC, nếu tính theo chiều rộng và độ dài thời gian (vì tâm mang tính thời gian).
Suy ra loài người không có loại tài sản “PHƯỚC ĐỨC ÁC”, vì nó tồn tại không bền. Tuy nhiên nó vẫn phổ biến ngoài xã hội, đó là vì xã hội tự sản sinh ra theo hoàn cảnh, khi lý lẽ sinh tồn chưa thông chân lý sống chưa xác định.
Nhưng cho dù hoàn cảnh xã hội như thế nào, tài sản ‘phước đức’ của mỗi dân tộc vẫn được duy trì, phát huy, trường tồn với thời gian.


°° 
A –
 * Trong cảm xúc quý nhất là tình người.
‘Tình người’ (tình tinh thần) là sản phẩm cơ bản của tâm A1, về tinh thần.
‘Tình vật chất’  là sản phẩm cơ bản của tâm A1, về vật chất.

(Chú thích:
-         Khi ‘tình vật chất’ được ưu tiên chọn dùng đơn thuần bỏ lại ‘tình người’, thì ‘tình vật chất’ chuyển sang thành sản phẩm đặc hiệu độc quyền của tâm A2.
-         Đây là thời kỳ nhân cách bắt đầu bị biến dạng, chuyển sang ác dần về bản chất, được che đậy hoặc không được che đậy dưới võ bộc hình thức ‘thiện giả tạo’ bên ngoài – qua lời lẽ, tác phong, các hành động nhất thời, v.v….)

‘Tình vật chất’ là tình yêu bảo vệ CƠ THỂ.
‘Tình người’ là tình yêu bảo vệ TRÍ TUỆ (nhân cách, tâm hồn, tình cảm, v.v…).

Do ‘trí tuệ’bản chất tự nhiên của sự sống loài người.
Nên ‘tình vật chất’ là phương tiện phục vụ cho mục đích ‘tình người’ phát triển LÀ CHÍNH. Và khi ‘tình người’ phát triển sẽ PHỤC VỤ ngược lại cho ‘tình vật chất’ cùng phát triển. Cả hai biện chứng cho nhau cùng phát triển.

Tuy nhiên tuỳ theo quan điểm, mà con người chọn ‘cơ thể’ là bản chất chủ quan của sự sống loài người.
Nên lúc này ‘tình người’ là phương tiện phục cho mục đích ‘tình vật chất’ phát triển LÀ CHÍNH. Nhưng khi ‘tình vật chất’ phát triển sẽ KHÔNG PHỤC VỤ ngược lại cho ‘tình người’ cùng phát triển. Suy ra cả hai không thể biện chứng cho nhau cùng phát triển, theo qui định tự nhiên.
Lý do,  trong ‘vật chất’ không có khái niệm ‘tình người’.
Trong khi, trong ‘trí tuệ’ có đủ hai khái niệm ‘tình người’ và ‘tình vật chất’.

Đây là sự khác biệt cơ bản của quan điểm sống trái tự nhiên, và quan điểm sống theo tự nhiên.
Quan điểm sống trái tự nhiên, luôn đem lại sự thất bại trong tiến trình phát triển sự sống.

‘Tình người’ đối với loài người, là mục đích phục vụ lớn nhất. Vì mục đích này, mà con người phải phấn đấu bảo vệ tốt môi trường sống.
‘Tình người’ cho lứa đôi là mục đích cơ bản của tồn tại và phát triển. Đây là mục đích dễ đạt với mọi cá nhân.
Tuy nhiên trong ‘tình lứa đôi’ cũng chia ra ‘nặng về vật chất’ hay ‘nặng về tình cảm’. Phiến diện một trong hai đều không bền. Tốt nhất kết hợp cả hai nhân tố ‘vật chất và tình cảm’, với ‘tình cảm’ là trọng tâm, thì kết quả sẽ lâu bền.

‘Tình người’ là chất liệu chính tạo nên ‘hạnh phúc tinh thần’.
‘Tình vật chất’ là chất liệu chính tạo nên ‘hạnh phúc vật chất’.

Trong dân gian người ta thường nói “có tình phải có lý” hay “có lý phải có tình”.
Vì ‘tình’ không sẽ là mù quáng, ‘lý’ không cũng sinh mù quáng, vì khô khan vô nghĩa vô vị.
 ‘Lý’ có thông thì ‘tình’ mới phát, ‘tình’ phát ‘lý’ mới suông.

Khoa học kỹ thuật dù có tiến rất cao, nhưng ‘tình người’ vẫn là cứu cánh của sự sống, là đỉnh cao giá trị của nhân cách, là ánh sáng dẫn đường cho trí tuệ.

‘Tình người’ do bản năng tự nhiên có.
Tuy nhiên nếu nó không được bồi dưỡng thường xuyên, sẽ thành khô dần và biến dạng.
Vì ‘tình người’ cần được ý thức trau dồi từ nhận thức đến hoàn cảnh, kỹ năng quan hệ.
Trong xã hội ngày nay, ‘tình người’ bị xuống cấp vì bị ‘công thức hoá’, và ‘vật chất hoá’. Nói chung là bị ‘tình vật chất’ lấn chỗ và gây nên nhiều ngộ nhận biến dạng.
Phục hồi kỹ năng ‘tình người’ chân chính là nhu cầu cấp thiết của thời đại.

‘Tình người’ thường được hình thành và phát triển tốt thời tuổi trẻ, cộng với hoàn cảnh giáo dục thuận lợi.
Nhưng khi cá nhân do kém ý thức, và bị môi trường khuynh hướng vật chất tác động, nên ‘tình người’ dễ bị rơi vào thất bại.
Ngược lại khi đời sống khó khăn, thất bại, bi quan, bệnh tật, đau khổ, v.v… nếu được sự giúp đỡ kiệp thời, thì kỹ năng ‘tình người’ có cơ hội hồi sinh nhanh và tốt. – Do thấy được giá trị lợi ích thiết thực của nó, trong khi bình thường mạnh khoẻ thành đạt v.v… dễ phát sinh tư tưởng không cần.

Để giáo dục tình người cho trẻ, trước hết người lớn phải có ‘tình người’ phát triển tốt. Kế đến qua kỹ năng giao tiếp sẽ giúp trẻ phát triển kỹ năng ‘tình người’. Tập trẻ có thói quen quan tâm đến mọi người, cha mẹ, anh em, bạn bè … để có ý thức, kính trọng, tôn trọng, giúp đỡ, chia sẻ các suy nghĩ, các cảm xúc buồn vui, v.v … .

Nhưng cách giáo dục tốt nhất là những tấm gương của cha mẹ, thầy cô, chính quyền, xã hội, v.v… , thì từ trẻ em đến người lớn đều có cơ hội rèn luyện ‘tình người’.
‘Tình người’ có thể truyền đạt qua nhận thức, qua việc làm, v.v…
‘Tình người’ là hiện tượng tự nhiên, xuất phát từ bản năng tình cảm, khi gặp môi trường tác động phù hợp, thì nó phát triển tự nhiên theo thời gian.
Vì vậy nó không thể tạo ra bằng các biện pháp áp đặt, ra lệnh, gây sợ hãi, v.v… hay cá nhân muốn là có.
Nó có thể bắt đầu từ … Một là, nhờ bản năng tình cảm ban đầu nhiều hay ít, hai là nó có được môi trường nhận thức A1 tác động thuận lợi hay không.

Giáo dục ‘tinh người’, đòi hỏi người dạy phải có một kỹ năng quan hệ cao cấp, từ ‘tình người’ chân thật phong phú, đến tâm lý giao tiếp khôn khéo, cộng với một số kiến thức cơ bản khác.
Để có ‘tình người’ chân thật và phong phú, không phải ai cũng làm được.
Vì vậy, ‘tình người’ khi nâng lên chuyên nghiệp, thì nó trở thành một loại TÀI NĂNG của xã hội. Mà chỉ ai có NĂNG KHIẾU bẩm sinh mới có thể đạt đến đẳng cấp cao, sau một thời gian trau dồi rèn luyện hợp lý.
‘Tình người’ phong phú, nhưng thiếu một lý thuyết hợp lý tạo điều kiện phát triển, thì kết quả vận dụng không cao.
Thường cá nhân có ‘tài năng tình người’ nếu được giáo dục tốt sẽ phát triển được nhiều tài năng khác. (theo kinh nghiệm thực tế)
HTNT là một lý thuyết đặt trọng tâm chính về phát triển và phát huy ‘tình người’.


B –
* Vạn vật tồn tại theo QLTN. Loài người là một thành viên trong tổng thể vạn vật ấy.
QLTN có cái dành cho tổng thể, có dành cho cá nhân.
Đối với cá nhân, thì thường được gọi là “SỐ MẠNG”.
Người nào có số mạng ấy, không chạy đi đâu được.

Trong số mạng đã qui định, mỗi cá nhân có thể đạt thành tích cao nhất trong đời là gì.
Cá nhân phải cố gắng phấn đấu hết khả năng, cộng với sự trợ giúp có thể được từ mọi người, sẽ tìm ra đáp án của ‘số mạng’ của mình. - “Tận nhân lực tri thiên mệnh”.
Tuy nhiên ‘số mạng’ cũng qui định … cá nhân chọn phấn đấu tốt (thay vì lười) sẽ cho kết quả tốt.
Vậy ‘xấu’ hay ‘tốt’, ‘ác’ hay ‘thiện’ … là do ý chí mỗi người tự quyết, xã hội chịu phần hỗ trợ.

Trong KHTT minh chứng rằng, ‘hạnh phúc’ đời người không phụ thuộc vào TÀI CAO, mà chỉ cần PHẤN ĐẤU HẾT KHẢ NĂNG cộng với KẾT QUẢ THỰC TẾ TƯƠNG XỨNG (phòng khi phấn đấu không hợp lý) là đủ.
Mỗi ngày tự kiểm rút kinh nghiệm, cộng với sự lắng nghe nhận xét góp ý từ mọi người, thì ai cũng thành công theo khả năng của mình.
Mỗi ngày một thành công nhỏ, là một hạnh phúc nhỏ. Sau một thời gian, nhiều  hạnh phúc nhỏ cộng dồn lại sẽ ra một ‘hạnh phúc lớn’ đáng tự hào.

* Một số ví dụ tham khảo:
- Có một dân tộc trãi qua nhiều khó khăn nhưng anh dũng vươn lên thành công, dân tộc ấy nhất định đã tạo nên một vốn ‘phước đức’ không nhỏ.
Vốn ấy là vốn về sức mạnh tinh thần, có nội dung “đoàn kết yêu thương nhau trong khó khăn, và cùng hợp sức đứng lên tự vệ”.
Vấn đề đặt ra là khai thác vốn ‘phước đức’ ấy trong đấu tranh tiêu cực, để xây dựng phát triển xã hội.
Đây là lúc nó cần có ‘chân lý sống’ để giúp phân biệt rõ đúng sai, mà biết tập hợp đoàn kết về hướng nào và cần đấu tranh tiêu trừ hướng nào.
Trong xây dựng hoà bình, kẻ thù là sự lạc hậu trong nhận thức. Vấn đề này có trong mỗi người.
Do vậy ‘đoàn kết’ là về hướng lý lẽ đúng, và ‘tự vệ chống lại’ về hướng lý lẽ sai. Trước mắt là đấu tranh với cái gốc sai (học thuyết, cơ chế), kế là con người sai nhiều, sau cùng là ta đấu tranh với chính ta, để bảo vệ phần nhân cách đúng … hoàn thiện.
Nếu không làm được như trên, thì sức mạnh tinh thần trở thành vũ khí mất phương hướng … ta diệt ta quyết liệt, là điều khó tránh. Dễ đưa xã hội đến chỗ điêu tàn, chỉ vì … vốn ‘phước đức’ tổ tiên để lại quá lớn.

- Sức mạnh tinh thần của một dân tộc, có thể được mã hóa vào ngôn ngữ, âm nhạc, văn thơ, phong tục tập quán, kỹ năng sống, lịch sử, v.v…, mà nơi đó bao giờ cũng nỗi bật dấu ấn ‘tình người’.

           +  Riêng âm nhạc có sức lan toả đặc biệt, nó không đòi hỏi người nghe có trình độ kiến thức cao chỉ  cần có trình độ ‘tình người’ là đủ. Điều này trong dân gian (VN) có rất nhiều. Nhờ vậy âm nhạc truyền thẳng vào tâm qua “cảm” đến tim, giúp người nghe không ngừng được bồi dưỡng nâng cao vốn sống (tinh thần) ‘tình người’.
                Tình người dồi giàu là sức mạnh tinh thần, là bệ phóng cho ‘ý’ phát triển. Có ‘ý’ là có ‘lý’ đi liền. ‘Lý’ phát, ‘trí tuệ’ phát, nhận thức phát, chân lý sống phát hiện ... Sức mạnh dân tôc thêm củng cố.

           +  Sau âm nhạc là ngôn ngữ giao tiếp. Đây cũng là dạng truyền tải ‘tình người’ đặc biệt và hiệu quả. Ví dụ, trong ngôn ngữ dân tộc Viêt-nam, thứ bậc xưng hô rất rõ ràng đa dạng, phong phú. 
                Như cha, mẹ, con, anh, chị, em, cháu, dì, mợ, cô, thím, chú, bác, cậu, nội, ngoại, mày, tao, ông, bà, tôi, tớ, ta, mi, o, thằng, hắn, dạ thưa, dạ vâng, dạ, vâng, ừ, v.v… nó được dùng phong phú không phải để phân cấp quyền lực (nghĩa phụ), mà là để phân biệt đẳng cấp và trách nhiệm tình thương giữa người với người là chính.
                Tuỳ theo trình độ tình cảm phát sinh trong quan hệ, mà người ta chọn cách xưng hộ phù hợp. Người không quen sẽ khó hoà nhập vào hệ thống xưng hô trên.
                 Người lớn có trách nhiệm yêu thường nhường nhịn giúp đỡ bảo ban cho người cấp nhỏ. Quan hệ bạn bè hay người lạ xóm giềng cũng vậy. Mọi người dù quen hay lạ cũng đều có thể xưng hộ như trong một đại gia đình dân tộc, v.v… mặc dù mới gặp mặt nhau lần đầu. Tất cả nhằm thể hiện tình yêu thương trách nhiệm, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, giữa người với người, hay giữa người cùng chung một gióng nòi.
                 ‘Tình người’ vì thế không ngừng phát triển, vốn (tài sản) tinh thần càng sâu và lớn.

           +    Qua cách xưng hô trên, đẳng cấp quan hệ được hình thành.
                 Đó là đẳng cấp về nhân cách, về phẩm chất đạo đức tình cảm. Chứ không đặt nặng quyền lực áp đặt. Điều này đòi hỏi người trên bậc, phải sống gương mẫu, uy tính, giỏi giang, v.v… có sức thuyết phục người kém bậc.
                  Phương thức cơ chế quan hệ trên, vô tình đem lại sự phát triển cao cho tâm A1 của nhân dân và xã hội, mà không dễ gì các phương pháp giáo dục khác (đọc sách v.v…) đạt hiệu quả bằng.
          
           +   Một dân tộc có lợi thế tinh thần phát triển, sẽ có lợi thế về ‘hạnh phúc tinh thần’. Nếu nay cộng thêm ‘hạnh phúc vật chất’ cơ bản nữa, là sẽ có cơ hội đạt mức sống hạnh phúc cao hơn các dân tộc khác.
                 Biết rằng thế mạnh ưu việt của con người là thuộc vốn tinh thần, với “tinh thần tình cảm” là mục đích và “tinh thần vật chất” là phương tiện. Vì thế dù con người rất giàu có về ‘vốn vật chất’, nhưng nghèo ‘vốn tình cảm’, thì vẫn gọi là bị “nghèo và yếu” về vốn sống.
                
                 Để phát huy thế mạnh tinh thần, con người vận dụng lý lẽ, để tìm chân lý và lẽ phải, để từ đây tiếp tục xây dựng và phát huy tình người thêm phong phú, v.v....
                 Một dân tộc có thế mạnh ‘hạnh phúc tinh thần’, sẽ có nhiều cơ hội chiếm ưu thế trong tương quan lực lượng phát triển.
                 Và nếu may mắn hơn, cũng có thể trở thành hạt nhân đoàn kết, vì hoà bình và hạnh phúc …
               
           +   Thế nhưng, vạn sự khởi đầu nan …
                Trong ưu có khuyết. như người ta thường nói … “thương nhau lắm, cắn nhau đau”.
               Tình người chỉ thật sự phát huy, khi “tình và lý” cùng phát triển song hành biện chứng.        
               Trong khi thực tế, … “tình một đàng” … “ lý chạy một nẽo”, … thì cây nào ra được trái ngọt.

                Biết rằng “tình” tạo ra “lực”, “lý” để chỉ “hướng”. 
                Lực mất hướng là thành lực phá hoại. Tình càng cao, thì lực phá hoại càng điên cuồng. “Nhiệt tình cộng ngu dốt, sinh phá hoại” là phản ánh đúng trường hợp và hoàn cảnh này.
                Một dân tộc mạnh rơi vào hoàn cảnh trên, sẽ thành dân tộc yếu trong thời gian ngắn.                              
               Biết rằng ‘tình’ do tự nhiên có. Theo nguyên tắc, ‘lý’ cũng phải tự nhiên, thì kết quả ‘tình lý’ sẽ khớp nhau. Nhưng ‘lý’ để tự nhiên phát triển thành ‘KHÁC TỰ NHIÊN’. Do vậy, con người phải trải qua công đoạn nghiên cứu để ‘lý’ thành tự nhiên như nguyên mẫu. Khi ấy KẾT QUẢ LẮP RÁP MỚI THÀNH CÔNG.
               Thực tế ngày nay, nhiều ‘lý’ không tự nhiên, mọi người dị ứng, nhưng vẫn được dùng ...                  
             
              HTML là loại ‘lý’ chủ quan nhân tạo, do nghiên cứu sai, và … cấm toàn dân “nói sai và không muốn tiếp tục dùng nó”.
              CNTB là mô hình ‘lý’ chủ quan tự nhiên, vì thiếu nghiên cứu, và … chỉ chạy đua làm giàu cá nhân mức sống ‘vật chất’, bỏ qua ý thức làm giàu trọng tâm A1.
             
              Khi ‘lý’ sai, ‘tình’ đúng (do bản chất luôn đúng), không khớp nhau, con người nghịch nhau quan điểm sống, xã hội phát triển không ổn định.
              - Chính quyền (“kẻ mạnh”) nghịch nhân dân (“kẻ yếu”), quan nghịch quần chúng, người giàu nghịch người nghèo, người khôn nghịch người dại, người có bằng cấp nghịch người không bằng cấp, … mọi người nghịch nhau (mâu thuẩn) khi không hiểu nhau …
          
              Sự phân cấp trong quan hệ ngày nào vì tình nghĩa con người, thì nay bị lợi dụng để ‘quyền lực hoá’ trong quan hệ. Trước tốt (+) bao nhiêu, nay thành nguy hiểm (-) bấy nhiều …
             Làm sai, sống sai, lâu dần thành quen, thành hèn, nhu nhược, … thành đồng loã với cái xấu một cách tự nhiên, như cuộc sống tốt đẹp không gì xảy ra …
            
             Bản chất nhân dân là ‘kho lưu trữ chân lý’ muôn đời của thời đại.
             Vì thế nhân dân đã trở thành nạn nhân muôn thuở, mỗi khi các ‘lý sai’ muốn chứng minh nó là ‘lý đúng’ … bằng cách dùng sức mạnh chống phá điên cuồng để áp đặt. Nhưng cũng là “vị quan toà” công minh, luôn biết cách đưa sự sống trở lại thế cân bằng của công lý.
              Đây đã là luật trời không ai có thể sửa được.
            
              Nhưng nhiều chính quyền vẫn không tin có luật trời,
                    Bằng cách đóng kịch thương dân qua các việc làm phụ ...
                              Nhưng chống lại dân trong các việc hệ trọng bậc nhất …
                                        Ví dụ: chọn học thuyết phát triển xã hội …

           “Còn một người dân không đồng ý, chính quyền còn phải tranh luận chứng minh công khai”.

          

          
    °°°

*
Qui trình tạo ra sức mạnh của tâm, có thể tóm lược như sau:
-         Sức mạnh hình thành từ ‘cảm’ và ‘ý’ của tâm.
 Từ ‘cảm’ sinh ‘ý’, ‘ý’ kích thích ‘tư duy ý thức’ vận động, để hình thành lý lẽ (ngôn ngữ), ý chí, hành động’, v.v... dưới danh nghĩa “lẽ phải” (thật hay giả), do một cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm.
-         Từ nhiều ‘lẽ phải’ tổng hơp thành ‘quan điểm’ – trung tâm (B).
Quan điểm được lưu trữ vào tiềm thức (A1  hoặc A2) của cá nhân, để tiếp tục tạo ra ‘cảm’ và ‘ý’ trong trung tâm (A) (chung của A1  A2), sau đó chuyển thành mệnh lệnh cho (B) phải thi hành. – (xem “Cách Sống Mới”)
Đây là qui trình làm nên “sức sống” của một cá nhân.
-         Chu kỳ trên được lập đi lập lại mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi giây, …. Mỗi lần lập lại là mỗi lần sức sống tăng thêm cường độ, hoặc giảm đi cường độ, tuỳ theo ta xét góc độ của tâm A1  hay A2 , cà cá nhân chọn để sống.

Ngôn ngữ, lời nói, chữ viết, hành động, quan hệ, âm nhạc, văn chương, triết lý, ca dao tục ngữ, phong tục tập quan, kinh tế, chiến tranh, hoà bình, v.v… là những phương tiện truyền tải sức sống của cá nhân, qua tập thể, số đông, v.v…
Ta gọi như trên là sức mạnh của TÂM, bằng mệnh lệnh từ ‘cảm’ và ‘ý’ lúc đầu.
Từ đây nó tạo thành “lực đẫy của qui luật tồn tại”, có thể đúng hoặc sai, có thể trái hoặc không trái với QLTN.

Nhưng đa phần con người đang chọn sức sống theo hướng A2 .
Trong khi QLTN, “khuyến cáo” nên chọn hướng A1 .
Do trái chiều như trên, nên ‘sức mạnh của tâm’ luôn bị làm cho giảm, vì nội tâm mâu thuẩn.

Do lịch sử để lại, QUYỀN LỰC XÃ HỘI luôn thuộc về phe A2  (chính quyền), nên phe A1 tất thắng lại thường xuyên phải ở thế thua, vi bị tước quyền lực.

(Chú thích:
‘Quyền lực xã hội’ luôn thuộc về phe A2 (chủ quan), khi sự sống thiếu ‘chân lý’, giáo dục kém. Nên con người khi lên cầm quyền rất dễ trở thành ‘chủ quan’, nếu thiếu một phương hướng tích cực cụ thể dẫn đường – thường do hoàn cảnh tạo ra.)

Như thế là bên đông không vũ khí, chống lại, bên ít có vũ khí.
Nên thế thắng thua luôn cân phân, không bên nào thắng tuyệt đối.
Sức mạnh tâm cũng luôn ở thế thất thường, mệt mỏi kéo dài ngấm ngầm.
Suy ra nhiều người muốn chọn thái độ thờ ơ với thế sự, sẵn sàng thu hẹp phạm vi trí tuệ, để đi tìm sự bình yên và sức mạnh cho tâm hồn. Một sự trốn tránh sự thật … làm hạ thấp nhân cách … bất đắc dĩ.


*
Nếu sự sống luôn ổn định bình thường, thì con người không có gì để bàn.
Nhưng một ngày kia hết tiền hết cái ăn … thành phải tính.
Nhu cầu quan hệ đặt ra.
Quan hệ là liên quan đến đạo đức, đến kỹ năng, đến tâm.
Hiện tượng phổ biến, tâm là bản sao của xã hội. Xã hội liên quan đến thế giới. Thế giới liên quan đến học thuyết. Học thuyết liên quan đến QLTN.
Vậy là sự sống một cá nhân bình thường, nhưng thực tế nó liên quan đến cả một tổng thể lớn.
Nếu đầu tư sai từ các hiện tượng nhỏ, thì đừng hỏi tại sao tương lai phát triển không như ý.

Sai một cá nhân hôm nay … ngày mai sai một lãnh đạo …
Thế giới lớn nhờ nhiều cá nhân nhỏ.
Nếu cá nhân nhỏ thiếu được minh chứng cơ chế phát triển hợp lý, thì thế giới lớn sẽ nát nhỏ …

Trong VMXH, khi sự nghiệp xã hội hoá giáo dục đã thành công, lúc bấy mọi người giúp nhau chỉ dạy nhau kịp thời. Có nền móng chắc, tương lai chắc chắn an toàn, thế giới sẽ không tan nát bởi hiểm hoạ chiến tranh.

Thực tế các tôn giáo đã làm tốt điều này. Nhưng tiếc rằng đó chưa phải từ góc độ của khoa học, nên tính hiệu quả chưa đồng bộ.
Khoa học đã thành công trong chăm lo vật chất cho cá nhân ngay từ sớm, nhưng còn nhiều ngộ nhận trong nhận thức phát triển tinh thần.

8/6/2012 - HVS                                                                             





PHỤ CHƯƠNG



CON ĐƯỜNG TƯƠNG LAI




PHÂN ĐỌAN MỘT: “CHÍNH QUYỀN ẨN”


I.                  XÃ HỘI VÀ LỜI GIẢI.
Con người sống, nhận thức, và phát triển.
Thế giới ngày nay phát triển nhanh, nhiều, và lạ từng ngày. Các công trình kiến trúc mộc lên, đường xá khang trang, các cửa hiệu lộng lẫy, hàng hóa đa dạng đẹp mắt, v.v… .
Trên đường, xe cộ như đi hội, đau đâu cũng màu sắc, người đi làm đi chơi hay đi mua sắm v.v… tất cả làm nên sức sống rất nhộn nhịp của thời xã hội hiện đại.
Con người muốn thư giãn, có thể sãi bước ra phố ngắm nhìn các cảnh vật, hoặc đi mua sắm, hay tìm đến các trung tâm giải trí, v.v...   sẽ tìm thấy sự thoải mái cho tinh thần.

Tuy mức sống vật chất phát triển cao, đời sống tinh thần tốt hơn. Nhưng tốt chỗ này xấu chỗ khác. Con người gọi như thế là chưa ổn.
Bất công, tội phạm, kinh tế chính trị xã hội phức tạp, v.v... là những rào cản của phát triển.
HTNT qui tất cả nguyên nhân cho bài toán “QUAN HỆ”, đang thiéu lời giải minh bạch.
Và lời giải đề xuất là khái niệm “TÂM”, như dân gian thường dùng.
Vì sau ‘tâm’ sẽ là ý thức, thói quen, quan điểm, phong tục tập quán, cơ chế xã hội, dư luận, lời nói … và hành động.
Cộng chung lại là những vấn đề cần có chân lý dẫn đường, mà cụ thể nó sẽ được tìm thấy tại Tâm.

Vì thiếu chân lý nên nhận thức không thông, dẫn đến dùng quyền lực, mà như thế là ‘phản dân tâm’.
‘Phản dân tâm’ bắt đầu có nguồn gốc từ:
-         một là, cơ chế nền kinh tế, nó tạo ra sự chênh lệch về mức sống.
-         hai là, cơ chế tạo ra quyền lực thuộc về ai, để cuối cùng gây chênh lệch lớn với nhân dân (không quyền lực trực tiếp)
-         ba là, từ chênh lệch mức sống đến quyền lực, dẫn đến chênh lệch lớn về nhận thức (đối thoại bế tắc).

Đáp án cho vấn dề trên,
-         Một là, nhân dân tìm lời giải, vì chu kỳ chính quyền chỉ nhất thời nên không đủ thời gian tìm lời giải.
-         Hai là, chính quyền trau đổi bình đẳng với nhân dân, để tìm lời giải.
     
. HTNT là lời giải đề xuất – đây là phần nhân dân đã làm.
. Tiếp theo là tổ chức hệ thống diễn đàn rộng rãi, để tìm chân lý (lẽ phải) cho cuộc sống – đây là phần chính quyền và nhân dân cùng làm.

II.               CƠ CHẾ XÃ HỘI.
Đặc điểm của chính quyền hiện nay là … chủ quan, không muốn nghe và đối thoại công khai với nhân dân …
Để hạn chế tính “chủ quan” của chính quyền, các xã hội tư bản áp dụng cơ chế “tam quyền phân lập”.
Nó đã đem lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, bao giờ phía “quyền lực” (hành pháp) cũng chiếm nhiều lợi thế hơn nếu muốn vượt qua các đối thủ ... Đặc biệt khi sự sống còn nằm trong quĩ đạo của “tiền” và “quyền lực” chiếm ưu thế cao.
Vì thế, cơ chế xã hộicác lý lẽ, chưa đủ để đảm bảo sự phát triển ổn định lâu dài và tổ đẹp cho xã hội.

Trong thế giới KHVC, các chứng minh đều khách quan công khai cụ thể.
Nhưng trong thế giới KHTT, các chứng minh nặng về “trừu tượng vô hình”, nên tính giá trị chỉ là tương đối. – Mặc dù thực tế, thế giới tinh thần cũng mang tính khách quan không kém so với thế giới vật chất. Nhưng nó tuỳ thuộc nhiều vào trình độ và khả năng nhận thức của người tiếp cận – thuộc quan điểm A1  hay A2.

Do vậy trong KHTT, muốn cho chính xác trong thực tế vận dụng, chỉ có cách:
-         Tất cả từ quan điểm đến cơ chế xã hội đến lý lẽ hành động v.v… đều chỉ là phụ, quan trọng là “AI CHỦ, NGƯỜI ĐÓ TỰ QUYẾT ĐỊNH VÀ TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM”.
Để con người KHÔNG CÓ CƠ HỘI lợi dụng sự trừu tượng trong KHTT (hay sự phức tạp trong phạm trù “quan hệ”), để đem sự chủ quan của CÁ NHÂN chen vào giữa các VIỆC CÔNG.
Ví dụ, cá nhân làm cá nhân chịu, xã hội làm xã hội chịu. Mà xã hội là của nhân dân, vậy nhân dân phải có QUYỀN LỰC, để có thể tự làm tương lai theo ý mình. Tức là chính quyền PHẢI TRAO TRẢ “quyền lực” lại cho NHÂN DÂN, một cách đầy đủ. – (theo cách như đã được giới thiệu.)
Vì “quyền lực” là nguyên nhân GỐC của mọi VẤN ĐỀ XÃ HỘI.
Sau “quyền lực”, là “Học Thuyết Lương Tâm”, thì nhân dân sẽ “LÀM CHỦ ĐƯỢC XÃ HỘI”, làm chủ được tương lai của mình. 

Học thuyết dù có tốt có chính xác thế nào, cũng chỉ là để tham khảo mở đường. Còn quyền quyết định phải thuộc về mọi người, thuộc về nhân dân. Không ai có quyền LẠM DỤNG học thuyết, để BẮT BUỘC người khác phải làm theo mệnh lệnh của mình. – Đó là sai trái, là lạm dụng lòng tin.
Khi ý thức dân chủ đã hình thành trong nhân dân, thì chính quyền nên giao quyền quản lý xã hội lại cho toàn dân.
Toàn dân quản lý xã hội bằng chân lýlẽ phải- chân lý.
Nếu áp dụng nhhư thế, cá nhân sẽ có quyền không làm khi lý chưa thông. Không ai có quyền đứng trên người khác để ra mệnh lệnh, nếu đối tượng không đồng ý và không vi phạm các qui định chung. - Những qui định chung cơ bản do xã hội đã thống nhất từ trước, như không xâm phạm quyền tự do của người khác, v.v...
Đây là cơ chế quản lý mới của xã hội văn minh đối với con người. Nơi đó mọi người biết cách làm chủ bản thân và xã hội, bằng những lý lẽ và hành động hợp lý với mọi người và trước chính quyền.

Cũng tương tự như thế, áp dụng cho xã hội. Xã hội là của nhân dân, không ai có quyền thay mặt nhân dân đứng trên xã hội, để mệnh lệnh người này người kia khi chưa có những đối thoại công khai hợp lý.
Tất cả mọi hoạt động của con người đều theo qui định của các diễn đàn (DĐND) – nó gần giống với cơ chế quốc hội, nhưng DĐND phổ thông hơn, ai cũng được tham gia. – Thực tế khi DĐND hoạt động tốt, thì nó cũng sẽ thu hẹp gần giống với mô hình quốc hội hiện nay.
- Cái khác của cơ chế mới là bắt đầu từ cấp ngôn luận phổ thông, sau mới tích tụ thành cấp ngôn luận tập trung. Trong khi cơ chế cũ, xây dựng trực tiếp cấp ngôn luận tâp trung trước, bỏ qua nguyên tắc tôn trọng chân lý từ cấp ngôn luận phổ thông trước.

(Chú thích:
-         Bỏ cơ chế quốc hội, vì nó thiểu số, nên dễ bị các “quyền lực” lợi dung.
-         DĐND là toàn dân được quyền tham gia, nên các “quyền lực” không thể lợi dụng. Diễn đàn tất yếu rất đông người tham gia nhưng không bị rối, vì mọi người đã được hướng dẫn dùng công cụ của quyền lực lương tâm A1 trong ngôn ngữ giao tiếp và giải quyết công việc.)

HTNT chủ trương đào tạo:
-         Mọi cá nhân nhìn vào A1 để tự quyết và chịu trách nhiệm về việc làm của mình.
-          Trong xã hội, nhân dân là chủ, nhân dân phải có quyền tự quyết những vấn đề cơ bản của xã hội.
-          Sự bầu chọn chính quyền chỉ sẽ xảy ra, khi tin chắc “chính quyền mới” BIẾT chấp hành mệnh lệnh của nhân dân (DĐND), như là một quyền lực tuyệt đối.

       “Tập trung quyền lực” (chính quyền) chỉ xảy ra khi hệ thống DĐND đã làm chủ xã hội. - DĐND bao gồm những “Diễn Đàn Chuyên Ngành (các lĩnh vực KHVC)”, và các “Diễn Đàn Tổng Hợp (các vấn đề KHTT)” của từng cấp.



III.           NHÂN CÁCH VÀ CHÍNH QUYỀN ẨN.
Song song với mô hình xã hội mới, là bài toán về “NHÂN CÁCH” như là điều kiện cơ bản.
Giáo dục làm chủ tâm được phổ cập trong xã hội. Song song với nó là ‘tự do thông tin và ngôn luận’, là điều kiện tiếp theo để xây dựng con người hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ.
Giáo dục như trên trong thời đại ngày nay, muốn đạt hiệu quả tối ưu, chỉ có cách phải dựa vào khoa học để phát triển, nhằm giúp con người có khả năng nhận thức sự sống một cách chính xác, khách quan, logic, đúng sự thật, để không còn ai có thể lý giải khác ngoài nội dung đã thống nhất toàn xã hội.
Như thế mọi vấn đề xã hội, toàn thể nhân dân đều được thông suốt, vì nó liên quan trực tiếp đến sự sống của từng người dân một.
 – (Chú thích: Trước mắt khi DĐND chưa có và để đỡ tốn kém trong giai đoạn đầu thành lập, xã hội chỉ cần tập trung những nhân sĩ tiêu biểu trong xã hội, để lý giải các vấn đề xã hội, thì mọi việc sẽ ổn định. Sau đó dần dần mở rộng hệ thống DĐND không khó.)

Theo HTNT, ‘lương tâm A1‘ là con đường độc đạo để phát triển nhân cách và sự bình yên cho xã hội.
Có ‘lương tâm A1‘ làm gốc nhân cách, cộng với cơ chế ‘tam quyền phân lập’, cộng DĐND làm chủ, cộng trung tâm chuyên trách về ‘lương tâm A1‘ (giống mô hình đảng hay tôn giáo), thì xã hội và nhân dân sống bình yên và hạnh phúc - chính quyền và cái ác không còn cơ hội lộng hành.

(Chú thích: - ‘Lương tâm A1‘ hay ‘tâm A1’, nôm na là “lương tâm đã học thuyết hoá”. Với ý nghĩa, từ đây đủ để lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn loài người, một cách khách quan và khoa học. – Vì A1 là khởi nguồn của chân lý, là trung tâm cuối cùng điều hành sự sống, là QLTN của xã hội loài người.)

Nếu tâm A1 là một công cụ ĐẶC BIỆT vì có quyền quyết định cuối cùng đối với sự sống con người, thì nó đích thị  là “chính quyền ẩn” (CQA) – chính quyền không lộ diện.
CQA tồn tại trong mỗi cá nhân con người.
Vấn đề là tìm ra cơ chế chuyển hoá CQA chính quyền hiện thực, để mọi người thuận lợi trong nhận diện. Và từng bước công nhận nó là một quyền lực hữu ích tối thượng cho sự sống mọi người.
Chức năng nhiệm vụ của CQA là điều hành sự sống thế gian, từ phạm vi cá nhân đến qui mô xã hội, đều phát triển đúng theo quĩ đạo của QLTN do tạo hoá-tự nhiên qui định từ thuở … vũ trụ chưa có.
Nếu ý chí con người chấp nhận chọn hướng phát triển sự sống theo CQA, thì mọi sự thế gian sẽ gặp nhiều may mắn thuận lợi.
Do đó, nghiên cứu khai thác CQA thành “chính quyền thực”, là con đường ngắn nhất, để các chính quyền hiện tại phục vụ ấm no hạnh phúc cho dân tộc mình, một cách hiệu quả nhất và tốt đẹp nhất.
Phải chăng đây là đích đến về ‘thế giới đại đồng’ mà Các Mác đã phát hoạ trong CNCS.


IV.           SỰ MỞ ĐẦU CỦA MÁC.

Trong lịch sử triết học, có lẽ Các Mác là người đầu tiên chứng minh luận điểm, “xã hội loài người phát triển theo qui luật, và con đường tiến lên thế giới đại đồng”. 
Nhưng tiếc rằng nó không thành công, do sai lầm trong chứng minh.
Kết quả, ông có công MỘT nhưng tội ông … HAI, BA. Bởi nó gây ra nhiều hậu quả … do người đời đã lạm dụng thái quá các mặt khuyết của nó …

Học thuyết của ông tình cờ cho phép con người chống lại … chính mình, một cách hợp pháp, vì tội HAM MUỐN “kinh doanh tự do” (KDTD) để nuôi sống bản thần và gia đình. – nhưng tiếc rằng “tội này” thuộc bản năng sinh tồn tự nhiên của con người trong xã hội văn minh không thể bỏ được.
Nhưng Mác “quả quyết” đây là đầu mối chính dẫn đến tội bóc lột sau này. Nó nặng hơn vì nó mà sinh ra bất công xã hội, cùng với các tội ác, sự bất ổn v.v…. Vì nó sẽ tạo ra “Giàu Cá Nhân” (GCN), mà GCN là chênh lệch mức sống, là “bóc lột”, là “trái đạo đức”
Vậy nên ông quyết định đúc kết thành … HTML. 
HTML kết luận rằng … KDTD là biểu tượng của cái ‘ác’, chỉ có KDTT mới thuộc về cái ‘thiện’. – KDTT là “Kinh Doanh Tập Thể” dưới sự quản lý chung của Chính Quyền Vô Sản (CQvs). – Mà CQvsđại diện duy nhất của giai cấp vô sản (công nhân), là đối tượng ‘cùng khổ’ nhất của xã hội văn minh. Vì vậy cho đại diện giai cấp này lên nắm chính quyền thì nhất định sẽ đem lại sự sống công bằng và chấm dứt sự ĐAU KHỔ cho toàn xã hội.
Lý thuyết của Mác nghe qua thì thật là hay, thật là hợp lý, ai đã từng chịu bất công đau khổ dưới sự áp bức thời bấy giờ, đều rất thích nên hết lòng ủng hộ quan điểm của ông. Nhưng tiếc rằng thực tế cho thấy, QUAN ĐIỂM TRÊN CỦA MÁC là hoàn toàn KHÔNG ĐÚNG.

Vì đơn giản Mác chưa nhận thức rõ về “con người”.
Mác chỉ suy luận dựa trên các hiện tượng xã hội, mà không chú ý đến yếu tố “đặc điểm bản chất con người”. Nên mọi kết luận chỉ là suy đoán phiến diện, không phản ánh đúng bản chất hiện tượng vấn đề.
Biết rằng để nghiên cứu “hiện tượng xã hội” như trên, ông đã tiêu hao cả đời người. Nếu muốn nghiên cứu tiếp đề tài “Con Người”, có lẽ tạo hoá phải cộng thêm cho ông một kiếp người nữa …
 Bởi nó cũng tiêu tốn chừng ấy thời gian, hoặc có khi còn dài hơn, hoặc mãi mãi sẽ không đến đích, nếu duyên số không cho phép.

Tuy nhiên cũng phải công nhận, không có công trình nghiên cứu của Mác có lẽ …  HTNT không bao giờ tìm thấy kết quả …
Vì vậy, nếu xét về qui luật tiến hoá thì phải chăng, thành quả của Mác là tiền đề giúp loài người tiến lên một nấc thang cao hơn. Cho dù nó đã gây ra biết bao tai hoạ đáng tiếc, và phải chịu bao nhiêu sự lên án nặng nề …. Nhưng phải có thất bại lớn, thì kinh nghiệm rút ra càng mới tìm thấy đúng trọng tâm vấn đề.
Mác đã đem đến sự khốn cùng toàn diện về đời sống vật chất và tinh thần. Nhưng tin rằng từ đây, loài người sẽ tìm thấy ánh sáng của “quyền được sống hạnh phúc về vật chất và tinh thần toàn diện” ở cuối đường hầm.


V.              SỰ SAI LẦM.

Để tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm …, trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu kỹ hơn về những sai lầm của Mác.
Có thể do không chú trọng đáp án thuộc về nhân tố “con người”, nên Mác không thấy rằng đối với con người “nhu cầu sinh tồn cá nhân” là trên hết, kế là “gia đình”, v.v... Mà trí tuệ con người không ai giống ai, nên “mục đích sinh tồn cũng khác nhau” (nếu để phát triển tự nhiên).
Suy ra con người không ai có thể đại diện cho nhau một cách tuyệt đối. Cá nhân đại diện cho cá nhân còn chưa xong, nói chi đến đại diện cho cả một giai cấp, hay một dân tộc.
Có chăng chỉ là đại diện trên một vài lĩnh vực đã thoả thuận trước.
Thế nhưng HTML cho phép CQvs được đại diện, toàn quyền quyết đinh, trên mọi mặt đời sống của toàn thể nhân dân trong một đất nước.
Thật sự là một kết luận … điên rồ, ngu xuẩn và độc ác …

Vì làm người, cá nhân nào cũng ưu tiên con đường sinh tồn bản thân, nếu có tốt bụng lắm thì cũng chỉ giúp người khác trong một giới hạn cho phép.
Nay tất cả sinh mạng của một dân tộc giao hết cho một cá nhân (kể cả một tập thể) chịu trách nhiệm, thì có phải đã giao trứng cho ác, vì không để lại họ một quyền lực tối thiểu nào để họ tự vệ. Như thế có phải giết chết một dân tộc, trong khi cá nhân quyền lực ấy cùng với bộ máy bảo kê, tha hồ ưu tiên hưởng thu cá nhân …

Trong hoàn cảnh nghèo khổ, người ta rất dễ cảm thông và hiểu nhau, nên đại diện cho nhau đấu tranh tìm quyền sống. Niềm tin lúc này là hoàn toàn hợp lý, có đủ cơ sở giá trị. Vì tất cả đều đang gặp nguy hiểm, nên cần phải tin nhau để giúp nhau “mạng sống”, và cùng đối phó trước “kẻ thù chung”. -  Sự đại diện lúc này chỉ là những nội dung đơn giản như vậy, nên người giao và người nhận trách nhiệm đại diện, rất dễ tin và hiểu nhau.
Nhưng khi hoàn cảnh nghèo khổ chấm dứt, chuyển sang mức sống phát triển, thì vấn đề trở nên hoàn toàn khác:

- Lúc này không ai muốn lệ thuộc ai nếu đã có khả năng tự sống và phát triển. Nếu có nhu cầu giúp nhau thì hai bên phải bình đẳng cùng có lợi. Không lý do gì phải phân chia, “kẻ trên nô lệ kẻ dưới” một cách PHI LÝ. – Nên đại diện TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY là thừa.
- Mỗi người mỗi ý thích, tuỳ theo khả năng tự do phát triển sự sống đa dạng. Những việc này làm sao ai đại diện cho ai được, vì biết họ muốn gì mà đại diện, và khả năng đâu mà duyệt. – Nên đại diện TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY cũng là thừa.
- Người siêng năng, giỏi giang, thì đời sống sung túc. Người lười biếng, kém khả năng, thì đời sống thiếu thốn sa sút là tất nhiên. Hai dạng thái độ sống khác nhau như vậy, chọn ai đại diện được cho ai. - Người siêng làm đại diện, thì người lười sẽ bốc lột người siêng, bằng cách chỉ lo ngồi chơi để được hưởng thụ, như thế ai chịu. – Nếu người lười làm đại diện, thì người siêng bắt buộc phải lười và đói theo, thì người siêng đời nào chấp nhận. – Nên đại diện TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY cũng là thừa.
- Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác đặt ra, như nhu cầu tự nhiên về tự do thông tin tự do ngôn luận,  để tìm hiểu sự thật, nhu cầu có môi trường sống bình đằng để phát triển công bằng, nhu cầu phát huy sức mạnh dân tộc để cạnh tranh thế giới, v.v…, tất cả những vấn đề này không thể lệ thuộc vào quyền quyết định của một vài cá nhân quyền lực là tốt. Mà nó phải thuộc về quyền của mọi người, để cùng phát huy sức mạnh của ý chí tổng hợp, thì kết quả đạt mới tối ưu. Người đại diện chỉ là người thừa hành cái chung kia. – Nên đại diện theo kiểu đứng trên mọi người, ra mệnh lệnh bó buộc …, là thừa, là vô lý, vì ai cho phép.

Mặt khác, khi cuộc sống no đủ, con người dễ phát sinh thói quen XẤU là “ham muốn hưởng thụ VẬT CHẤT vô hạn”, và thiếu ý thức rèn luyện “kỹ năng hưởng thụ tinh thần” đi kèm.
Để khắc phục căn bệnh trên, Mác “CÀO BẰNG mức sống xã hội”, cho đến khi xây dựng thành công CNCS.
Việc này HTML giao cho các CNQLvs thực hiện. Nhưng các học thuyết gia quên rằng, đến phiên các CNQLvs cũng ham muốn hưởng thụ VẬT CHẤT vô hạn” (chưa đến CNCS), thì ai có trách nhiệm kiểm soát được họ.
Vậy là HTML đã mâu thuẩn với chính mình, nói “xoá bỏ” nhưng thực chất là “không xoá bỏ”.


VI.           HỆ QUẢ.

Nếu xã hội bình thường có nhiều “CHỦ TƯ BẢN” (CTB), thì xã hội ML chỉ có một “CHỦ VÔ SẢN” (CVS) làm chủ tất cả.
- Ai có quyền lực người đó làm chủ. Các CNQLvs có quyền lực thì được làm chủ, còn nhân dân không quyền lực thì mãi mãi ‘dân chủ ảo’. Nó chỉ có trên tuyên truyền, trên các giấy trắng mực đen…
Mục đích của Mác là muốn có công bằng xã hội, dựa trên cơ sở, mọi người có “MỨC SỐNG VẬT CHẤT TƯƠNG ĐỒNG NHAU”, trên cơ sở mức sống giai cấp vô sản (cùng khổ) làm chuẩn. Nếu xã hội nghèo tất cả đều nghèo, xã hội khá lên thì tất cả cùng khá lên. Không ai được quyền có mức sống quá cách biệt.
Đó là một trong các nguyên lý cơ bản để làm nên “XÃ HỘI ML”.
Nếu nguyên lý cơ bản này bị phá đi, thì “XÃ HỘI ML” không còn ý nghĩa.

Nhưng HTML lại định nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, để tiến lên “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Năng suất lao động của công nhân khác nhau, mức hưởng thụ khác nhau. Việc này dễ tính, sự chênh lệch hưởng thụ là không nhiều.
Nhưng năng suất lao đông của cán bộ lãnh đạo thì không có cơ sở để tính, vì nó thuộc “Giá Trị Tinh Thần” (GTTT). Mà Mác thì chưa nghiên cứu về ‘GTTT’.
Vậy là người ta áng chừng mức lương so với công nhân, để tính ra thang lương xã hội. 

Nhưng đến các cấp lãnh đạo tối cao, thì mức lương không sao định nghĩa được.
Vì công GTTT của họ trong lao động là rất lớn, “lo trăm họ”, thì mức lương phải rất lớn. Hơn nữa họ có quyền lực tuyệt đối, nên muốn kết luận thế nào sao lại không được - (sửa chữa, thay đổi HTML còn được nữa kia mà).
Ngoài ra các chi phí về ngoại giao, quan hệ quốc tế, phương tiện đi lại, v.v… cũng là một khoảng chi phí lớn cần được tính đến, khi mức sống mặt bằng chung xã hội còn rất thấp.

Theo nguyên tắc mức sống phải tương đồng trong xã hội, mức lương danh nghĩa của cán bộ lãnh đậo các cấp cũng phải chênh lệch tương đối. Tuy nhiên đến ‘chi phí công tác thực tế’ thì công tác lý luận nhận thức phải chào thua … vì rất khó lý giải.
Ví dụ, nếu là cán bộ lãnh đạo cấp dưới thì cấp trên duyệt chi phí công tác.
Nếu là cán bộ lãnh đạo tối cao thì ai dám duyệt … vì luật cũng là đây, không luật cũng là đây.
Trong khi bản chất con người ai cũng sợ … quyền lực, và cũng tham … quyền lực. Nên dễ người, biết đâu mai đến phiên mình được hưởng khi ở vị trí đó.

Thế là mức thu nhập thực tế hằng tháng của các CNQLvs … DƯ ĐIỀU KIỆN để trở thành chênh lệch lớn so với thu nhập bình quân của mọi người, Vấn đề là các CNQLvs có muốn hay không.
Khi mức sống của các CNQLvs cao, không lẽ tầng lớp cán bộ kệ cận không nâng lên. Vậy là tất cả đều cao nhưng … bí mật quốc gia.
Càng muốn bí mật thì càng phải dùng “chuyên chính vô sản”.
Nhân dân bao giờ cũng tinh tường mọi việc, nhưng phải bất lực trước một HTML không chừa một đường thoát … hay một khe hở nhỏ để còn hít thở khí trời.

Nhưng tình hình xã hội một số nơi có dấu hiệu xuống dốc, và bế tắc về đời sống.
Vậy là nhiều cá nhân chấp nhận vượt luật …
Cuối cùng một vài CQvs chấp nhận cho KDTD, tức là chấp nhận “CHO làm GCN. Vì thực tế cho thấy cấm cũng không được.
Nhưng mục đích trọng tâm của Mác là “CẤM làm GCN”. - Vì vậy quyết định trên chứng tỏ, “HTML ĐÃ PHÁ SẢN” trong thực tế.
Còn hiện tượng tự động cho phép KDTD như trên, thực chất:
o   Một là, vi phạm bản quyền tác giả, vì chưa xin phép,
o   Hai là, dựa vào cơ sở lý luận nào để gán ghép tuỳ tiện.
o   Ba là, từ áp dụng học thuyết này, chuyển sang học thuyết khác, có được sự đồng ý của nhân dân chưa.
Tất cả đều sai trái, vi phạm luật quan hệ đối với CQvs hiện tại.
Kết luận, CQvs hiện tại là bất hợp pháp, vì vậy không có quyền đòi hỏi nhân dân phải đối xử với mình theo đúng pháp luật hiện hành.

(Chú thích:
- Đinh hướng phát triển xã hội như việc trồng cây. Nếu muốn trồng cây A thì phải gieo mầm cây A, muốn trồng cây B thì phải gieo mầm cây B.
- HTML ra sức lý giải để thuyết phục mọi người đốn bỏcây Tư Bản” (có trái là “GCN”), và bằng mọi giá phải trồng thành công “cây Cộng Sản” sau khi cướp được chính quyền tư bản.
Thế nhưng sau hơn nửa thế kỷ ra sức gieo mầm “cây Cộng Sản” (trái là “GTT”) cực khổ, nhưng sau hơn nửa thể kỷ người ta thu hoạch toàn là các cây èo uột khó sống. Đặc biệt các “cây Cộng Sản cổ thụ” thì đã bị CHẾT ĐỨNG một cách thê thảm …
- Thế là các “cây Cộng Sản-hạng tép” còn lại hoảng vía.
Trong đó một vài “cây Công Sản” chọn phương án “GHÉP CÀNH”, tức là “cây Cộng Sản- ghép cành Tư Bản”. Loại phương pháp này thế giới chưa có kỹ thuật hướng dẫn.
- Nhưng kinh nghiệm trồng cây cho thấy:
        . một là, muốn ghép cành thì cây gốc phải khoẻ mạnh,
        . hai là, giữa cây gốc và cành ghép phải cùng chủng loại.
Ví dụ:
-         Cành cam A ghép với gốc cây quít B, kết quả thành công.
-         Cành cam A ghép với gốc cây ớt C, kết quả thất bại.

Cũng như vậy “cây Cộng Sản” đang yếu sắp chết, theo nguyên tắc, không thể dùng làm cây gốc để ghép bất kỳ loại cành nào. Lý do thứ hai là “cây Cộng Sản” và “cây Tư bản” là hai chủng loại mâu thuẩn nhau về chủng loại, nên không thể ghép cành chung được. Vì một bên “không cho GCN” và bên kia “cho GCN”, là hoàn toàn nghịch nhau về bản chất.
Nên kết quả sẽ thất bại nhanh chóng.
        )

Khi sự tồn tại của CQvs là không còn chính danh. thì “sự độc quyền về QUYỀN LỰC” lâu nay, phải được trao trả lại cho xã hội, cho nhân dân, thì mới đúng nghĩa CQvs là những người có nhân cách.
Tức là mọi người phải trở lại bình đẳng trước quyền lực xã hội. Không còn ai được sở hữu nó độc quyền nữa.
Sau đó mới bàn bạc trên phạm vi toàn dân, nên  phát triển xã hội (quốc gia) theo mô hình quyền lực nào, kiểu xã hội tư bản chăng. Một thành quả ngẫu nhiên của lịch sử tiến hoá của loài người.
Hay chọn mô hình CQA, do HTNT giới thiệu.

Nhưng thực tế hiện nay CQvs vẫn chọn phương phương pháp “Ghép Cành” như trên cho xã hội.
-         Một là, đây là việc làm gian lận, không hợp pháp.
-         Hai là, nó sai kỹ thuật, thiếu cơ sở lý thuyết.
Con người có thể nói “đen” là “trắng”, nói “làm sai” là “làm đúng” trong quan hệ con người. Nhưng thực tế “đen vẫn là đen” và “sai vẫn là sai”, không thể lật ngược một cách đơn giản như vậy, như thế mới là có tính  khoa học trong nhận thức cuộc sống.

Sau khi “ghép cành”, người ta thấy các CNQLvs cũng HĂNG HÁI làm GCN như mọi người dân bình thường khác, mà thực tế có khả năng bất công và gian dối hơn vì … lạm dụng quyền lực bất hợp lý.
Vậy là sau hơn nửa thế kỷ huấn luyện học tập HTML, các CNQLvs không từ bỏ được BẢN NĂNG “MUỐN GCN”. - Vì nếu thật sự họ đã “đắc đạo” chân lý ML, thì các CNQLvs sau khi “LÀM GCN” sẵn sàng chia hết lại cho dân nghèo, hay tự nguyện sung vào công quỹ”, như ngày nào đã tịch thu tài sản của các “tư sản, địa chủ” hay kể cả “tư sản mại bản” để nộp vào công quỹ vậy.
Nhưng thực tế không ai có ý nghĩ phải hành động như trên cả.

KẾT LUẬN, theo định nghĩa, các CNQLvs là những người tài đức ưu tú nhất của HTML, nhưng vẫn say mê “làm GCN” bằng KDTD, không thua hoặc còn hơn nhân dân. Vậy thì làm sao chứng minh, HTML là hoàn toàn khả thi, khi MỤC ĐÍCH CHÍNH là cấm nhân dân làm GCN bằng KDTD.
Vậy là đã rõ, HTML mãi mãi không là một chân lý hiện thực, trong đời sống con người và xã hội văn minh.
Nó chỉ là một lý thuyết được dùng trong nghiên cứu tham khảo.





PHÂN ĐỌAN HAI: BẠO LỰC VÀ LÝ LẼ.

I.                  HTML đã sai.
-         HTML có mục đích thiện, vì muốn “chống bóc lột” để giải phóng loài người khỏi bất công xã hội.
-         Tuy nhiên luận điểm “chống bóc lột” là không đúng, nên từ “mục đích thiện” đã vô tình trở thành “mục đích ác”, vì hại dân -  Một học thuyết “vừa sai vừa ác” chắc chắn không hợp lòng dân, chỉ hợp với những ai muốn lợi dụng nó ...
-         Vì không hợp lòng dân nên HTML, phải dùng BẠO LỰC (ác) để áp đặt.
-         Suy ra, HTML “vừa ác về mục đích, vừa ác về phương thức thực hiện”.

·    Nên HTML đi đến đâu nỗi tiếng là gieo sự sợ hãi cho nhân dân nơi đó, khi tỏ thái độ bất đồng.

-         Kết luận: “HTML là một sai lầm”. –
o   Nó chỉ đúng phần “ước muốn thiện của tác giả”, và đúng phần “ước muốn thiện của những người đầu tiên vận dụng HTML’ (vì lầm tưởng nó đúng), và nó đúng phần một số ‘phương pháp luận biện chứng khoa học’.
o   Còn lại HTML đều sai và ác.
Vì thực tế những sai lầm của nó đã rõ. Nhưng người ta lấy lý do này lý do khác, để kéo dài thời gian sử dụng HTML, về nội dung hay chỉ mượn cái danh hình thức của nó.


-         BẠO LỰC trong HTML, được dùng trước hết để cướp chính quyền tư  bản.
Sau khi có chính quyền, HTML tiếp tục dùng BẠO LỰC để xây dựng “Xã Hội Mới” (dự kiến “không còn người bóc lột người”),

o   Bạo lực, vì Tự Vệ trước bạo lực, là cần thiết khi chưa tìm ra khả năng nào khác.
§    Ví dụ: cướp chính quyền, vì nó đã đàn áp nhân dân.
o   Bạo lực, nhằm Áp Đặtý chí thiểu số’ lên ‘ý chí toàn dân’, là Sai.
§    Ví dụ: chính quyền dùng bạo lực áp đặt nhân dân, phải chấp nhận HTML vô điều kiện (thay vì phải ý kiến, trưng cầu dân ý …).

* Lý do không được dùng BẠO LỰC với xã hội, là vì ý chí của nhân dânchân lý.
chân lý là tuyệt đối, nó trên mọi giá trị, kể cả BẠO LỰC.              

* Chân lý (lẽ phải) có thể lạc hậu, chân lý (lẽ phải) mới sẽ thay thế.
Chân lý mới thay thế chân lý cũ, bằng đối thoại và chứng minh, trong sự bình đẳng và tôn trọng giữa người với người, trên cơ sở chân lý gốc làm chuẩn.

* Khi xã hội càng văn minh, con người càng cần ưu tiên dùng TRAU ĐỔI LÝ LẼ để giải quyết mâu thuẩn xã hội, thay cho quyền lực, với điều kiện xã hội có đủ lý lẽ (chân lý).
Nếu không đủ lý lẽ, thì các bên quan điểm có thể chọn giải pháp “biểu quyết” lấy đa số (trưng cầu dân ý) để chọn ra kết luận hên xui,  … và chờ thời gian để thực tế cho câu trả lời khách quan cuối cùng. Trong khi đó, xã hội phải tiếp tục nghiên cứu nâng cấp nhận thức để lý lẽ trở nên đầy đủ.
* Kết luận, dù với lý do gì, các vấn đề chung xã hội đều có thể giải quyết bằng con đường của lý lẽ hay bằng các giải pháp PHI BẠO LỰC. Trong đó quyền kết luận của toàn dân, ngày càng nỗi lên như một quyền lực tối thượng.

**  TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT.

II.               Trường hợp đặc biệt.
Sau khi giành chính quyền, những người “TÍCH CỰC” cho rằng, nếu để quyền lực xã hội rơi vào những phe phái “KHÔNG TÍCH CỰC”, là điều không lợi cho xã hôi. - Vì kinh nghiệm thực tế cho thấy, sự “đúng-sai, tốt -xấu” có thể bị lẫn lộn và trở thành lạm dụng trong xã hội tư bản.
Nên tốt nhất, khi thờ cơ đến phe phái “TÍCH CỰC” quyết dùng BẠO LỰC, để duy trì ưu thế chính trị xã hội của mình, trong khi chờ đủ lý lẽ - (… vì tin rằng sau thời gian vận dụng HTML sẽ trở nên đủ lý lẽ – có sức thuyết phục).
Một quyết định tạm thời HỢP LÝ.

Tuy nhiên sau thời gian phát triển, xã hội vẫn chưa tìm ra LÝ LẼ để thay thế BẠO LỰC. Thế là BẠO LỰC từ dùng tạm (vài năm), nay chuyển sang dùng lâu dài và vĩnh viễn.
Vậy là vấn đề đã trở nên khác, nó đã thành VÔ LÝ không chấp nhận được.
Vì BẠO LỰC kéo dài để duy trì “độc tôn quyền lực”, thì cũng là lúc phe phái “TÍCH CỰC” sẽ bị thoái hoá thành phe phái “TIÊU CỰC”, do qui luật “thoái hoá nhân cách” phát huy tác dụng. – hệ quả của sự thiếu hụt LÝ LẼ, dẫn đường sự sống (và nhân cách đạo đức).
Qui luật đó là, khi lý lẽ sinh tồn thiếu, bản chất con người sẽ không có điểm tựa phát triển, nên buộc nó phải thoái hoá mỗi khi đối diện trước “quyền và tiền” quá lớn, đã kích thích mạnh lòng thàm hưởng thụ của con người, bất kể các giá trị nhân cách đạo đức đã tích luỹ lâu năm.
Nó là bản chất tự nhiên của con người trước tác động hoàn cảnh, nhưng thiếu một cơ chế giám sát hợp lý hiệu quả đi kèm. Vì vậy mà trong xã hội tư bản có “tam quyền phân lập”, v.v…
 – Lưu ý, “tam quyền phân lập, đa đảng, v.v…” tuy rất hữu ích cho xã hội, nhưng nó vẫn chưa phải là cứu cánh của thời đại. Chỉ có LÝ LẼ (chân lý) mới là cứu cánh duy nhất của thời đại. –

Vì lý do trên mà phe phá “TÍCH CỰC” ngày nào, nay đã trở thành bình thường (không còn ưu việt) như mọi phe phái khác. Hoặc nó thấp hơn so với các phe phái “TÍCH CỰC mới”, do được sản sinh ra từ hoàn cảnh mới của xã hội sau một chu kỳ phát triển.
Vì vậy, đã đến lúc phe phái “TÍCH CỰC ” phải trao trả lại “quyền lực” cho xã hội, như bình thường tư nhiên nó vốn có. Tức là quyền đa đảng, tam quyền phân lập, tự do ngôn luận, tự do thông tin, tự do kinh doanh, quyền tư hữu, nhân quyền, v.v…, mà HTML từ lâu nay đã tước đoạt của nhân dân và xã hội.
Từ sự trao trả này, phe phái “TÍCH CỰC mới” sẽ có cơ hội lên thay thế, với hình thức tổ chức xã hội mới, nơi đó quyền lực nhân dân chiếm vị trí tuyệt đối.

III.           Sự lạm  dụng.
Thực tế cho thấy,
phe phái “TÍCH CỰC” sau khi thành “TIÊU CỰC”, đến phiên nó, cũng có đầy đủ các đặc tính tiêu cực có hại cho nhân dân và xã hội, - mà họ đã một thời muốn chống khi  còn là “TÍCH CỰC”.
Giờ đây đến phiên họ, nhân danh “TIÊU CỰC”, sẵn sàng phạm mọi tội lỗi và tội ác với nhân dân, chỉ để bảo vệ “quyền và lợi” mà họ đã chiếm giữ bởi cơ chế … truyền ngôi của HTML.
Đây là điều xảy ra ngoài dự đoán của các nhà cách mạng tiên phong. – Trước là “vì dân mà đấu tranh”, nay “vì lợi quyền, mà hại dân”.

Vì những nhà cách mạng tiên phong không hiểu rằng, mỗi lần chuyển giao quyền lực, là mỗi lần phẩm chất “TÍCH CỰC” của phe phái, giảm đi một trị số. Vì hoàn cảnh đào tạo con người đã thay đổi.
Cha mẹ nào cũng thương con, “tiền bối” nào muốn mất “hậu bối” … , nên dùng uy tín “TÍCH CỰC” bao che cho “TIÊU CỰC”, - chấp nhận mang tội đồng loã, đồng phạm, để chứng minh tình nghĩa chí cốt.
Hậu quả là xã hội bị hoả mù, mất phương hướng lượng giá tình hình chính trị xã hội.

Người ta mến ông “TÍCH CỰC”, nhưng ghét ông “TIÊU CỰC”.
Muốn đánh ông “TIÊU CỰC”, thì ông “TÍCH CỰC” … đã rên la. Vậy là chùng tay. “TIÊU CỰC” có cơ hội ngày càng nặng hơn, sẽ đến lúc bít đường phát triển xã hội.
Do tình người đặt không đúng chỗ, phần khác do Lý Lẽ thiếu, mà con người thành phân vân không rõ đường ra quyết định cho đúng đắn.

IV.           Lối thoát.
Con đường phát triển xã hội bị kém dần, mọi người ai cũng mệt mõi.
Hoá ra xã hội càng hiện đại càng phức tạp, sự sống càng khó hiểu phức tạp khó lý giải. Cùng là con người, ai cũng biết nói tốt nói hay nói thiện, nhưng khi làm thì “mạnh hiếp yếu, quan hiếp dân” không một chút tình người, không cần lý lẽ phải trái.
Người thời đại văn minh như không khác gì thời tiền sử, cũng hung tợn hà hiếp nhau v.v... Nhưng cái ác thời nay khác thời xưa, vì nó gian hơn, mưu mẹo hơn, nguy hiểm hơn, v.v... nên con người khó phân biệt hương.

Mệt mõi … nhưng quay lại tư bản thì bị chê, tiến lên cộng sản thì không có đường.
Vậy thì chính quyền nên chọn đối thoại với nhân dân, để  “…, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Trong đối thoại trên, HTNT sẽ giới thiệu về “LÝ LẼ”, khi thấy đã đủ thì xã hội chọn, để con đường tiến lên được hợp tình hợp lý.

Vì cái thiếu chính của xã hội và thời đại là vấn đề LÝ LẼ, để thay thế “BẠO LỰC”.
HTNT ngược lại với HTML. Cái gì bên kia cấm thì bên này cho phép khuyến khích. Cái gì bên kia mở nếu có lợi cho nhân dân, thì càng tạo điều kiện mở rộng hơn.
HTML sợ nhất là công khai minh bạch, và đối thoại với nhân dân. HTNT xem đây là những điều kiện phát triển xã hội tốt nhất.
HTNT xem chân lý là tự nhiên sẵn có, vấn đề là mọi người cùng biết cùng khai thác. Không có việc gì phải độc quyền giữa ai với ai, tất cả cùng minh bạch để tất cả cùng thuận lợi trong kiểm tra nhau.
Để có chân lý chỉ cần mọi người mở rộng quan hệ bình đẳng, thì chân lý tự nhiên sẽ đúc kết thành – bên cạnh “chất xúc tác” của HTNT.
Bí quyết của HTNT là tạo chất xúc tác, giúp mọi quan điểm khác nhau thông qua “LUẬN PHÁP”, tìm thấy con đường minh chứng hợp nhất, chấm dứt chuỗi dài mâu thuẩn đối kháng bạo lực của lịch sử loài người.

Tất yếu sự sống không đơn giản. Nó cần sự hợp tác của mọi người thì mới tìm ra hướng đi tối ưu. – Có đường mà (vì nhiều lý do) xe không muốn chạy, không muốn hợp tác, thì đường dù có rộng có tốt cũng thành vô nghĩa./.




Ngày 11.7.2012
HVS


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét