Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

4 - ĐẠO ĐỨC NHÂN TÂM



(Chú thích: “ĐẠO ĐỨC NHÂN TÂM” là tác phẩm thứ bảy (tính theo trình tự biên soạn) trong bảy tác phẩm về Học Thuyết Nhân Tâm của Hoàng Vĩnh Sưu. Do được viết sau nên nhiều nội dung liên quan đến các tác phẩm trước, mong bạn đọc lưu ý .)

Trong cuộc sống ngoài nhu cầu ăn mặc ở, con người còn cần có ý thức đạo đức trong quan hệ cộng đồng. Nó là một phần hữu cớ không thể tách rời của đời sống con người. Thiếu ý thức đạo đức quan hệ sẽ không thành.
Xã hội nào cũng có chuẩn mực đạo đức của xã hội đó. Ai làm tốt được khen, ai sai nhẹ thì bị quở trách, nặng thì bị trừng trị theo luật.
Theo nguyên tắc, những qui định của đạo đức đã có từ lâu đời, nên thường là phải chấp hành không được trái.
Song thực tế cũng chứng minh, đạo đức mỗi thời mỗi khác đâu phải luôn giống nhau. Suy ra có cái đúng hôm qua, hôm nay đã là sai. Hoặc đạo đức mỗi vùng miền, mỗi dân tộc mỗi khác, đâu ai bắt buộc được nó phải luôn giống nhau.
Như thế đạo đức là một phạm trù rất đa dạng và phức tạp.
Nguyên tắc của đạo đức là nhằm xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa con người, như thế mới đúng nghĩa. Còn ngược lại thì không ai gọi là đạo đức.
Đạo đức là sự biểu hiện của lẽ phải của chân lý, thông qua hành động ứng xử.
Nhưng trong thực tế, con người có thể nhân danh đạo đức để gây điều xấu cho nhau. Đây chính là vấn đề phức tạp cần đặt ra.
Vì sao đạo đức có thể bị lạm dụng để không thể làm tròn chức năng của mình ?
Vậy đạo đức là gì, cơ sở nào để thiết kế nên một qui định đạo đức, cơ chế nào đã sản sinh ra nó. Hay tất cả chỉ là do hình thành ngẫu nhiên, không ai chịu trách nhiệm giám sát, quản lý, điều chỉnh nó mỗi khi cần.

Có thể chung qui là do từ lâu các nhà quản lý xã hội, chưa nhận thức hoặc chưa đủ điều kiện nhận thức được hết tầm quan trọng của đạo đức đối với đời sống con người và xã hội. Do đó xã hội chưa có một cơ quan chuyên trách nghiên cứu và quản lý về phạm trù đạo đức.
Đạo đức do đâu mà có, nó có cội nguồn hình thành như thế nào, v.v.... Có thể vì tự phát trong quá trình hình thành, và do từ nhiều nguồn ngẫu nhiên khác nhau, cuối cùng chúng trộn vào nhau và có thể gây thành xung đột mâu thuẩn với nhau khi tất cả cùng đổ chung vào mặt đời sống quan hệ xã hội.
Cùng một nội dung quan hệ, nhưng nhiều người có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, do có nguồn gốc tập quán đạo đức khác nhau.

Vậy thế nào là “đạo đức chuẩn” và thế nào là “đạo đức không chuẩn (sai)”.

Do chưa qui định đạo đức chuẩn mực làm mẫu đối chiếu, nên con người khi vận dụng có thể tùy tiện “chế biến” nó cho hợp nhu cầu của mình. Thế là sinh ra tranh cãi, bất ổn, mất đoàn kết.
Đâu là nguồn gốc của đạo đức có lẽ khó ai biết hết, nhưng rõ ràng đối với sự sống con người nó có một ý nghĩa đặc biệt, mang tính sống còn.
Ví dụ: nếu mọi người cùng tôn trọng một chuẩn mực đạo đức thống nhất, thì thế giới sẽ không còn chiến tranh. Bởi không mô hình đạo đức nào khuyến khích con người gây chiến cả.

Đạo đức trong sự sống, còn là một công cụ đo lường giá trị nhân cách của mỗi con người. Ai tốt ai xấu, ai thiện ai ác, v.v… đều có thể thông qua cách ứng xử đạo đức để đánh giá.
Đối với cá nhân, từ suy nghĩ, lời nói, hành động, cử chỉ, thái độ, v.v… đều có dấu vết của đạo đức.
Theo nhận thức thông thường người có đạo đức tốt, là người sẽ được sống đời bình yên và hạnh phúc (hiện tại hoặc tương lai). Vì vậy cá nhân hay xã hội được đánh giá có mức sống đạo đức cao, là đồng nghĩa có nhiều hạnh phúc và được nhiều ngưỡng mộ.
Như thế đạo đức là một trong các cánh cửa mở ra con đường hạnh phúc đời người.
Nó là một dạng chuẩn mực của lý trí và hành động, là cột móc đánh dấu trình độ phát triển văn minh của một nền văn hóa, hay rộng hơn nữa nó là thước đo sức mạnh tổng lực về ý chí và tinh thần của một dân tộc hay của một quốc gia.
Nếu con người tin rằng con đường đạo đức sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người, thì đạo đức ây nhất định phải mang tính nhân bản rất cao.

Tuy nhiên quan điểm đạo đức thực tế có nhiều hiện tượng trái ngược.
Ví dụ: đồng tiền làm nên đạo đức, nhận thức làm nên đạo đức.
Như thế trong xã hội ta có thể chia ra hai nhóm đạo đức cơ bản, một là “đạo đức vì đồng tiền” (vì quyền thế), hai là “đạo đức vì nhân bản”. Trường hợp đầu gọi là phi đạo đức hay đạo đức quyền thế, cái sau mới là đạo đức đúng nghĩa.
Cuối cùng đa số người ta chọn đồng tiền làm thước đo đạo đức, còn nhân bản ít được quan tâm hơn.
Nói cách khác con người thời nay thích tiền hơn tích đạo đức.
Tại sao ?
Có thể tại vì phạm trù đạo đức đã lạc hậu không còn thích ứng với thời đại, nên không tạo được sức hấp dẫn với mọi người bằng … sức mạnh của đồng tiền.
Chiến tranh, xung đột, mâu thuẩn, đau khổ, mất mát, v.v… tất cả đều có chung một nguyên nhân, đạo đức kém.
Thực tế trên nói lên nếu đạo đức tiếp tục suy yếu thì thế giới sẽ còn phải chịu nhiều thiệt hại hơn nữa.

Bằng cách nào nâng giá trị đạo đức lên ngang tầm thời đại, thì mới hi vọng cải thiện được tình thế.
Vì lý do trên mô hình “Đạo Đức Nhân Tâm” (ĐĐNT) được nghiên cứu đề xuất từ cơ sở của Học Thuyết Nhân Tâm (HTNT). (xem “Cách Sống Mới”)
ĐĐNT là đạo đức phổ thông nhưng được trang bị thêm phương pháp luận nhầm có cớ sở loại trừ ra những gì không còn thích hợp, và bổ sung mới những gì nên có.
Hy vọng nó là một gợi ý tốt với xã hội với mọi người, nhầm tạo cơ sở cho sự hình thành một mô hình ĐẠO ĐỨC MỚI chuẩn mực tiên tiến hiện đại khách quan và khoa học.


I – MỘT SỐ NHẬN THỨC VỀ ĐẠO ĐỨC

“Tiên học lễ hậu học văn”, nay phải chăng đã lạc hậu.
Thế kỷ 21 tiếp tục đánh dấu sự phát triển vượt trội của khoa học vật chất (KHVC). Nó đã tạo nên ấn tượng mạnh cho thế giới, song vô tình nó  làm lu mờ đi nhiều giá trị truyền thống tinh thần khác, trong có vấn đề làm thoái hóa các giá trị đạo đức truyền thống.
Nếu trước “tiên học lễ” thì nay … “tiên học làm giàu, hậu học làm quan” ... Học làm giàu không sai, học làm quan càng tốt, nhưng cuối cùng để được kết quả gì, đấy mới là vấn đề.
Nếu con người lớn lên chỉ biết ưu tiên học nhiều thứ trừ nhưng trừ đạo đức, vậy đạo đức  nên được xếp vào tầng giá trị nào, cuối hạng chăng?
Khoa học có thể giúp tạo ra nhiều tiền, nên con người chuyển niềm tin sang khoa học. Nên xã hội thích ưu tiên đồng tiền, cũng đồng nghĩa ưu tiên khoa học.
Như thế thực tế đạo đức đã bị rớt hạng.

Nhưng kinh nghiệm của các bậc trưởng lão thì đạo đức bao giờ cũng nên được giữ ở vị trí trung tâm của trí tuệ con người, như thế sự sống mới không sinh loạn, lòng người mới yên ổn, quan hệ mới đoàn kết, và xã hội mới phát triển bền vững.
Giữa yêu cầu khách quan của kinh nghiệm sống và ý thích chủ quan của thời đại, đòi hỏi phải có lời giải đáp thỏa đáng.
Nguyên nhân vấn đề là do đạo đức đã lạc hậu quá lâu, nó cần được hiện đại hóa để hòa nhập với thời đại.
Phải chăng vấn đề là phải khoa học hóa nó.
Vì khoa học đã minh chứng giá trị vạn năng của nó đối với đời sống con người. Vậy đã đến lúc nên đưa nó ứng dụng vào lĩnh vực đang rất yếu kém hiện nay của xã hội.

Sau thành công trong thế giới vật chất, nay nó cần được thử sức trong thế giới tinh thần, cụ thể là trong phạm trù đạo đức mà chúng ta đang quan tâm.
Theo lý giải trong các tác phẩm trước, chúng ta biết rằng tinh thần và đạo đức là hai vấn đề nhưng xem như một, vì đều nhầm giải quyết bài toán quan hệ giữa người với nhau.
Một bên quan tâm góc độ nội dung toàn diện mang tính bản chất, một bên là những biểu hiện cụ trong quan hệ ứng xử cụ thể.

Khoa học hóa đạo đức có nghĩa là, mọi kiến thức về đạo đức đều phải được minh chứng chuẩn hóa trước khi hoặc sau khi ứng dụng thực tế.
Nó khác với thông thường. Đạo đức, ai muốn nghĩ và làm thế nào tùy thích miễn là …  thích hay có quyền. - Vì xã hội thiếu một nơi để mọi người tin tưởng cùng thống nhất tham khảo.
Một nền đạo đức muốn trở nên hiện đại thì nó cần được chuẩn hóa một cách cụ thể và chi tiết, để mọi người dễ tham khảo so sánh và biết mình phải điều chỉnh hành vi thế nào là bảo đảm không sai.

Khi mô hình đạo đức chuẩn hóa được hình thành, ví dụ ĐĐNT, thì vấn đề phổ cập kiến thức đạo đức mới cho xã hội được đặt ra.
Nó tương tự như sự tuyên truyền chuyển đổi từ thói quen chữa bệnh theo kiểu thầy lang, nay hướng chuyển sang trị theo kiểu tây y vậy. Thói quen dần dà sẽ thay đổi khi lợi ích cụ thể được minh chứng.

Chúng ta vừa gợi ý về mô hình đạo đức mới, có thể giúp con người tìm thấy quan điểm thống nhất trong quan hệ.
Đạo đức xã hội thường có liên quan mật thiết đến chế độ chính trị của xã hội đó.
Muốn cải tiến chất lượng đạo đức xã hội, cũng tức là ít nhiều liên quan đến yêu cẩu đổi mới chế độ chính trị của xã hội ấy.
Vậy nếu khoa học hóa đạo đức, thì cũng nên chăng khoa học hóa cả về chế độ chính trị xã hội.
Có như thế mới đồng bộ, hiệu quả mang lại mới thiết thực. Nếu không sẽ sự sống sẽ như trống đánh xuôi kèn thổi ngược, tất cả sẽ thành phí công.

Khi đạo đức đã được nâng lên tầm khoa học, thì tin rằng nó sẽ giành lại được vị trí đầu bảng tiêu chí giá trị sống, soán ngôi của “tiền tài quyền thế”  đang chiếm giữ hiện nay.
Đời người bắt đầu từ đạo đức và kết thúc cũng bằng đạo đức. Chỉ có đạo đức mới cho con người sự an vui khi từ giã cõi đời. Chỉ có đạo đức các bậc cha mẹ mới có thể giúp con cái trưởng thành nên người.
Gần như hễ có vận động tư duy là con người có nhu cầu đạo đức, não ngưng tư duy thì mới không còn liên hệ đến đạo đức. Vì đạo đức như chất bôi trơn, nhằm đem lại sự bình yên cho tâm hồn.
Chất bôi trơn kém, xấu, nhất định tâm hồn người sẽ cảm thấy bất an, không hạnh phúc.

Sự sống gom ăn mặc ở v.v …  tất cả đều không thể tách rời với phạm trù đạo đức. Điều này có thể không chấp nhận đối với một số người, nhưng với đa số khác, nó là điều kiện tiên quyết trong sinh tồn, thiếu nó họ như đã không hoàn thành trách nhiệm với nhân cách của họ.
Vì vậy vật chất dù rất cần rất quý, song tùy trình độ nhận thức mà nó có thể bị xếp dưới giá trị đạo đức. Trong trường hợp này, vật chất chỉ còn là phương tiện, là công cụ phục vụ cho đạo đức (tinh thần) tiến lên.
Phải chăng lịch sử tiến hóa của loài người, thực chất chỉ nhằm đấu tranh vì một đỉnh duy nhất, dành vị trí tối cao của giá trị sự sống cho đạo đức tinh thần.

Trong sự sống nếu gọi phương tiện là vật chất, mục đích thuộc về tinh thần (giá trị), thì cả hai đều có giá trị gần như nhau, sự sống không thể thiếu một trong hai.
Tuy nhiên trên phương diện nhận thức và phát triển nhân cách, thì giá trị tinh thần phải đáng quý hơn.
Thế giới ngày nay nhìn chung đã đạt về phương tiện, vấn đề còn lại là phấn đấu tìm và tiến về mục đích.
Những mục đích sống mà con người đang theo đuổi hiện nay, đa số là vật chất, nó chưa phải là mục đích đúng nghĩa.
Do mục đích tinh thần mang tính trừu tượng (phi vật thể), nên nhiều người ngộ nhận nó không có, không thật, không có cơ sở thực tế hay khoa học để chứng minh sự hiện hữu v.v…. Đơn giản vì họ chưa nhận thấy lợi ích cụ thể do giá tri tinh thần mang lại, hay có thấy nhưng chưa đầy đủ, chưa đúng hết, còn nhiều ngộ nhận ...

Sự thật lợi ích của giá trị tinh thần mang lại rất lớn cho sự sống con người, mà đại diện cụ thể là đạo đức.
Cụ thể là nhân cách, là cá tính, là tình cảm quan hệ tốt đẹp, là niềm vui hạnh phúc, v.v… và là sự bình yên trong trật tự ổn định xã hội (loài người), là sự yên ổn thăng hoa của tâm hồn. Đó là những phần thưởng nếu như con người làm tốt mục đích tính thần.
Ngược lại là sự buồn khổ, là sự bất an, là sự hận thù, v.v… là chiến tranh, là sự bất ổn từ nội tâm cá nhân đến vận hành xã hội (loài người). Là cái giá phải trả khi mục đích tinh thần bị ngộ nhận rẻ rúng …

Vật chất có vai trò đóng góp của nó, nhưng tinh thần cũng có vị trí đóng góp riêng của nó mà con người không thể chủ quan phủ nhận.
Vấn đề là phải biết phân biệt mỗi giá trị đối với sự sống, và suy ra đâu là nhiệm vụ con người phải hoàn thành trong từng thời điểm yêu cầu.
Sửa một nếp sai trên rãnh não khó gấp nhiều lần để tạo nên một nếp rãnh đúng đắn về đạo đức. Nhiều rãnh đúng đắn được khắc ghi lên võ não, sẽ là một tài sản tinh thần lớn lao đối với cá nhân và xã hội.
Vì vậy lựa chọn mục đích đạo đức làm hướng đầu tư cơ bản trước mắt và lâu dài bên cạnh các đầu tư song hành khác, nhất định là một hướng lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, chỉ có lời chứ không bao giờ thấy lỗ.

Tuy nhiên mục đích tinh thần (đạo đức) cũng có nhiều loại.
Có loại hợp với người khả năng khiếm tốn, có loại cần cho người có khả năng cao như các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, v.v...
Trong một môi trường đạo đức chưa chuẩn, thì mục đích tinh thần ít được quan tâm hoặc có quan tâm nhưng hiệu quả thật thường, nên tính chung là xấu.
Khi ấy do ảnh hưởng chung sẽ có lúc sự kém cỏi ấy rơi vào những người nhận trọng trách cao trong xã hội, đồng nghĩa với hậu quả gây ra không nhỏ, và … nhiều chính quyền đã bị lật đổ là vì lý do này.
Theo nguyên lý, những nhà lãnh đạo phải là những người có mục đích chính trị lớn, đồng nghĩa với mục đích tinh thần (đạo đức) phải cao. Mục đích tinh thần ấy đúng hay sai, đúng ra rần cần để cho xã hội đánh giá nhận xét công khai trước và trong quá trình họ nhận và thực hiện nhiệm vụ. Nhất là sự tham gia góp ý của những nhà trí thức chân chính.
Một xã hội mà chính quyền không tạo thuận lợi cho mọi người dân đánh giá nhận xét tự do về mọi mặt trong phạm vi trách nhiệm, thì rõ là chính quyền ấy còn kém, hay có khả năng trở thành một tội phạm lớn của xã hội.
Tuy nhiên nhận xét đánh giá mà không dựa trên quan điểm chuẩn mực khoa học, thì kết quả cũng hạn chế hoặc dẫn đến không tâm phục khẩu phục.
Đây là lý do ĐĐNT được đề xuất, như một chuẩn mực để đánh giá nhận xét về quan điểm đạo đức, mục đích tính thần của đối tượng.
Đăc điểm của ĐĐNT là được xây dựng trên cơ sở khoa học hợp lý, khách quan, ai cũng có thể hiểu và vận dụng theo khả năng, nhưng vẫn qui về một kết quả thống nhất.
Mục đích của ĐĐNT là phục vụ cho sự sống con người nói chung, không ưu tiên cho thành phần xã hội hay giai cấp nào, tất cả đều công bằng bình đẳng, miễn sao tất cả cùng đoàn kết hòa bình hạnh phúc và cùng tiến lên thịnh vượng.



II– NGUYÊN LÝ XÂY DỰNG ĐĐNT

1-    ĐỊNH NGHĨA

1. Theo tự điển tiếng việt của viện Ngôn Ngữ Học, đạo đức là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội (nói tổng quát). 2. Phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn mà có”.
Vấn đề đặt ra, dư luận xã hội được hình thành trên quan điểm đạo đức nào, tiêu chí ra sao, thuộc hệ tư tưởng nào, đúng hay sai, v.v…
Hay nó đã có từ lâu đời, và mọi người cứ thế mà “hùa” tiếp theo  … không cần biết đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý, chỉ cần biết chấp hành vô điều kiện là đủ.
Nếu quan điểm đạo đức theo kiểu vô tư như trên, ta tạm gọi như thế là … thụ động bảo thủ phi khoa học độc đoán kém trách nhiệm kém năng lực v.v…,  vì nó góp phần nuôi dưỡng kéo dài những qui định đạo đức trái tự nhiên không lợi cho con người và xã hội.

Trên thế gian, vạn vật đều biến đổi theo thời gian, vì vậy không có bất kỳ cái gì là vĩnh cữu mãi mãi, kể cả … chân lý cũng không mãi mãi, khi loài người thế gian không còn tồn tại ...
Một tư duy (quan điểm) được gọi là tốt, là năng động, sẵn sàng thay đổi khi hoàn cảnh thay đổi, nhầm giúp cho những giá trị mới hợp lý hơn đúng đắn hơn có ích cho mọi người, có cơ hội thế chỗ của các giá trị kém lợi ích hơn … (nên được bỏ đi ).

Các nội dung qui định của đạo đức rất đa dạng, nó bao phủ trên mọi mặt đời sống con người, trong số ấy có một phần do tự nhiên đã an bày …  một cách rất tự nhiên rất hợp lý.
Ví dụ: nhu cầu ăn ở mặt v.v… là những hành vi đạo đức rất hợp lý. Tự nhiên có nhu cầu đánh, cắn, chửi ai đó … là những hành vi đạo đức bất hợp lý.
Ngoài ra phần lớn các nội dung qui định đạo đức còn lại đều do con người tự nghĩ ra để ràng buộc nhau.
Trong phần này nhất định có cái đúng cái sai, có cái còn hợp thời có cái không, nên rất cần được con người nghiêm túc nghiên cứu rà soát chỉnh đốn lại theo từng thời đại, từng giai đoạn thời gian, nhầm phục vụ tốt sự sống con người nói chung.
Quá trình tự kiểm như trên phải do các thế hệ trong mỗi giai đoạn thời đại, chịu trách nhiệm hoàn thành. Trước là các cơ quan chuyên môn, kế là các nhà khoa học, sau cùng là mọi người dân.
Tức là không được đỗ và giao khoáng cho … trời và cho tự nhiên.

Một nội dung đạo đức được gọi là còn giá trị (thích hợp), khi nó còn hiệu quả, còn có ích cho người thực thi và cho xã hội.
Trong đạo đức để phân biệt đâu là tính đúng sai …
… May sao “trời” đã ban cho loài người cái gọi là “chân lý gốc” (CLG – xem “Ý Thức”),  đây là tiền đề rất quan trọng để suy lý và cảm nhận tính đúng sai của một hiện tượng quan hệ.

(LƯU Ý: nhiều hành vi đạo đức sai được lập đi lập lại nhiều lần (ở nhiều góc độ) bởi một cá nhận, đủ để kết luận cá nhân ấy có quan điểm đạo đức sai, vì sự sai lầm đã có dấu hiệu hệ thống.
Cũng tương tự như thế, ta định nghĩa về cá nhân có quan điểm đạo đức đúng.)

Dưới góc độ HTNT,
Khi một quan điểm đạo đức sai nhưng thuộc về phong tục tập quán, thì rõ ràng không dễ sửa. Nhưng nếu con người nhận thức ra nguyên nhân sai lầm của nó và muốn sửa, thì vấn đề sẽ không khó để chỉnh sửa song cùng cần có thời gian.
Đối với cá nhân cũng vậy, để thay đổi một quan điểm sống là không dễ, nhưng nếu đã nhận thức ra vấn đề và muốn chỉnh sửa, thì vấn đề sẽ không còn là khó khăn.
Đặc biệt nếu bài toán chúng về phong tục tập quán đã tìm ra lời giải, thì quan điểm cá nhân sẽ càng dễ sửa đổi hơn theo trào lưu dư luận.

Vấn đề lớn của đạo đức là cần có chứng minh để lý giải và thuyết phục. Vì xưa nay với đạo đức, con người quen miễn chứng minh, cứ thế mà áp dụng và chấp nhận không được tranh cãi hay lý sự lôi thôi.
Đây là nhược điểm và là kẻ hở nguy hiểm của kiểu nhận thức đạo đức xưa nay, vì nó tạo điều kiện cho những kẻ xấu, bất nhân lợi dụng để bắt chẹt người tốt, ngay thẳng, đàng hoàng.
Vì người tốt tự nhiên không muốn làm điều sai cho dù đạo đức đã qui định. Nhưng như thế nếu so với đạo đức thì người tốt “không còn tốt”, thế là kẻ xấu rất khoái trí khi được công khai thành “người tốt” đồng thời hại và trả thù “người xấu” oan ức một cách ... đắc thắng và hả dạ.
Kẻ xấu như trên có mặt ở mọi nơi (vì đạo đức cũ cho phép), nhất là khi leo được lên đến vai trò lãnh đạo thì tha hồ … tung hoành. Còn người thật tài thật đức thì … lãnh đủ hậu quả với tư cách nạn nhân, mà không biết kêu ai (?).
Xã hội bị thiệt, con người bị thiệt không riêng gì ai. Đây là một trong những nguyên nhân ngấm ngầm làm phức tạp hóa cuộc sống, phức tạp hóa xã hội, cuối cùng là khủng hoảng … vô phương tìm ra nguyên nhân (!).

Bởi con người văn minh đã bị ấn tượng mạnh trước các thanh công của KHVC, nên đã để tư duy chậm … trong phát triển KHTT.
Nên tránh sao công việc minh chứng đạo đức không bị bê trễ, để hậu quả mới thành tràn lan như tất cả mọi người đang thấy.
Khi các minh chứng khoa học còn chưa tập trung đến nơi đến chốn, thì các chứng minh lý giải từng phần từng công đoạn vấn đề hay một bộ phận sự việc, có nhiều trường hợp mang tính khoa học cao không kém, đồng thời rất đa dạng và phong phú, nếu không nói … thừa dẫn đến chồng chéo mâu thuẩn v.v…
Trong KHTT, minh chứng khoa học chỉ có giá trị khi nó đồng bộ mang tính hệ thống nhất quán, còn ngược lại nó dễ trở thành “liều thuốc độc” khi con người cả tin vào một vài lời ngon ngọt mang tính lừa bịp gian dối.
Vì phạm trù tinh thần là một tổng thể nhất quán, nên một hiện tượng đơn lẽ chỉ đủ nghĩa khi cái tổng thể liên quan (cá nhân, tổ chức, quan điểm, tư tưởng, v.v…) đã được xác định nó là gì, vì mục đích ra sao, vì lợi ích nào, mang ý nghĩa tốt hay xấu, thiện hay ác, hữu tâm hay vô tâm, đúng hay sai, v.v…

Đạo đức là cánh cửa quyết định hiệu quả giao tiếp giữa con người với con người. Sự giao tiếp ấy có đem lại kết quả tích cực thân thiện hay không là tùy vào chất lượng của giá trị hệ đạo đức ấy.
Xưa nay như đã phân tích do chưa có một minh chứng về một hệ đạo đức chuẩn cho mọi người thống nhất, nên giao tiếp có lúc dẫn quan hệ con người rơi vào ngõ cụt (đối đầu, mâu thuẩn, hận thù, …) là điều khó tránh. Đấy là lý do để chiến tranh nổ ra.
Tất cả là do các hệ tư tưởng đạo đức, các quan điểm đạo đức khác nhau, nghịch nhau và không ai muốn nhường nhịn nhau. Cá nhân, xã hội, quốc gia v.v… cũng đều là nạn nhân.
Nhẹ thì lý lẽ khuyên răn, tình cảm thuyết phục, v.v… không nghe thì cãi vã, giận hờn, không gặp mặt, v.v…, nặng thì mè nheo, đố kỵ, xung đột, chửi bới, v.v…, nặng nữa dùng chân tay, gậy gọc, … đến vũ khí từ đơn giản đến hiện đại tinh vi tấn công nhau …

Thông thường đạo đức lý lẽ không thông, thì đạo đức thế mạnh được thay để đúc kết vấn đề.
Nếu may thế mạnh thuộc về phe đạo đức đúng, thì … trời thương. Nếu xui thế mạnh thuộc về phe đạo đức sai, thì … than trời.
Và tất nhiên trong cuộc sống, đạo đức thế mạnh và đạo đức lý lẽ được vận dụng xen kẻ nhầm hạn chế gây thiệt hại. Giữa hai kiểu thức đạo đức, trong thời đại hiện nay người ta chưa thể kết luận cái nào đúng cái nào sai hoàn toàn.
Tuy nhiên đạo đức thế mạnh dễ bị lên án nhiều hơn, vì nó dùng bằng bạo lực để áp đặt nên dễ gây phản cảm, làm người ta cảm giác mất tự do, không thoải mái về tình cảm (cho dù đối tượng thuộc dạng ác … ).
Lý tưởng nhất là dùng đạo đức lý lẽ (có kết hợp tình người) để thuyết phục cải hóa đối phương.

Đạo đức lý lẽ chỉ có thể thay thế hoàn toàn trước đạo đức thế mạnh, khi nó chứng minh được tính hiệu quả tuyệt đối. Tức là nó phải có CHÂN LÝ làm hậu thuẩn trong các lý giải, để đủ sức thuyết phục về tính toàn thắng của LẼ PHẢI trong bất kỳ trường hợp nào.
Nếu không con người sẽ lợi dụng khe hở còn sót lại, để “vỗ ngực” lẽ phải thuộc về phía mình chỉ bằng những “xàm luận”. Đã “xàm minh chứng” tức không mấy ai nghe, vậy là có cơ hội cho đạo đức thế mạnh được hồi sinh và tất cả lại quay về điểm xuất phát cũ.
Vì thế sự sống rất cần có chân lý làm chứng cho lý lẽ, làm kim chỉ nam cho sự sống con người.

Trong khi chờ có chân lý, thì sức mạnh bạo lức ngẫu nhiên … giành quyền chân lý. Lâu dần thành quen, thành tập quán phổ biến trong đời sống văn hóa văn minh.
Sự sống văn minh loài người trở nên phức tạp do bắt nguồn từ sự ngộ nhận đơn giản như trên.
Nhưng đa số con người ngộ nhận nguyên nhân chính thuộc về lãnh đạo, cơ chế xã hội, chế độ chính trị, giai cấp, dân trí, v.v… và tại trời.
Không tại cái gì và cũng không tại ai, có chăng nó chỉ là hệ quả của quá trình tiến hóa nhận thức (chưa minh chứng chân lý) của loài người, suy ra qui trình đào tạo nhân cách, xây dưng mô hình xã hội, phát triển học thuyết, ít nhiều còn sai sót.
Khi quan điểm nhận thức chung của con người về sự sống và đạo đức còn tương đối mơ hồ, thì việc để “lọt sổ” những sai sốt dẫn đến một chuổi các hậu quả đáng tiếc, là … cần cảm thông nhưng không khoan nhượng để tìm đường khắc phục tiến lên.

Để xác định chân lý sự sống cần phải có học thuyết minh chứng.
Từ góc độ chủ quan HTNT tự đề xuất như là một phương án khả thi điều kiện minh chứng trên.
Chân lý sự sống, không xa lạ, nó có nguồn gốc LƯƠNG TÂM, đây  là điểm tựa cơ bản để xây dựng nên mọi giá trị tốt đẹp cho sự sống loài người. (xem “Ý Thức”)
 Từ lương tâm (nói chính xác phải là “lương tâm A1”) con người có thể tìm ra được một mô hình đạo dức chuẩn xác, khoa học, phù hợp cho tất cả mọi người, cũng như dễ dàng thích nghi với mọi thay đổi của thời đại (thời gian và không gian).
Lương tâm đạo đức là liều thuốc đặc trị cho xã hội loài người hôm nay và mãi mãi muôn đời mai sau. Vì nó là hàng rào giới hạn quyền lực  chủ quan của loài người trước các qui định của thế giới tự nhiên. Nó tồn tại khách quan với ý chí chủ quan của con người.

Đạo đức lương tâm là mô hình duy nhất đúng, cho dù con người có khác nhau về trình độ nhận thức hay về góc độ quan điểm. Nhưng cuối cùng kết quả vẫn có chung một mục đích sống hạnh phúc cơ bản như nhau.

Con đường làm quen từ mô hình đạo đức cũ sang mô hình đạo đức mới “đạo đức lương tâm”, là con đường của thời gian của ý chí của những minh chứng thuyết phục nhau.
Nó là quá trình chuyển đổi dần từ các thói quen cũ sang các thói quen mới, từ đúng giả sang đúng thật, từ phi chân lý sang chân lý, từ chân lý tại ý thức sang chân lý tại tâm, từ lợi ích nhất thời ngắn hạn cục bộ sang lợi ích lâu dài vô hạn toàn diện, từ tính chất ác sang tính chất thiện, từ ngộ nhận chủ quan sang giác ngộ khách quan, từ qui luật nhân tạo chủ quan phiến diện che giấu cản trở tối lý sai tình, sang qui luật tự nhiên khách quan toàn diện công khai thuận lợi tình lý vẹn toàn ...
Đạo đức là tu tâm dưỡng tánh, là con đường của thời gian, là của đấu tranh giữa đúng sai trong nội tại bản thân, của sự quyết chí chọn con đường thiện thay ác, bỏ lợi ích trước mặt để chọn lợi ích lâu dài, cân đối giữa lợi ích cục bộ (cá nhân, gia đình) với lợi ích chung (xã hội), v.v...

Chọn lựa sai lầm con đường theo đuổi đạo đức hôm nay, sẽ để lại hậu quả khó lường về sau. Người đã sai thì việc sai cứ ngẫu nhiên tăng chồng chất theo thời gian. Một đời người và nhiều đời người vẫn có thể là nạn nhân của một sai lầm cơ bản hôm nay, nhất là khi sự sai lầm đã trở thành ý chí chủ đạo xã hội, do dư luận do chính quyền.
Con đường tốt nhất tiết kiệm thời gian nhất chỉ có thể là con đường nâng cấp quan điểm đạo đức từ ngộ nhận đến giác ngộ.
Kế đến là đầu tư xây dựng bệ phóng đạo đức cho con người (xã hội) ngay từ khi rất sớm của tuổi đời, và tiếp tục duy trì chăm sóc nuôi dưỡng nó đến suốt đời. Bằng các hình thức tổ chức xã hội đồng bộ, có sự tham gia trách nhiệm của mọi người, vụ thể là qua ý thức tự giác rèn luyện, v.v …

Đỉnh cao phát triển của đạo đức là chọn gốc từ lương tâm (A1).
Đây là đỉnh cao giới hạn của tư duy nhận thức của con người nói chung, dưới góc độ khoa học.
Theo Nếu HTNT, “Đạo Đức Lương Tâm” nếu được nghiên cứu và nâng lên tầm khoa học hóa, thì thành tên gọi “Đạo Đức Nhân Tâm” (ĐĐNT)
ĐĐNT được định nghĩa như là một mô hình đạo đức, được mọi người cùng chủ động nghiên cứu và xây dựng thành hệ thống hoàn thiện từ khâu đầu đến khâu cuối. Nó được phát triển và hình thành theo nguyên tắc khoa học từ lý thuyết đến thực nghiệm, trên nền của nguồn chân lý lấy từ lương tâm (A1).
(Lưu ý: khái niệm “lương tâm” và “lương tâm (A1)” (tâm) có thể hiểu tương đồng nhau,  một bên mang phong cách dân gian một bên mang tính khoa học chính xác. Vì thế khái niệm “lương tâm (A1)” có nội hàm định nghĩa rộng và chính xác hơn. Xin xem tác phẩm “Cách Sống Mới”.)


2-    ĐẠO ĐỨC NHÂN TÂM

Thời đại văn minh là thời đại của các chứng minh khoa học.
Tất yếu các chứng minh khoa học không bao giờ đáp ứng đủ hết các nhu cầu cần giải đáp của cuộc sống, vì thế con người buộc phải dùng các lý giải tự phátđể lấp khoảng trống.
Tuy nhiên tính đúng sai của nó tất yếu thất thường, đồng thời cũng khó dự đoán những hậu quả nó sẽ mang lại.
Đặc biệt các lý giải khoa học trong lĩnh vực “ĐẠO ĐỨC TINH THẦN” (quan hệ) đang bị thiếu trầm trọng nhất.
Đây có thể là nguyên nhân lý giải vì sao xã hội loài người luôn gặp bất ổn đến nay.

Cơ sở của chứng minh khoa học là chân lý.
Vậy trong đạo đức (tinh thần) có thể tìm thấy chân lý không?
Trong đạo đức, chân lý được tìm thấy tại tâm (A1), và nó xuất hiện ở mọi con người. Tâm (A1) tuy không che giấu, nhưng con người phải có thái độ đúng đắn thì mới cảm nhận hết sự hiển hiện lớn lao của nó.
Trong tâm ngoài A1 còn có tâm xấu A2, chúng cùng tồn tại hoạt động đan xen hơn thua với nhau, trong giành quyền thống trị nội tâm của mỗi cá nhân con người. Bên nào thắng sẽ dành quyền chi phối trí tuệ và ý chí (cá nhân, tập thể, …) về phía ấy, như một cảm giác sung sướng thỏa mãn không thể chối từ.
Không ít con người đã bị tâm xấu A2  chiếm lĩnh và làm cho hoa mắt trong nhận định đúng sai, thiện ác trong nhận định cuộc sống. (xem “Cách Sống Mới”)

Tâm là một hoạt động của tiềm thức, có chức năng điều khiển các hoạt động sinh tồn của con người từ ý chí đến trí tuệ, trong lĩnh vực quan hệ (con người).
(Chú thích: hiện nay thế giới đã có những chứng minh bằng điện não đồ về vai trò của tiềm thức đối với ý thức, xin quý đọc giả có thể tìm hiểu tham khảo thêm. – nguồn tin trên đài truyền hình Việt Nam)
Do đó nhiệm vụ của đạo đức đúng đắn là giúp con người định hướng rèn luyện tâm sao cho ngả về hướng phát triển A1 không bị rơi vào cạm bẫy của A2.

Rèn tâm là một công việc khó nhọc, nó có thể mệt óc mệt tư duy hao mòn thể chất mất nhiều thời gian, v.v… nếu tập trung quá độ.
Nếu sửa theo tự nhiên lần lần theo hoàn cảnh phát hiện, thì vấn đề cũng sẽ bình thường đơn giản như mọi việc khác trong cuộc sống.
Xưa nay người tốt nhiều người cho là hiếm, đó là vì xã hội chưa có những hướng dẫn bài bản khoa học.
Nay nếu có tài liệu học tập rèn luyện đầy đủ, có người chỉ dẫn tậm tâm, thì việc đào tạo người tài đức vẹn toàn (con người mới) cho xã hội có thể không còn là việc khó.

Theo thường lệ đạo đức là học thuộc lòng, là thực hiện theo qui định hay mệnh lệnh từ trên xuống, không được bàn cãi tranh luận lôi thôi, v.v… Như thế lâu dần thành quen, thành cá tính, thành bản chất, thành phong tục tập quán, thành dư luận, v.v... thành sự sống tự nhiên của mỗi người.
Đạo đức như thế là kém hiệu quả, vì nó không công bằng, không có cơ hội giám sát kiểm tra điều chỉnh từ người thực hiện, nếu phát hiện sai trái bất hợp lý.
Đạo đức như trên thì ai “chế tạo” ra cũng được, dù là dốt vô đạo ác đức v.v…, nhưng miễn có quyền có thế lực xã hội là được. Đạo đức như thế không bảo vệ và không đào tạo được người tốt, mà chủ yếu bảo vệ kẻ xấu, tạo điều kiện cho thói xấu thói quan hệ bất công, mạnh hiếp yếu, được tự do phát triển lớn mạnh.
Như thế là dễ sinh loạn, là sai, là phản động, là làm rối loạn xã hội, là hủy hoại nhân cách tích cực của con người, v.v…
Cách điều hành đạo đức như trên thực chất là tạo môi trường cho tâm A2 nắm quyền chủ động xã hội, còn tâm A1 trở thành nạn nhân.
Nếu như thế xã hội ra tiêu chí đấu tranh chống cái xấu tiêu cực, thì chẳng qua chỉ là hình thức, còn thực tế hành động đã hoàn toàn trái ngược ngay từ gốc.
Vậy là chúng ta đã biết được nguyên nhân vì sao xã hội loài người đến nay vẫn còn bất ổn, mà rất nhiều chuyên gia hay các nhà tư tưởng hay các nhà nghiên cứu chính trị … vẫn chưa tìm ra cách khắc phục.

Muốn lập lại nề nếp xã hội, chính là phải lập lại nề nếp trong quan hệ con người, mà cụ thể là vấn đề điều hành lại hệ thống đạo đức.
 Hệ thống đạo đức tốt là phải có phản biện xã hội, phải có phản biện từ dưới lên, mỗi khi cảm thấy bất hợp lý, thấy có sai trai khi thực hiện một nội dung đạo đức.
Khi ấy vấn đề đặt ra là xã hội cần có những con người tốt để họ biết cách thiết kế nên những nội dụng đạo đức tốt, đúng đắn cho mọi người áp dụng.
Để có người tốt thì phải nghĩ cách kiểm soát đầu vào của tâm, sao cho A2 suy yếu dần trong khi A1 được phát triển lớn mạnh. Làm được như thế sự sống sẽ thành công, con người không còn sợ mâu thuẩn bất công tái hiện trong xã hội nữa.
Đây cũng là sứ mệnh đặt ra cho ĐĐNT.


3-    ĐẠO ĐỨC NHÂN TÂM VÀ CUỘC SỐNG

ĐĐNT là một nhịp cầu nhầm đem lại sự đổi mới trong quan hệ.
Loài người còn tồn tại đến ngày nay suy cho cùng, là nhờ các giá trị đạo đức tích cực soi đường, cho dù nó thường xuyên bị cản phá bởi các giá trị đạo đức tiêu cực.
Tất cả đều do ngẫu nhiên có để xây, cũng như ngẫu nhiên có để phá.
Sự sống và đạo đức tuy hai nhưng như một. Vì nơi nào có sự sống con người nơi đó có đạo đức, kể cả chỉ với một cá nhân (vì không muốn chết cũng là một hành vi đạo đức tích cực).

Như thế mọi hành vi hay hoạt động cá nhân đều mang một ý nghĩa, một quan điểm đạo đức nhất định.
Mở rộng ra chính trị cũng là một hiện tượng đạo đức. Đạo đức sai chính trị sai, đạo đức đúng chính trị đúng - (chính trị là sự biểu hiện các quan hệ giữa chính quyền với nhân dân, và với các quốc gia khác).
Đạo đức chưa đạt giá trị chuẩn mực, thì chính trị ít nhiều cũng đúng sai hên xui. Tùy nơi mà cái sai hay cái đúng chiếm đa số.
Minh bạch hóa chính quyền là chuyện không dễ, đối với một số trường hợp, vì khi con người đã lúng sâu vào các sai lầm khó bề khắc phục …
Đạo đức là phần cơ bản của chính trị, vì vậy chính trị là bộ mặt văn hóa văn minh của xã hội, là sự thể hiện trình độ nhân văn của một dân tộc.

Song có nhiều người vẫn nghĩ, phần cơ bản của chính trị là thuộc “quyền lực, vũ khí, danh lợi, quyền lợi“ … họ đã lầm chăng.

Tạo hóa qui định mọi vật thể chỉ có một qui luật sinh tồn, loài người cũng không ngoại lệ. Ta gọi đấy là qui luật sống (cá nhân) hay qui luật xã hội (nhiều người).
Khi qui luật sống còn chưa sáng tỏ, thì lịch sử loài người phát triển tất yếu phải trải qua các giai đoạn đúng sai phức tạp ngoài khả năng chủ động.
Nhưng khi đã lãnh đạo bao giờ người ta cũng tự tin về sự đúng đắn nhầm tạo uy tín với thần dân. Nhưng đến khi sai rồi … tất cả mới ngã ngửa.
Sai lầm tức là trái với qui luật tư nhiên, nhưng hậu quả chỉ thấy sau thời gian tích tụ hậu quả đủ lớn, và khi nhân dân không còn có thể chấp nhân được nữa để bộc phát thành cách mạng.
Khi cái đúng chưa được minh chứng hiệu quả, thì mọi cái đúng thay thế cũng chỉ tương đối. Nguy cơ tái xảy ra cái sai trầm trọng mới theo thời gian, là điều khó tránh khỏi.
Tất cả là do bài toán đạo đức chưa có đáp án căn cơ.

Như thế vai trò của đạo đức đối với sự sống con người là rất không nhỏ, vì chính nó có thể làm thay đổi một chế độ, làm một dân tộc trở nên mạnh hay yếu, làm sự sống con người trở nên đau khổ hay hạnh phúc …
Nên sự luận bàn về đạo đức là một trong những công việc rất cơ bản và cũng rất cấp bách đối với cuộc sống.

Đạo đức là một khối liên kết thống nhất trong mỗi xã hội và trên thế giới. Do mọi người có các mối liên hệ biện chứng với nhau khi sống, dù trực tiếp hay gián tiếp. Khi xảy ra một hiện tượng tiêu cực, thì ít nhiều từng thành viên trong xã hội phải nhận lấy trách nhiệm.
“Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, là một minh chứng cụ thể. Nhớ rằng mọi “hưng vọng” đều bắt đầu từ việc nhỏ rồi mới thành lớn.
Tuy nhiên do thiếu điều kiện, thiếu môi trường, thiếu được hướng dẫn, v.v… nên trong thời bình không dễ để mọi người dân được có cơ hội thể hiện đúng trách nhiệm và khả năng của mình, trước thực tế xã hội.
Nhưng nếu xã hội có điều kiện tổ chức tốt, thì tin rằng sự tham gia của mọi người đối với việc chung sự sẽ khác đi rất nhiều, không phải chỉ đợi đến lúc “nước đến chân” mới la nhau để “nhảy”.



III - TÍNH ĐA DẠNG VÀ PHỨC TẠP CỦA ĐẠO ĐỨC

Ngày nay những tiện nghi vật chất đang tấn công cảm giác con người từ mọi hướng, nên người ta dễ cảm tưởng sức mạnh vật chất là lớn nhất, là tất cả đối với cuộc đời này.
Nếu cẩn thận nhìn lại sự sống mới thấy rằng, sức mạnh vật chất chỉ là sự mở đầu của một giá trị khác cao hơn mạnh hơn gấp nhiều lần, có cơ hội phát triển. Đó là sức mạnh của giá trị tinh thần hay sức mạnh tinh thần.

Song công cụ phổ thông để tạo nên sức mạnh tinh thần ấy thuộc về đạo đức quyết định. Mà đỉnh cao biểu hiện của đạo đức trong một xã hội, thuộc về tình hình chính trị của xã hội đó.
Khi con người chưa xây dựng thành công một nền tảng giá trị đạo đức đúng chuẩn, thì hiễn nhiên cơ chế chính trị theo nó cũng mang thuộc tính … yếu hay sai lầm ít nhiều
Biết rằng chính trị là sự biểu hiện quyền lực của mỗi quốc gia, của mỗi dân tộc. Sự sai hay đúng của quyền lực ấy sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mọi người trong xã hội.
Đặc biệt khi một hệ thống quyền lực chính trị được hình thành, nó sẽ điều khiển nền đạo đức của xã hội đó theo hướng nó muốn.
Và đây là lúc bài toán đạo đức trở nên phức tạp được đặt ra.

Sai có thể thành đúng nếu phía sau nó được bảo vệ bằng các quyền lực chính trị. Điều này vô tình làm trầm trọng hơn vấn đề đạo đức xã hội, vốn dĩ bản thân nó cũng chưa mạnh khỏe gì.
Chúng ta cũng nhớ rằng mọi chính quyền cũng từ nhân dân mà ra, nhân dân sai chính quyền cũng không dễ dàng đúng hơn.
Nếu chính quyền tiếp tục sai sẽ là một động lực lớn cho sự xuống cấp đạo đức xã hội nói riêng, dân trí nói chung.

Tuy nhiên tạo hóa sinh ra loài người để tồn tại và phát triển, vì vậy theo chu kỳ những sai lầm chủ quan của chính quyến, phát triển đến một  giới hạn, nhân dân sẽ tự nổi dậy điều chỉnh lại.
Nó cho thấy qui luật tự nhiên nằm ở lòng dân, ở lương tâm con người, chứ không do các chính quyền bạo lực quyết định.
Như vậy nhân dân là nguồn sức mạnh vô tận nếu được tạo điều kiện phát huy, là cái nôi sản sinh ra các giá trị đạo đức chuẩn mực. Nó có thể  đúng lúc này chỗ này, sai lúc khác chỗ khác v.v…, nhưng theo sàn lọc tự nhiên cái đúng được giữ lại cái sai biến dần, để tạo thành sức mạnh nhân dân.
Vì vậy đạo đức còn là tấm gương phản chiếu phẩm giá của một dân tộc, sự trưởng thành về nhận thức nhân cách của một xã hội.

Thông thường trong cuộc sống người ta chú ý cái sai của đạo đức nhiều hơn cái đúng, vì nó gây đau khổ và cản trở trực tiếp sự sống.
Và người ta thấy, đạo đức đa phần đã gây ra nhiều sai lầm do nhiều bất công và đau khổ, nên ít nhiều có ấn tượng nặng nề về đạo đức, sinh ra dè dặt trong quan hệ, giảm niềm tin ở con người, và sự sống như chưa thật sự bình an.

Thực tế đạo đức đúng nghĩa, nó phải là ân nhân của con người. Vì  nó có khả năng đem lại sự sống tốt đẹp và hạnh phúc từ trong tận cùng tâm hồn, khi nó thật sự là một đạo đức tốt không sai lầm.
Vậy con người có thể làm gì để giúp đạo đức trở nên hoàn thiện chuẩn mực.

Nếu máy nổ cần có nhớt để bôi trơn, thì quan hệ con người cần có đạo đức tốt để làm dịu mát sự sống, làm vơi đi những nhọc nhằn trong mưu sinh.
Mỗi cá nhân dù là ai đều lưu trữ trong tận sâu tâm hồn, một vốn giá trị đạo đức tốt đẹp chuẩn mực nhất định (gọi là A1).
Xã hội vận động, con người vận động, não vận động, một trẻ mới ra đời, v.v… tất cả đều cần có đạo đức chuẩn mực để bôi trơn. Đạo đức càng chuẩn mực trong sáng vô tư, sự sống càng vận hành hết công suất và đạt hiệu quả tối ưu.

Đạo đức là gì ?
Đạo đức là kỹ năng sống, là kỹ năng quan hệ, là kỹ năng nhận thức về mọi người, về bản thân, là kỹ năng biết sống có ích, biết sống tốt đẹp cho bản thân và cho mọi người, là kỹ năng từ chối dùng bạo lực để áp đặt gây đau khổ cho người khác, là kỹ năng quan hệ mọi người trên tinh thần tôn trọng sự bình đẳng của nhau, tôn trọng quyền tự do hạnh phúc của nhau, v.v…
Nhìn lại đạo đức của mỗi thời kỳ xã hội, chúng ta nhận thấy, ở xã hội phong kiến đạo đức “trung với vua” được chọn, ở xã hội tư bản đạo đức “tự do sống, tự do làm giàu” chiếm ưu thế, ở xã hội cộng sản đạo đức “Đảng (M-L) trên hết” là nội dung bất khả phản biện bình đẳng ...
Tất cả các mô hình đạo đức như trên đều có chung một mẫu số, là cần có sự trợ giúp của quyền lực (vũ khí) để đảm bảo tính giá trị của các mục đích nêu trên.
Nhìn chung trong các mô hình đạo đức vừa nêu, người ta không thấy dành sự ưu tiên nào cho mục đích “VÌ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI”.

Nhưng trong kêu gọi hay tuyên bố, các chính quyền đều nêu chỉ tiêu tất cả vì lợi ích nhân dân vì hạnh phúc con người v.v…, nhưng thực tế … biểu tình vẫn xảy ra, nơi khác dân phải sống trong im lặng sợ sệt bất công và đau khổ ...
Nguyên nhân bắt đầu từ mô hình đạo đức cơ bản của xã hội, nó muốn hướng con người vào sai lầm trong nhận thức, khi ngộ nhận “hạnh phúc”. “Vua, tiền, tự do, Đảng, …” chưa đồng nghĩa với “hạnh phúc”, hay một cách tích cực nhất, cho rằng những tiêu chí trên có thể phần nào đem lại hạnh phúc, nhưng nó mang tính phiến diện chủ quan không phù hợp với nhân dân.
Sự sống cần một định nghĩa chính xác và đúng đắn về “hạnh phúc”, không hơn không kém.
Vậy là các chế độ đã gieo “nhân” sai, thì “quả” đúng biết bao giờ mới có.
“Nhân sai”, “giống sai”, v.v… nhưng ra sức làm đất, chăm bón, xịt thuốc chống sâu thật tích cực cũng chỉ vô ích tốn công. Thất bại vẫn hoàn thất bại.
Vấn đề là thay đổi mô hình đạo đức, thay đổi tiêu chí sống, thì chính quyền sẽ thay đổi phương thức điều hành xã hội cũng như chuyển hướng mục đích phát triển “tất cả vì hạnh phúc con người”.

Thế giới ngày nay nhìn chung đã phồn vinh về ăn mặc ở … , các nhu cầu vật chất cơ bản, cái còn thiếu là nhu cầu phát triển đạo đức tinh thần một cách đúng đắn và khoa học.
Hay sau thành công về nhu cầu vật chất - hình thức (hạnh phúc vật chất), là nhu cầu thành công về đời sống tinh thần - nội dung (hạnh phúc tinh thần), một sự phát triển tự nhiên và tất yếu trong tâm lý cuộc sống.
Hạnh phúc tinh thần thực chất là một nhu cầu mang tính bản chất của “nhân cách người”.
Ý nghĩa cơ bản của nó là nhu cầu được giải đáp về khái niệm “hạnh phúc” là gì,  đâu là giới hạn và đâu là đỉnh cao tuyệt đối của mục đích hạnh phúc đời người, và đâu là con đường dẫn đến thành công.

Con người sinh ra ai cũng có nhu cầu tìm hiểu về cuộc sống, về bản thân, và về mọi người xung quanh.
Vì thế “ĐẠO ĐỨC VÌ CON NGƯỜI” là hướng phát triển mang tính bản năng, khi sự sống con người phát triển để có điều kiện quay tìm về nguồn cội cơ bản.
Và đây cũng chỉ là thời cơ, là tiêu chí để thiết kế nên mô hình xã hội mới, thời đại mới, chế độ mới, và con người mới.
HTNT chứng minh bản chất con người là do TÂM quyết định, cụ thể là tâm A1 .
Suy ra mô hình ĐĐNT là một phương thức quan hệ giúp con người từng bước khai phá và phát triển cái gọi là “tâm A1” trong mỗi người, cũng là con đường đưa xã hội đến sự đoàn kết hạnh phúc hòa bình thịnh vượng.


1-    ĐẠO ĐỨC VÀ QUYỀN LỰC

Tinh thần (trí tuệ) nói chung (xem “Cách Sống Mới”), là sự biểu hiện giá trị tổng hợp của một nhân cách thời gian sinh tồn. Một tinh thần tốt là thành quả của tư duy lao động tốt, đạo đức tốt.

Đạo đức tốt là mỗi con người biết sống lợi cho mình và cho mọi người, không hại ai cũng không để ai hại mình.
Thế nhưng để thực hiện thành công là điều không dễ, nếu như không có một minh chứng cụ thể và hợp lý dẫn đường.
Nếu không mô hình đạo đức “lợi mình hại người” sẽ tự phát chiếm chỗ, hoặc “thiệt mình lợi người” (tôn giáo) nếu muốn tìm chân lý ở một nơi xa hơn.

Do ngẫu nhiên lịch sử phát triển, con người đã tự nhiên sử dụng khá phổ biến mô hình đạo đức gọi là “ĐẠO ĐỨC QUYỀN LỰC” (vũ khí) có nguồn gốc từ mô hình “lợi mình hại người” ở trên, nhưng ở đây được ưu tiên dùng cho các bộ máy CHÍNH QUYỀN.  
Nó là hệ đạo đức mà mọi quan hệ đều dựa trên ưu thế của công cụ VŨ KHÍ để tạo thế mạnh cho “quyền lực áp đặt” nhầm có điều kiện giải quyết dứt điểm các vấn đề, khi các phương thức quan hệ khác không đạt hiệu quả.
Đây là hệ đạo đức thực chất mang tính phản đạo đức, nên trong thực hiện thường hạn chế hoặc che giấu khi cần.
Để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, thỏa các giá trị chân thiện mỹ phổ quát mà loài người đã công nhận, vấn đề sẽ là
- phấn chuyển hệ Đạo Đức Quyền Lực lâu đời và lạc hậu, sang hệ Đạo Đức Chân Lý Nhân Bản hay  … hệ ĐĐNT, mang tính hiện đại và văn minh hơn.

ĐĐNT là hệ đạo đức dựa trên quyền lực của tâm (A1) để điều hành sự sống, điều hành trên tất cả các hình thức quan hệ con người.
Đây là loại quyền lực mang tính tự nhiên bản năng, song phải qua rèn luyện mới có điều kiện phát huy (A1). – Nó như “ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.
 Có thể nói hệ ĐĐNT là loại quyền lực khách quan, khác với loại quyền lực chủ quan trên.
Khi áp dụng ai có tâm tốt hơn, đạo đức hơn, có ích cho mọi người hơn, lý lẽ hợp lý hơn, người đó sẽ thắng. Như thế là công bằng, nó có lợi trong khuyến khích mọi người cùng phấn đấu rèn luyện thành người tốt. Kết quả xã hội được hưởng mọi người cùng hưởng.

Trên đây là nguyên lý vận hành của ĐĐNT khi vận dụng vào cuộc sống.
Đã là người tốt thì phải thân thiện đoàn kết sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, không ý định gây hận thù mất đoàn kết, luôn phấn đấu học tập làm việc quan hệ năng động tích cực để sự sống phong phú hạnh phúc, v.v…
Trên đây là những giá trị ưu việt mà đạo đức mới có thể mang lại.

Khi xã hội phát triển được nhiều người tốt , thì hệ đạo đức quyền lực sẽ tự động thoái hóa.
Con đường chuyển từ quyền lực chủ quan sang quyền lực khách quan là quá trình chuyển đổi nhận thức, từ trên xuống dưới từ tưới lên trên … theo tinh thần của ĐĐNT.
Điều kiện trau dồi ĐĐNT cũng không khó, chỉ cần cá nhân muốn sống tốt và quyết chí đạt mục đích theo khả năng, cùng với sự giúp đỡ của mọi người, thì ai cũng có thể thành công.
ĐĐNT không dùng áp đặt hay ép buộc để thành công, tất cả do mỗi cá nhân tự do phán xét chọn lựa. Để cuối cùng sao cho điều hay nhất tốt nhất chân lý nhất, được mọi người kiểm chứng đồng thuận, thì nó chính là ĐĐNT mà HTNT muốn giới thiệu.


2-    “BÁT QUÁI TRẬN ĐỒ”.

Một vấn đề tìm mãi không ra lời giải, thì đích thị người tìm đang rơi vào“bát quái trận độ” (không lối thoát).
Con người có thể đang rơi vào hoàn cảnh tương tự khi đang ở giữa thế trận  … “đạo đức quyền lực”.

Nhiệm vụ của đạo đức là giúp con người phân biệt lẽ phải và lẽ trái, đúng và sai, …
Việc trên đạo đức đã làm từ bao nhiêu ngàn năm đã qua mã đến nay vẫn chưa xong. Thế phải chăng “đạo đức” của loài người đến nay đã và đang rơi vào “Bát Quái Trận Đồ”.
Chớ ai vội xung phong giải cứu mà quên cảnh giác cái bẫy ngàn năm lý giải chưa thoát kia.

Đạo đức không đơn giản chỉ qua một vài hình thức hành xử, một số lý lẽ tranh lý, hay một số tấm gương sự việc nhân cách làm minh chứng hậu thuận, v.v… là có thể đủ để lý giải xong vấn đề.
Không đơn giản như thế, bài toán đạo đức là một thế trận đã giăng bẫy ở khắp mọi nơi trong sự sống con người. Cũng như nó hiện diện trong mọi ngõ ngách của tư duy, v.v... vì thế không dễ để khui ra hết từ một thói quen lâu đời này sang một thói quen đạo đức hoàn toàn mới, trong một sớm một chiều, hay chỉ với một số chuẩn bị công phu nhưng chưa đủ chất chân lý về đạo đức.
Từng suy nghĩ, từng lý lẽ, từng lời đối đáp, từng hành động, từng cử chỉ, từng ánh mắt, từng nụ cười, từng dáng đứng tướng đi, từng trang phục trang sức, từng tiện nghi vật chất đời sống, v.v … cho đến từng hơi thở, nhịp tim, từng cảm nhận sống, v.v… đều mang nặng dấu ấn của đạo đức cũ.
Suy cho cùng nó gắn với con người từ sự sống đến cái chết, từ lúc  thịnh vượng đến lúc phá sản, từ hạnh phúc đến đau khổ, v.v...
Đạo đức là vậy, là một thế lực không … vũ khí.

Tuy nó phủ sóng khắp nơi nhưng nó ẩn mình, nên con người dễ chủ quan và … thường xuyên rơi vào “Bát Quái Trận Đồ” như một sự trêu đùa của tạo hóa.
Chung qui muôn sự cũng do tạo hóa đã an bày.
Nhưng tiếc thay vì sự sống phải đa đoan bao nhiêu việc phải lo phải tính, thành thử con người đã quên … trên có “ý trời”, dưới có qui luật tự nhiên, cộng lại thành qui luật sự sống, mà bổn phận làm người phải tuân thủ đâu còn sự chọn lựa nào khác.
Qui luật sự sống là cái mà tạo hóa muốn loài người phải tuyệt đối thực hiện. Mà cụ thể là thông qua hệ đạo đức do con người lựa chọn.

Vô thức từ tâm A1 đã từ lâu giúp con người làm việc này, nhưng nó chưa được con người công nhận cũng như tham gia nhận lãnh trách nhiệm bằng tất cả kỹ năng ý thức tích cực vốn có.
Nhìn chung như thế là sai lầm, nhưng khách quan do điều kiện tiến hóa nhận thức. - Tuy nhiên trong cuộc sống thực tế nó là tội ác, sự vô tâm v.v…, vì đã gây thành hậu quả cho đồng loại.

Song trời đất đã không bỏ con người. Sự tiến hóa, lương tâm, trí tuệ là những công cụ vạn năng có thể giúp con người tìm ra lối thoát, dứt  bỏ những gì không còn hợp thời không thật đúng đắn.
Con người muốn thay mặt tạo hóa ư, chớ dại mà phí hoài công sức khi lịch sử đã có đủ những minh chứng thất bại lớn lao nặng nề.
Loài người chỉ có thể làm được tất cả những gì tạo hóa đã giới hạn đóng khung, ngoài ra là khó lường hậu quả. Những tìm tòi những phát minh v.v… thành công, thực chất đều nằm trong giới hạn.
Đừng nghĩ rằng khoa học là tất cả, khoa học chỉ hiệu quả khi nó tuân thủ những qui định của tự nhiên. Ngoài ra nó cũng là vô nghĩa vô dụng.
Hãy làm những gì chúng ta có thể làm và không làm những gì chúng ta không có quyền trước tự nhiên. Đó là chân lý.

Chân lý trong quan hệ con người với vật chất, đã đạt những thành công lớn. Chân lý trong quan hệ con người với con người, đang thiếu rất cần được tập trung xây dựng từ mọi người.
Từ chưa thấy đến tìm thấy chân lý đạo đức là một quá trình mất mất nhiều công sức. Từ chân lý (đạo đức) đến lẽ sống đời thường, là một quá trình phấn đấu từng câu chữ, từng qui định việc làm, v.v… sao cho hợp lòng mọi người mà không trái tự nhiên.
Vì vậy con người cần hết sức cảnh giác khi muốn giới thiệu một hệ đạo đức mới đưa vào cuộc sống, không khéo vô tình gây thêm khó khăn cho sự sống con người (ví dụ: HT M-L).
Theo định nghĩa chân lý đạo đức đã sẵn có ở ĐĐNT …


3-    THÓI QUEN VÀ SỐ ĐÔNG

Đặc điểm sự sống của loài người là lý trí. Một vấn đề dù khó mấy nhưng từ từ rồi lý trí cũng tìm ra hướng giải, kể cả … đầu hàng không tìm ra.

Lý trí có thể phát huy qua hai cửa ngỏ chính của cuộc sống,  KHVC và KHTT.
Trước khi có KHVC kiến thức con người về vật chất còn hạn chế, nên khi có kiến thức mới con người sẵn sàng tiếp thu dễ dàng.
Nhưng trước khi có KHTT kiến thức con người về tinh thần nói chung là rất đa dạng và phong phú.
Cái bề dày kinh nghiệm kiến thức đó đã có từ rất lâu và từ rất nhiều nguồn trộn lại, nay nó đã thấm vào tim óc và hơi thở của mỗi người.
Nó là cá tính, là nhân cách, là phong tục tập quán truyền thống v.v... Và nó được gom thành học thuyết để lý giải và vạch đường cho sự sống con người.
Từ học thuyết con người làm ra luật lệ, nơi ấy ai làm trái sẽ bị kết tội và xử phạt.
Thế là nhiều người bị tội, chỉ vì không chịu sống … trái tự nhiên như luật lệ bắt buộc.

Đấy là cách hành xử của mô hình đạo đức của một số xã hội hiện nay. Nó được tiến hành trái tự nhiên một cách có hệ thống và có chứng minh khoa học hẵn hoi.
Nhưng người ta không hiểu một điều cơ bản, chân lý khoa học không bao giờ cần đến quyền lực để chứng minh giá trị chân lý.
Như thế các minh chứng khoa học kia thực chất mới đạt nửa vời, mới đạt về dáng dấp, nhưng thực chất là sai, nếu nhìn góc độ toàn diện. Nếu có đúng chăng chỉ là sự trùng khớp giai đoạn, điều này trong cuộc sống thường xảy ra với mọi lý lẽ thông thường.

Khi đạo đức không chuẩn bị bắt buộc phải tuân thủ, con người trở nên bí lối trong tư duy phát triển. Thế là mọi người chọn mục đích ngắn hạn làm mục đích lâu dài, lấy cái lợi hạn hẹp, ích kỹ, phiến diện, vô tâm vô đức, v.v… làm lẽ sống đối phó chụp giựt qua ngày ...
Khi lẽ sống đã sai, thì người thực hiện sẽ càng lúc bị rơi vào thế phải liều, khi gặp bế tắc nhưng vẫn quyết muốn đạt mục đích.
Xã hội sống như thế lâu ngày thành quen và xuống câp về nhân cách, đồng thời gây ảnh hưởng đến các lĩnh vực phát triển khác.
Thói quen ấy cũng len vào những nhà lãnh đạo đương thời và những người có quyền lợi liên quan xung quanh. Cuối cùng họ tạo thành một tập đoàn quyền lực quyền lợi đan kết chặc chẽ với nhau, bên cạnh trách nhiệm quản lý xã hội.

Khi thói quen đã đi sâu vào tiềm thức, nơi con người khó có khả năng chạm đến và làm chủ nó, thì một vài cá nhân muốn thay đổi cho tình hình xã hội tốt lên sẽ thấy bất lực… vì tiềm thức của cá nhân và của tập đoàn cản trở.
Khi còn làm một người dân bình thường nếu phạm sai lầm thì hậu quả không đáng kể hay khó thấy. Nhưng khi nhận lãnh một trách nhiệm lớn, phải đưa ra nhiều quyết định quan trọng, khi ấy bao nhiêu cái dở cái hạn chế trong trí tuệ và đạo đức nhân cách, sẽ tự động phơi bày ra.
Khi mắc sai ắt phải tìm cách bao che lẫn nhau, thế là thành thêm tội.
Bí nữa thì dùng bạo lực uy quyền, bất kể đối tượng, nếu cảm thấy có hại ...
Quyền nói, quyền nghe, quyền hiểu biết, quyền thông tin, v.v… cũng bị hạn chế vì nó có thể làm cho sự phơi bày thêm rộng ra ...
Vì thiếu thông tin trung thực khách quan, nên mọi người dân thành chậm hiểu hay không thể hiểu tình hình cuộc sống, tình hình xã hội thực tế đang đến đâu. Như thế mới dễ cho việc quản lý …
Tội chồng tội, ác chống ác. Đó là đặc điểm của hệ đạo đức sai lầm được áp dụng trong một thời gian dài.
Đã ác thì con người càng dễ đi đến hành động nguy hiểm và mù quáng. Lúc này mọi rụt rịt nỗi dậy đều được chú ý, người ta sẵn sàng dọn dẹp mạnh tay những hành động tích cực, nhưng là tiêu cực đối với chính quyền.

Tại ai ?
Cũng tại đạo đức xã hội chưa có minh bạch hóa chân lý nên mới  ra nong nỗi.
Trước nguy cơ, xã hội tư bản nghĩ ra nguyên tắc tam quyền phân lập, để kiểm ra chéo hiện tượng quyền lực chủ quan trái tự nhiên. Tuy nó chưa giải quyết tận gốc, nhưng những người nắm quyền lực đã phần nào bị kiểm soát.
Kiểm soát giới hạn vì đạo đức là một phạm trù rất rộng lớn, người lãnh đạo và khối ủng hộ luôn có nhiều lý lẽ nhiều kỹ năng biến hóa để lách thành công.

Trong khi ấy HT M-L lấy lý do chuyên chính … nên cơ chế chỉ có một cửa độc nhất để người dân thưa kiện … “nạn nhân hãy đến người bị kiện để kiện” (!?).
Thực tế trên nói lên, sức mạnh của “thói quen” sai lầm (do chọn sai hướng phát triển tư duy) đã làm tê liệt trí tuệ và nhân cách con người một cách trầm trọng và kỳ lạ. Nó thật sự là một hiện tượng nguy hiểm và đáng sợ trong thời đại văn minh.

Khi hậu quả do sai lầm gây ra tăng quá giới hạn chịu đựng của xã hội, thì sự điều chỉnh tự phát của nhân dân mới nổ ra nhầm lật đổ cái cơ chế bất công vô lý đã tồn tại quá lâu.
Làm người ai cũng sợ khổ sợ mất mát đau khổ v.v…, nhưng khi con đường sống không còn lối thoát con người sẵn sàng hi sinh liều mạng để đánh đổi tương lai.
Như vậy thói quen sai lầm cộng với quyền lực vũ khí có thể chiến thắng được số đông quần chúng trong một thời gian dài tương đối, nhưng không bao giờ là mãi mãi.

Để rút ngắn thời gian chịu đựng bất lợi từ phía nhân dân, tốt nhất mọi chính quyền đều nên có đối thoại với nhân dân để tìm lối thoát hợp lý có lợi cho đôi bên.
Đối thoại, một là muốn thu được kết quả, hai là muốn nó tốt đẹp và giữ được giá trị bền lâu và đến mãi mãi, thì ĐĐNT (HTNT) là hướng chọn lựa kết quả nhiều triển vọng.


4-    VỊ TRÍ XÃ HỘI

Con người sinh ra không ai giống nhau hoàn toàn, có người hay có người dỡ, có người khôn người dại, người thông minh người chậm hiểu, người tài người kém tài, v.v…
Người tài là người có thể giúp ích cho bản thân, gia đình và nhiều người khác, song song cũng đừng gây hại ai ở nơi này hoặc nơi khác.
Người tài cao là người đảm nhận những công việc lớn trong xã hội.
Việc lớn họ đảm nhận không do ai phân công, mà do quá trình sống lao động rèn luyện tự nhiên mà tạo nên những thành quả lợi ích lớn cho xã hội, được mọi người công nhận và tiến hành hợp thức hóa nó dưới danh nghĩa “phân công, bầu chọn”.
Người tài theo đúng nghĩa nên được phát hiện và được phân công theo cách trên là an toàn, dù ở môi trường xã hội nào.

Trong thương trường xưa nay đã có qui cũ, ai tài ai không tự nhiên nó được sàn lọc qua kết quả kinh doanh.
Nhưng trong chính trường thì vấn đề không được mạch lạc như vậy. Đến nay nó vẫn còn nhiều rối ren tréo cẳng ngỗng về khái niệm người tài.
Ví dụ, người có nhiều huân chương bằng khen thành tích v.v… và có chức vị cao trong xã hội, nhưng có khi lại là người hại dân hại nước không chừng. Chức vị càng cao có khi càng gây nguy hại cho xã hội khôn lường.
Theo lý mà nói, người lãnh đạo xã hội phải là người tài giỏi nhất đạo đức nhất xã hội. Nhưng sự thật không phải luôn đúng như vậy.
Ví dụ:
- Khi vua truyền ngôi cho con dù chưa đủ tài, thì đất nước có một vị lãnh đạo bất tài nhưng có đủ quyền sinh sát mọi người.
- Trong bầu cử tổng thổng, nếu người ứng cử có điều kiện tài chính quảng bá nhiều hình ảnh tích cực trước công chúng, thì khả năng đắc cử sẽ cao, trong khi người có tài cao hơn nhưng tài chính kém phải đành chịu thua. Chưa nói người ta có thể thắng cử bằng gian lận.
- Để tìm một nhà lãnh đạo trong xã hội cộng sản, người ta xem ai hợp với học thuyết nhất thì được chọn. Trong khi kia có phải người tài nhất xã hội chưa, không cần biết. Chỉ biết M-L là nhất, người kia là nhất M-L, thì nhất … thiên hạ.

Bài toán người tài trong chính trường vì thế mà phức tạp, chưa có lối thoát.
Lý do là con người chưa tìm ra nguyên lý vận hành của nó.

Như đã nêu, chính trị theo đúng lý phải là nơi dành cho những người tài chuyên về ĐẠO ĐỨC.
Người tài trong chính trị trước hết là một nhà đạo đức tài năng của xã hội.
Theo HTNT, đạo đức là một khoa học về quan hệ, mà lãnh đạo xã hội thực chất là người có nhiệm vụ điều tiết các mối quan hệ xã hội, sao cho mọi người cùng hiểu nhau cảm thông nhau để cùng đoàn kết trên con đường kiến thiết xã hội ngày càng giàu mạnh và hạnh phúc.
Đạo đức lãnh đạo đòi hỏi trình độ sống và tư duy theo tâm A1 phải cao, tức là phải có tư duy lô-gíc về sự sống, con người và xã hội như nó vốn có, tiền đề quan hệ thành công với mọi người thành công và chủ động, trên cớ sở đó tổ chức phát triển xã hội một cách hợp lý nhất.

Tuy nhiên các xã hội xưa nay chưa có trường dạy nghề “Người Tài Đạo Đức” như trên.
Các tôn giáo, Khổng giáo, Lão giáo, triết học M-L, v.v… không chủ đích xây dựng đào tạo “người tài đạo đức”, để ra lãnh đạo xã hội bằng các lập luận lô-gíc khoa học như cuộc sống đang đặt ra.
Vì chưa có trường đào tạo chuyên ngành, nên con người phải dùng phương thức gán ghép, cuối cùng ai làm lãnh đạo được thì làm, còn nguồn gốc đào tạo là gì không là yếu tố quyết định.
Như thế hóa ra việc hệ trọng có ảnh hưởng đến tương lai sinh mang của ngàn triệu người, lại rất vụng về kém khoa học trong cả quá trình sàn lọc ra một nhà lãnh đạo đúng nghĩa.
Phải chăng vì thế mà sự sống loài người gian nan lận đận.

Đúng lý người lãnh đạo phải được đào tạo để hiểu con người và xã hội, như thực tế đang có. Kế là kỹ năng quan hệ (giao tiếp) và thuyết phục con người dựa trên các lý giải tình lý khách quan và khoa học, không áp đặt, để mọi người tự do suy nghĩ tham khảo quan sát và lựa chọn.
Sao cho cuối cùng toàn xã hội đều tự giác thống nhất đồng thuận  theo tiêu chí của nhà lãnh đạo đề ra.
Người làm được như vậy mới là người tài trong chính trường, mới xứng đáng được bầu chọn làm lãnh đạo xã hội.

Trong khi các lãnh đạo “trường làng” ngày nay, có nơi dựa nhiều vào quyền lực vũ khí để mệnh lệnh mọi người phải đồng thuận theo.
Nếu chỉ với cách này thì rõ là khối kẻ dốt về trí tuệ, nhưng giỏi lừa đảo- cơ hội- ác chuộng ăn chơi hưởng thu v.v… , thừa khả năng nhảy vào làm lãnh đạo chỉ cần có thời cơ.
Thực tế đã chứng minh, biết bao nhà lãnh đạo lừng danh nhưng bản chất là một tên vô tâm ác đức hại dân hại nước chống lại loài người.
Đây rõ ràng là thời kỳ còn yếu kém của lịch sử tiến hóa, khi con người mới đạt kỹ năng quản lý hoàn thiện ở phạm vi tập thể hay đơn vị tổ chức (ví du: tập đoàn xuyên quốc gia), nhưng chưa thành công trên phạm vi xã hội (quốc gia).
Nơi đó, xã hội, con người đa dạng, họ có thể tự do thoát ra khỏi mọi ràng buộc trực tiếp (lương bổng), ngoại trừ … chân lý và đạo đức tại lương tâm.

CHỈ CÓ ĐẠO ĐỨC TẠI LƯƠNG TÂM, thì mỗi người mới có đủ lý do chủ động và tự giác tự quản lý bản thân một cách hiệu quả. Còn ngoài ra không có một quyền lực chủ quan nào để có thể với tới tất cả mọi thay đổi biến hóa của tư duy con người trong mọi phút giây.
Nếu thế đòi hỏi mọi con người sinh ra lớn lên đều cần được đào tạo kỹ năng sống cơ bản hợp lý, trước khi tham gia cuộc sống cộng đồng.
Một là vì lợi ích sự sống bản thân, hai là vì lợi ích xã hội.
Vì thế xã hội phải chịu trách nhiệm về yêu cầu đào tạo cơ bản này.

Khi bài toán đạo đức đã có lời giải, vấn đề người tài trong chính trường sẽ trở nên thuận lợi.
Nếu nhìn vào thương trường, các chức vị lãnh đạo trong các doanh nghiệp, nó chủ yếu không do bình chọn và từ những ứng cử ngẫu nhiên, mà phải trải qua thực tiễn kinh doanh để chọn lọc.
Trong thương trường đã như thế, trong chính trường càng phải chính xác hiệu quả hơn.

HTNT đề xuất xây dựng hệ thống “Diễn Đàn Nhân Dân” (DĐND - xem “Ý Thức” và các tác phẩm liên quan của HTNT).
Qua quá trình tham gia DĐND, ai có khả năng lãnh đạo xã hội tự nhiên lộ diện. Bởi nơi đây là môi trường để mọi người được tự do thể hiện những kiến thức sống, những kỹ năng quan hệ, v.v… một cách công bằng và khách quan.
Do sự sống bản chất mang tính khoa học (HTNT), nên diễn đàn là nơi mọi người tự do luận bàn từ mọi quan điểm sống, nhưng kết quả cuối cùng sẽ phân định rõ đúng sai thuộc về ai, trình độ sống mỗi người thế nào một cách khách quan, qua đây sẽ tìm ra người tài của chính trường.
 

5-    CON ĐƯỜNG TU THÂN

Muốn có việt tốt thì cần phải có người tốt. Tốt về tài và đức, thiếu một trong hai không dùng được.
Song đức cũng là một khoa học (KHTT), nên nó cũng được qui là  TÀI.
Suy ra con người cần CÓ TÀI về KHVC và TÀI về KHTT.
Tùy mỗi người thích chọn TÀI nào chính và tài nào phụ, khi chọn nghề mưu sinh. Có hai tài như trên sự sống nhất định sẽ cân bằng và hạnh phúc.

Đức trong ĐĐNT không giống như quan niệm đạo đức thông thường, vì nó được nâng lên trở thành một ngành khoa học trong lĩnh vực quan hệ con người.
Trong quan hệ có đa dạng nội dung, đa dạng hình thức ứng xử, với đa dạng đối tượng người khác nhau v.v... , nhưng tất cả mọi trường hợp đều có thể được tính toán vận dụng sao cho, cuối cùng mọi người đều có thể sống trong hòa bình hạnh phúc, không còn mâu thuẩn hận thù xung đột bất hóa và gây chiến với nhau.
Muốn làm được như trên, phải tiến hành nghiên cứu tìm tòi nguyên lý sống, nguyên lý lập luận, nguyên lý giao tiếp, nguyên lý quan hệ v.v…, để cuối cùng rút ra kết lận đâu là con đường minh chứng khoa học để có thể dẫn con người đến kết quả quan hệ thành công như trên.
Hoàn thành công trình nghiên cứu trên, HTNT có đủ cơ sở để kết luận, “QUAN HỆ CON NGƯỜI” là một ngành khoa học chính xác không hơn không kém, nó có thể giúp mọi người vận dụng hiệu quả vào cuộc sống như đã thành công với các ngành khoa học khác.
Khi con người có sự khởi đầu đúng thì nhất định nó sẽ cho ra sản phẩm đầu cuối tốt đẹp như mong muốn. Không có trường hợp ngoại lệ.
Do tin tưởng vào tính đúng đắn như trên, nên thời gian sẽ cho ta thấy “ĐĐNT” có phải là sự lựa chọn ưu tiên của xã hội hay không.

Nếu được chọn thì việc học giữa KHVC và KHTT tất yếu có sự khác biệt nhất định.
Cái sở học trong KHVC là bắt đầu từ dễ lên khó, đến khó người ta còn gọi là đi “Tu Nghiệp”.
Trong tôn giáo, nếu chọn con đường công hiến đời mình cho đạo thì gọi là “Đi Tu”. Trong Nho học thì gọi là “Tu Thân”. Muốn việc tu luôn bền bĩ tiến lên, thì gọi là “Tu Dưỡng”.
Vậy từ “Tu” có lẽ được dùng để chỉ việc rèn nhân cách mang tính khó khăn có chiều sâu.
Nên cái sở học về ĐĐNT cũng có thể gọi là sự “Tu Thân” để rèn nhân cách.

Muốn học ĐĐNT cho đến hết chữ nghĩa, thì nhất định là không dễ.
Ví du:
- Khi học các môn học về khoa học tự nhiên, người học thấy nó mới nên việc tiếp thu chỉ một chiều.
- Nhưng học ĐĐNT là học chuyển từ cách cách sống này sang cách sống khác, tức là làm thay đổi từ hệ thống thói quen này sang hệ thống thói quen khác. Mà thói quen cũ là nó đã ăn sâu đến tận tiềm thức, đến tim và hơi thở, v.v… một cách tự nhiên từ rất lâu rồi. Nên nay muốn thay nó, thì việc gần như làm đến hết đời cũng chưa chắc thấy được chữ cuối cùng.
Việc học đạo đức này nó không dễ như học thuộc và hành động ứng xử theo đúng qui định là xong, mà nó còn phải tiến thẳng vào tâm để làm thay đổi từ cái nguồn cội ban đầu của mầm móng tư duy kia ...

Học ĐĐNT là học từ cách sống chủ quan cá nhân, hưởng thụ vật chất là chính, sang cách sống khách quan hợp lý, hưởng thụ vật chất chỉ là phụ là phương tiện tiến lên học hưởng thụ tinh thần mới là chính.
Con người sinh ra đã có cách sống, theo tự nhiên nó thích hướng về cách sống chủ quan cá nhân hơn (ít hay nhiều tùy bản năng và hoàn cảnh).
Theo thời gian cách sống này biến thành cá tính và thói quen khó sửa. Trong số ấy có những cái thuộc bản năng gốc không thể thay đổi, song có thể làm thay đổi mục đích hướng về của nó, nhầm nâng cao ý nghĩa và giá trị cho nó.
Còn lại các thói quen khác kể cả cá tính đều có thể thay đổi hoàn thiện nhân cách, nếu cá nhân có chủ ý.
Mục đích của ĐĐNT là giúp con người thay đổi tất cả những cái có thể như trên.
Tất yếu vạn sự khởi đầu nan, song nó như những viên gạch xây nhà, xây từng viên không khó, xây nhiều lần lâu ngày cộng lại sẽ hoàn thành ngôi nhà. Vấn đề tùy ở ý chí sở thích cũng như năng lực mỗi người, có nhanh có chậm, có dễ có khó, lúc này lúc khác, v.v … Song ai cũng có thể hoàn thành ngôi nhà “hạnh phúc” của mình tùy theo khả năng.
Có thể ở tuổi này lúc này chưa sửa được thì sửa ở tuổi tiếp hay ở thời gian khác v.v… Nhưng tốt nhất là càng sớm càng thuận lợi, vì các thói quen chủ quan chưa bám quá sâu, ý chí dễ tập trung, trách nhiệm xã hội chưa nhiều nên ít bị phân tâm, v.v… hay nhân cách còn trong thời kỳ dễ bảo biết vâng lời trước những lời hay lẽ phải, nên tiếp thu nhanh.
Tùy người tùy điều kiện và khả năng, cố gắng chỉnh sửa những biểu hiện tiêu cực ở mức nhiều nhất có thể được, tốt nhất là có đề ra chỉ tiêu để phấn đấu hoàn thành cho từng thời gian từng độ tuổi.

Nếu ĐĐNT là một đạo đức đúng đắn, thì nhu cầu rèn nó cũng như nhu cầu làm việc trong xã hội văn minh vậy.
Đạo đức đúng nghĩa là loại công việc làm hao tốn nhiều công sức và thời gian của con người. Nó đòi hỏi gần như suốt đời người, vì sự sống luôn thay đổi (do tuổi và do hoàn cảnh xã hội) nên cách sống cũng cần được thích nghi liên tục, có như thế sự bình an mới đảm bảo.
Đạo đức đúng đắn không thể mua, cũng không thể bắt chước máy móc từ lời nói đến việc làm để tạo hình thức, hay chỉ cầu nguyện (mong ước), v.v…  mà nó cần  bắt tay vào hành động, rèn luyện, cụ thể để tạo sự thay đổi từ suy nghĩ đến cảm xúc, từ nhận thức đến cảm nhận trong tâm, để cuối cùng cho ra kết quả sống, hành động, việc làm v.v… đều nhất quán với lương tâm và quá trình suy nghĩ.
Sự chuyển đổi trên mang ý nghĩ của sự thay đổi từ lối sống chủ quan sang khách quan, từ tự phát tùy tiện đến giác ngộ tự giác sống theo khuôn khổ (qui luật tự nhiên), v.v… và từ thói quen tư duy thích dùng quyền lực (bạo lực) để áp đặt người khác, sang tư duy biết lắng nghe và tôn trọng tiếng nói đúng đắn của nhau, nhầm xây dựng một môi trường sống bình đẳng giữa con người trước khái niệm lẽ phải (chân lý).

Tuy nhiên thực tế vì nghĩ rằng nó mất công mất thời gian mà lợi ích không thấy đâu (?), nên nhiều người chọn cách bỏ đạo đức để tập trung lo chạy … kiếm tiến. -  Nguyên nhân do “đạo đức không đúng đắn” đã gây ấn tượng tiêu cực cho họ.
Kiếm tiền là rất cần thiết, nhưng đạo đức (đúng đắn) cũng cần thiết cấp bách không kém. Một bên là vì lợi ích cụ thể hình, một bên vì lợi ích mang tính chất lượng ý nghĩa lâu dài và toàn diện từ nhiều góc độ.
Không chấp nhận tốn công tốn của để tích lũy đạo đức đúng đắn, thì một mai khi bài toán tiền đã có đáp án, thì mới thấy nó hóa vô dụng vì cuộc sống đã mất ý nghĩa, tâm hồn đã bị khô cằn trong thời gian dài do chạy đua lợi ích vật chất, góp phần tạo nên môi trường sống căn thẳng bất ổn trên nhiều mặt, tội ác phát sinh, v.v…

Trau dồi đạo đức đúng đắn, tất yếu mỗi lúc sẽ cho ra những kết quả những niềm vui hạnh phúc tương xứng, nó góp phần động viên con người càng phấn đấu hơn.
Rèn luyện mà không thấy kết quả niềm vui, một là do rèn sai đạo đức (không đúng đắn), hai là nếu đã rèn đúng đạo đức đúng đắn, thì nhất định phải có kết quả thu hoạch tích cực (niềm vui phát triển nhân cách, tinh thần và trí tuệ). Khoa học hay không chính là ở đây đối với phạm trù đạo đức.

Cho dù việc rèn luyện đạo đức đối với đa số, chưa phải là công việc chính, nhưng nó cũng đòi một số công sức đầu tư khó nhọc nhất định để đạt mức đạo đức căn bản tối thiểu khi tham vào đời sống cộng đồng xã hội.
Đến khi đã tham gia vào con đường mưu sinh xã hội, việc rèn luyện cá nhân cũng cần được tiế tục dùy trì, vì nó là cứu cánh của hạnh phúc đời người, là nền tảng thăng hoa của trí tuệ.
Vì vậy chúng ta dùng từ “tu dưỡng đạo đức” hay “tu thân” để chỉ việc học tập rèn luyện đạo đức, là chính xác vậy.
Nghĩa hẹp của đạo đức đúng đắn là những qui tắc trong lời ăn tiếng nói, hay các hành vi cử chỉ ứng xử hàng ngày.
Nghĩa rộng của đạo đức đúng đắn là cách sống, là mục đích sống đời người, là cách con người lý giải trong mỗi mục đích sống muốn đạt.

Trời đất sinh ra loài vật để sống theo bản năng thuần túy, bằng cách ấy nó chỉ có thể trở thành là chính nó.
Trời đất sinh ra loài người sống bằng trí tuệ, nhưng trí tuệ ấy cũng phải dựa trên bản năng để phát triển thì loài người mới trở thành chính mình.
Ở loài người có hai loại bản năng rõ rệt, bản năng thiện (A1) và bản năng ác (A2) – phát sinh sau do bản năng (A1) kém tu dưỡng.
Bản năng thiện là những mong ước chân thiệm mỹ, sung sướng, hạnh phúc một cách hợp tình hợp lý, vì sự bình yên thân thiện giữa con  người với nhau.
Bản năng ác là những hành động và suy nghĩ ngược lại với bản năng thiện. Tức là nó gây ra những điều không lợi cho sự sống con người.

Trong sự sống, bản năng thiện có trước, nhưng vì lý do bị cản trở (vô lý), nên bản năng ác được hình thành nhầm vượt qua sự cản trở để đạt mục đích.
Con người thường ví “thiện” là tính người, “ác” là dành cho thú tính.
Rèn đạo đức đúng nghĩa là nhầm giúp con người phát huy tính thiện (A1), triệt tiêu tính ác  (A2).

 “Trời sinh vôi sinh cỏ” … câu tục ngữ còn có nghĩa mọi việc cuối cùng rồi cũng có lời giải của nó. Vấn đề là phải đi tìm, phải nghiên cứu, phải bỏ công khám phá.
Vấn đề của đạo đức là đi tìm nguyên nhân cản trở con đường phát triển tính thiện của con người.
Nguyên nhân đầu tiên là vì con người không hiểu chính mình.
Bản chất con người là muốn sống “hạnh phúc”. Nhưng khi lại không hiểu “hạnh phúc” là gi. Nên đến khi thực hành, con người càng “tích cực hạnh phúc” thì càng “xa rời hạnh phúc”.
Một sự mâu thuẩn kỳ lạ … nhưng hợp lý, vì sự giới hạn của trình độ tiến hóa.

Con người sinh ra ai cũng cần ăn no, ngũ kỹ, chỗ ở bình yên là sung sướng hạnh phúc. Thế là thiện.
Nhưng cái ăn, cái ở, cái ngũ kỹ kia từ đâu mà có. Phải bằng lao động để tạo ra.
Lao động lúc đầu dễ nhưng càng về sau càng khó (kiếm tiền), do cạnh tranh và do nhiều nguyên nhân khác, cuối cùng người quá no người khác đói rã ... đến chết.
Xã hội như bắt đầu có hiện tượng mất đạo đức.

Nếu là người có dư (giàu), thì con cái họ được hưởng mà không cần lao động. Đạo đức có thể bị hỏng, vì nhân cách chưa qua rèn luyện từ  “lao động cực khổ để kiếm tiền”.
Nếu là người thiếu ăn (nghèo, cùng khổ), thì con cái họ càn khó sống hơn. Đạo đức có thể bị hỏng, vì cái đói giữa nhiều cái thừa xung quanh.
Từ mâu thuẩn đời sống vật chất, dẫn đến sự mâu thuẩn trong lý lẽ khi quyền nói và quyền kết luận lẽ phải cuộc sống, không do một ai đứng ra lý giải hợp lý.
Cuối cùng đạo đức xã hội thành hỏng. Vì phải sử dụng các kết luận tự phát rất đa dạng, mà cuối cùng là không cần đạo đức nữa … dùng vũ khí kết luận.

Nếu vậy vấn đề chỉ cần có thông tin lý giải đầy đủ thì mọi người sẽ hiểu ra và giúp nhau.
Song vấn đề không đơn giản như vậy.
Vì sau bao ngàn năm sống bằng bao nhiêu đạo đức hỏng, con người đã biến nó thành những thói quen ý thức, sự ham muốn, quyền lực, lý lẽ tranh luận, học thuyết, v.v ...
Sự phức tạp của hiện tượng đạo đức này có thể được tóm tắt từ diễn biến phát triển sinh tồn như sau.

Theo nhận thức thông thường, người trưởng thành phải biết “lao động có ích” để nuôi sống bản thân và gia đình.
Lao động có ích tức là biết tạo ra các giá trị mới, bao gồm sản phẩm vật chất và sản phẩm tinh thần, có lợi cho bản thân và cho xã hội nói chung.
Thế nhưng khi lao động sản xuất tiến lên qui mô lớn có tích lũy, khác với thời kỳ con người chỉ biết săn bắt và cuốc đất trồng trọt chăn nuôi lẻ tẻ vừa đủ ăn, thì xã hội xuất hiện thêm một nguyên lý sinh tồn kiểu mới:
- “Lao động không có ích” mà vẫn sống sung túc giàu sang về vật chất.
Nghịch lý này xuất hiện, khi sự phát triển xã hội đã tiến lên phức tạp về qui mô lao động sản xuất, đến qui mô lý lẽ trong điều hành xã hội. Trong số lý lẽ này có khe hở chân lý, nên xuất hiện số người chuyên khai thác khe hở này để chỉ “ngồi mát ăn bát vàng” mà “sống đời giàu sang phú quý”.
Cha mẹ ngồi mát … thì con cái cũng ngồi mát …, thế hệ này truyền cho thế kia … Kết quả nó là một phần đạo đức (hỏng) trong tổng thể đạo đức đang được xã hội trọng dụng.
Một hệ đạo đức (có pha trộn hư hỏng) được xã hội trọng dụng, tất yếu đã ảnh hưởng đến những người đấu tranh cho sự tiến bộ xã hội (các nhà tư tưởng), khi họ chọn sai mục tiêu làm nguyên nhân khắc phục, dẫn đến lý giải sai hiện tượng và qui luật xã hội.
Kết quả đạo đức xã hội đã rối càng rối hơn, khi những lý giải sau nào cũng tự hào là “lá cờ chân lý” nhưng vẫn thích … dùng bạo lực để chứng minh.


Để soi vấn đề nguồn gốc cấu thành của đạo đức ở một góc độ có thể chi tiết hóa tương đối, chúng ta có cách mô tả như sau.

Lịch sử loài người tạm thời chia ra hai thời kỳ:
-    Thời kỳ một, con người chỉ lao động giản đơn, kết quả kiếm ăn vừa đủ vừa thiếu.
-    Thời kỳ hai, kết quả lao động có dư thừa, đồng thời đời sống có cơ hội nâng lên thành giàu sang sung sướng, ai cũng ham thích.

* Trong thời kỳ một,
Mục đích của con người là dùng sức để tìm cái ăn. Thời kỳ này chủ yếu dùng phương thức “lao động giản đơn” cực khổ.
Tuy nhiên, do gian khổ nhiều nên con người dễ cảm thông lẫn nhau, vì nhu cầu gần gũi để cùng chia sẻ giúp đỡ khi khó khăn. Lâu dần thành quen và thành “tình người”, TÌNH ĐỒNG LOẠI ra đời.
Đồng nghĩa với “mức sống tinh thần” được hình thành, tâm A1 có cơ hội phát triển, nhân cách tích cực được xác định.

(Ghi chú: Loại trừ trường hợp thường xuyên gặp thú dữ có thể gây ảnh hưởng tính khí bạo lực.)

Kết luận, phương thức sản xuất thời kỳ một đem lại mức sống “hạnh phúc tinh thần” cho con người, nhưng còn thiếu mức sống “hạnh phúc vật chất”.


* Sang thời kỳ hai,
Xã hội tiến lên dùng phương thức “lao động phức tạp” để kiếm sống. Tuy nhiên ngoài kiếm sống con người còn muốn làm giàu' về vật chất.
Lúc này các tiện nghi vật chất đã trở nên đa dạng phong phú hấp dẫn. Mặt khác “lao động phức tạp” (trí óc) có khả năng cho thu nhập cao để trở nên giàu có.
Vì đã khá giả giàu có, nên NHU CẦU QUAN HỆ “lá lành đùm lá rách” KHÔNG CÒN CẦN THIẾT nữa (như thời cha ông đã làm), nên vì thế mà “cơ chế” xây dựng “mức sống tinh thần” ngày nào đã … nửa đường đứt gánh.
Các thế hệ sau tuy vẫn được hưởng “mức sống tinh thần” của tổ tiên, nhưng họ không ý thức từ đâu và bằng cách nào nó có, và nó bao gồm những gì v.v… nên thiếu ý thức giữ gìn và phát huy. Thế là theo thời gian các giá trị tinh thần dần bị mai một đi.
Khi mức sống tinh thần bị sa sút, thời đại muốn cứu vãng nó nhưng không đúng cách thành không đạt hiệu quả.

Con người “lao động phức tập” chỉ nhầm một mục đích duy nhất là nâng cao “mức sống vật chất”, từ vì thực tế cho đến vì “DANH NGHĨA” đơn thuần.
Lâu dần mục đích trên trở thành phổ biến thống nhất trong toàn xã hội loài người văn minh.
Thế là tâm A2 ngày càng lớn mạnh phát huy, trong khi tâm A1  thì bị rơi dần vào quên lãng. Ngoại trừ một số bù đắp từ các tôn giáo, nhưng không chính danh nên không vai trò quyết định cụ thể.

Tâm A2 có đặc điểm, chỉ đề cao sự ham muốn và hưởng thụ vật chất, còn lại tất cả như vô nghĩa. Thế hệ nhân cách xấu (phi tự nhiên) đang hình thành và ngày càng phát triển qua nhiều thế kỷ.
Một mô hình đạo đức không đúng đắn được thiết kế tự phát và bám rễ rất chắc vào mọi ngõ ngách tư duy tập quán con người.
Xã hội càng văn minh hiện đại thì lòng tham vật chất càng lớn, tâm A2 càng có cơ hội che khuất vai trò của tâm A1 (mức sống tinh thần bị xem nhẹ).
Nguyên tắc tình người tuy không thể mất hết, nhưng tình yêu vật chất vẫn là tiếng nói có trọng lượng và mang tính quyết định hơn.

Để rồi …
Ngày nay tiền đã nhiều, sự hưởng thụ vật chất đã có, nhưng hiện tượng người giàu không cảm thấy thỏa mãn với hạnh phúc đang có, đang  xuất hiện ngày càng nhiều …, mặc dù theo lẽ hạnh phúc người giàu phải tăng hơn gấp nhiều lần so với nhưng người dân thường mới đúng.

(Ghi chú: Ở đây chúng ta chỉ giới thiệu nét đại cương, loại trừ các mô hình sống da dạng theo quan điểm mỗi người … , tuy nhiên nhìn chung đều vận động xung quanh quỹ đạo cơ bản trên.)

Kết luận, phương thức sản xuất thời kỳ này đã đem lại mức sống “hạnh phúc vật chất” rất cao, nhưng bù lại mức sống “hạnh phúc tinh thần” đã bị vuột mất một cách đáng tiếc.

Như chúng ta đã biết, về nguyên tắc mỗi đời người chỉ được chọn một trong hai mục đích sống chính (vật chất hay tinh thần) cái còn lại chỉ là vai phụ,
Nếu chọn vật chất thì mất tinh thần, và ngược lại. Nhưng trong trường hợp này, nếu ta chọn tinh thần thì thực chất là được CẢ HAI, vừa vật chất vừa tinh thần. - Vì theo định nghĩa và theo thực tế, trong tinh thần đã có vật chất, nên chọn tinh thần làm mục đích sống, con người sẽ có tất cả nhất là “kỹ năng làm chủ bản thân”.

(Ghi chú : Cũng cần nhắc lại (xem “Cách Sống Mới”) HTNT định nghĩa trí tuệ chung là TINH THẦN (0), trong chia ra “tinh thần tinh thần” (1)  – quan hệ con người với con người, và “tinh thần vật chất” (2) – quan hệ con người với vật chất.)

Con đường “tu thân” trong ĐĐNT, chính là điều chỉnh lại nhận thức về mục đích sống, để sự sống trở lại hài hòa tự nhiên cân đối.



6-     MỤC ĐÍCH TRÍ TUỆ – THỜI KỲ 3.

Sự sống là con người.
Con người là trí tuệ.
Trí tuệ là lý trí.
Lý trí là tinh thần.
Tinh thần là tâm.
Tâm là A1.
A1 là … lương tâm.

Sau phương thức “lao động giản đơn” và “phức tạp”, xã hội loài người nên chọn hướng tiến lên phương thức “lạo động trí tuệ” hay “lao động khôn ngoan” làm phương tiện kiếm sống.
Tức là “giản đơn” hay “phức tạp” đều cần cho sự sống, song vấn đề phải có trí tuệ (đã qua rèn luyện) để hiểu sự sống một cách đúng đắn, và hành động mới không còn tự phát phiêu lưu như đã qua.
Nội dung chính của “lao động trí tuệ” là do tâm A1 đưa đường dẫn lối.
Trong tâm A1 có tất cả, ngoại trừ những tư duy chủ quan sai lầm. Còn lại là tùy vào ý chí và kỹ năng khai thác và phát huy tâm của mỗi người.

Con người sinh ra đã có tâm A1 từ bẩm sinh.
Vì thế nếu để tự nhiên con người không khó để thống nhất quan điểm trước một vấn đề đơn giản của cuộc sống.
Nhưng khi vấn đề đã trở nên phức tạp giữa môi trường xã hội văn minh, trong khi tâm A1 chưa có điều kiện phát huy, thì tiềm thức (vô thức) sẽ tự động phát sinh thêm tâm A2 , nghịch với tâm A1, để thích nghi với hoàn cảnh thay đổi.
Đây là nguyên nhân cơ bản GÂY CHIA RẼ trong thế giới loài người.
 Mỗi tâm là một quan điểm sống. Nay có hai tâm nghịch nhau cùng tồn tại, thì xã hội có ít nhất khối quan điểm bất đồng nhau về MỤC ĐÍCH SỐNG, hay về KỸ NĂNG NHẬN THỨC CUỘC SỐNG.

Trong thực tế, khi tâm A1 không được xác định là mục đích sống chính để hướng về, thì con người sẽ chọn tâm A2 làm quan điểm sống như mục đích phải hướng về.
Tâm A1 do thuộc bản năng gốc nên nó không thể biến mất, tâm A2 phát sinh sau tuy nghịch nhưng dễ hiểu hơn thực tế hơn. Cả hai cuối cùng cùng tồn tại song song trong một xã hội, làm cho sự sống trở nên nan giải không lối thoát trong lý lẽ nhận thức.
Trước những vấn đề phức tạp của cuộc sống và xã hội, con người cảm thấy khó hiểu nhau, nên không thể thống nhất nhau trong lời giải.

Đặc biệt với tâm A2, con người có thể tưởng tượng ra rất nhiều lý lẽ giả chân phức tạp đa dạng (ví du: các học thuyết sai lầm), mà thực tế không sao chứng minh được vì nó thuộc phạm trù tinh thần trừu tượng (…  không thật).
Sự sống vì thế mà phức tạp khó hiểu kéo dài, giữa lý thuyết và thực tế, giữa con người với con người, giữa ước mơ và hành động, giữa lý lẽ với lý lẽ, giữa hành động với hành động, v.v...

Để chống lại sự xuất hiện của tâm A2, xã hội cần có một học thuyết phản biện lại, để vạch mặt chỉ tên đúng nguyên nhân của vấn đề thời đại.
Biết rằng mọi vật thể trong vũ trụ đều vận hành theo một qui luật tự nhiên nhất định kể cả loài người. Qui luật vận động của mỗi vật thể là duy nhất, suy ra học thuyết chân lý của loài người nếu có cũng chỉ duy nhất.
Nếu có một học thuyết được xác định là chân lý thì tất yếu những học thuyết còn lại chỉ là tương đối hay sai lầm.
Nhiệm vụ của trí tuệ là đi tìm con đường chân lý ấy, nếu thực tế tự nhiên đã cho nó hiện hữu.

Để đi tìm …
Từ bản năng gốc A1, con người dùng làm chìa khóa vạn năng để lần ra manh mối của học thuyết chân lý thời đại.
Sau quá trình nghiên cứu và chứng minh, cho thấy kết luận trên hoàn toàn không sai. Vấn đề còn lại thuộc về mọi người, kiểm chứng lại luận điểm trên có thật sự xác thực.
Để thấy rằng, tâm A2  đang là thủ phạm của con người và của sự sống. Nó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tiêu cực chủ quan sai lầm của con người.
Đầu tư phát triển tâm A1, chính là lối thoát phù hợp với hoàn cảnh thực tế.

HTNT chính là hiện thân cho sự hồi sinh của tâm A1, mà tác giả muốn giới thiệu.

Khi con người chọn mục đích sống tại tâm A2 , bản sao của trung tâm (B) - ý thức, thì quan điểm sống sẽ là chủ quan, duy ý chí, thiển cẩn, phản tự nhiên, phiến diện, v.v…,  suy ra năng lực trí tuệ phát triển hạn chế, mức sống không cao, không toàn diện.
Với (B) chỉ có ý thức trực tiếp là giá trị, còn ngoài ra các giá trị tư duy khác chỉ là thứ yếu (ví dụ: tiềm thức lương tâm) – trong khi ý nghĩa thực tế thì ngược lại. (xem “Cách Sống Mới”)

Như thế nếu con người chủ động tiến lên Thời Kỳ Ba của phương thức “lao động trí tuệ”, thì các nhược điểm trong hai thời kỳ trước sẽ được quan tâm khắc phục.
Trí tuệ con người giờ đây mới có cơ hội phát triển thật sự toàn diện, lúc bấy giờ (B) không phải chỉ nhìn thấy chính nó mà còn cả tâm A1 của tiềm thức.
Đây hướng giải đúng đắn cho mọi thời đại.

Sự chọn lựa trên tất yếu không đồng nghĩa với cách chọn “hàng hai”, tức là vừa chọn tâm A1 vừa chọn tâm A2  theo cách hiểu đơn giản. Bởi như thế sẽ vô lý, ngụy biện, không mang tính hiện thực - (cho dù thực tế có cảm tưởng như có thể thực hiện được, nhưng thực chất là đang quay lại phương thức “lao động phức tạp” đơn thuần thiếu tính trí tuệ đúng nghĩa).
Vì thực tế sự sống chỉ cho phép con người chọn một trong các mục đích sống chính, làm định hướng cho tâm. - Ngoài ra sự lựa chọn nước đôi, chỉ là sự tự lừa dối với chính mình, lừa dối mọi người, để rồi hoài công phí sức, ăn năn hối hận không kịp ...
Vì lý do trên sự lựa chọn mục đích sống chính cần được xem xét tính toán thận trọng, để việc tu thân đạt “chánh quả”.
Chọn đúng hướng phát triển (A1) sẽ giúp trí tuệ phát triển toàn diện, sáng suốt, minh bạch, khách quan, sáng tỏ, …

Trong điều kiện thế giới ngày nay, nếu biết lắng nghe dư luận rộng rãi, cũng là cách để con người tiếp cận quan điểm của tâm A1, cơ sở hình thành nên phương thức lao động trí tuệ.
Đặc biệt là phải tập hợp đủ ý kiến của mọi thành phần đối tượng trong xã hội, thì mới có cơ hội tìm ra kết quả đạt giá trị tối ưu.
Về nguyên tắc lắng nghe ý kiến mọi người là không khó, nhưng trong thực hiện nó là một thách thức không dễ vượt qua, nếu không có một cơ chế tổ chức xã hội hợp lý.
Cớ chế tổ chức ấy, một là bằng Hệ Thống Diễn Đàn Nhân Dân, hai là thông qua các AA nếu nhất thời cần rút ngắn thời gian. (xem “Ý Thức”, phần đọc thêm).

Tạo hóa cho loài người trí tuệ để tư duy và tồn tại.
Tuy nhiên trí tuệ là loại TÀI SẢN CHUNG, cho dù mỗi người nghĩ rằng nó thuộc của riêng.
Vì có trí tuệ phát triển nào mà không chịu sự kế thừa của các thế hệ đi trước, ngoài ra trong hiện tại nó là thành quả thu lượm thông tin từ nhiều nguồn của môi trường xã hội, kế mới tính đến công lao tổng hợp và sáng tạo của cá nhân.
 Nay nếu ngược lại muốn dùng trí tuệ như một tài sản chủ quan của riêng cá nhân để hại người, thì tránh sao không chuốc họa phi nhân tính. Vì đạo lý sống ngàn đời bao giờ cũng là “ăn cây nào rào cây nấy”, “uống nước phải nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”, v.v…

Bản chất của trí tuệ là có tính tương tác lan truyền, nó có sức tác động gây ảnh hưởng với nhau mạnh mẽ.
Vì vậy nếu mọi người cùng có ý thức đóng góp cho loại tài sản chung đặc biệt này được phát triển tích cực, thì lợi ích sẽ nhanh chóng chia đều đến mọi người mọi nhà.
Hơn nữa đây là loại tài sản (trí tuệ) khi cho (góp chung) nó không những không bị hao mòn, mà có khi còn tăng lên theo thời gian.

Như thế chọn phương thức lao động trí tuệ cho Thời Kỳ 3, là rất hợp lý vậy. Nó sẽ giúp con người có đủ dũng cảm từ bỏ những tư duy lạc hậu để thay bằng những tư duy tiến bộ phù hợp với thời đại.
Tư duy tiến bộ, tức là biết lắng nghe và sẵn sàng lắng nghe, để quyết tâm thay đổi cho đến thành công, từ Trí Tuệ A2 sang thành Trí Tuệ A1.


7-    SƠ ĐỒ TRÍ TUỆ

Con người trong thời kỳ một, nhận thức cuộc sống còn đơn giản. Qua thời kỳ hai, nhận thức con người  đã phức tạp hóa.
Nếu trước mỗi người phải lao động trực tiếp để tạo ra sản phẩm, và tự thụ hưởng nó. Thì nay con người có thể không cần trực tiếp làm ra lương thực thực phẩm, nhưng vẫn có thể có dư để ăn, mặc, ở, và … làm giàu.
Vấn đề là do xã hội phát triển, nên hệ thống vận động gián tiếp phục vụ cho trực tiếp, trở nên cồng kềnh đa dạng nhưng không kém phần hữu ích.

Ngày xưa muốn đi, con người cứ thế mà đi. Nhưng nay muốn đi, người ta có thể nhờ người khác vận chuyển (đi) thay.
Xã hội càng hiện đại thì những nghề nghiệp gián tiếp như trên càng phát triển phong phú. Trong số các nghề, có lẽ nên tính thêm nghề … “VẬN CHUYỂN TRÍ TUỆ” mà sau đây chúng ta sẽ được giới thiệu.

Khi ăn người ta lấy ăn, thế là mãn nguyện.
Nhưng nếu muốn sống một đời hạnh phúc, thì con người nhiều khi phải loay hoay mãi đến suốt đời mà vẫn không xong việc … . Thế ra vấn đề này hoàn toàn khác, nó không đơn giản như các việc khác, vì thế nếu được ai giúp cho thành công thì tiện lợi biết bao.
Bản chất của hạnh phúc, theo HTNT, suy cho cùng là “khéo ăn thì no khéo co thì ấm”.
“Khéo” là giỏi làm để kiếm sống, nhưng có lẽ quan trọng hơn nữa là “BIẾT THÍCH NGHI” với hoàn cảnh sống, thì mới thật sự dễ sống hơn.
Biết thích nghi tức là “BIẾT THAY ĐỔI SUY NGHĨ” sao cho hợp với môi trường và hoàn cảnh, là điều rất đáng quý.

Mà “suy nghĩ” là do vốn nhận thức của mỗi người quyết định, do kỹ năng cảm nhận sự sống của mỗi người quyết định, do tâm của mỗi người quyết định, v.v … gọi chung là do trí tuệ quyết định (của mỗi người).
Như vậy theo HTNT, bằng trí tuệ con người có thể tìm đến mục đích “hạnh phúc đời người”.
Tuy nhiên do “đoạn đường” này rất dài và phức tạp khó đi, nên tốt nhất là cần có sự trợ giúp, để mọi người ai cũng có hi vọng về đến đích như mong muốn.
Do đây con đường đi mang tính trí tuệ để đạt đến đích, nên nghề  trợ giúp cho nó có nội dung là nghề “Vận Chuyển Trí Tuệ” (VCTT).
Người muốn hành nghề này, đòi hỏi phải có trình độ kỹ năng “ĐĐNT” cao.
Vì cái thiếu hạnh phúc của con người thời đại không còn là vấn đề vật chất nữa, mà chính là bài toán đạo đức (nhân tâm) hay mức sống tinh thần.

Chức năng của nghề này là giúp con người
-    Nhận thức (hiểu) sự sống (quan hệ) sao cho đúng đắn
-    Rèn luyện kỹ năng sống (quan hệ) đạt giá trị chuẩn mực

Thông qua các lý giải, chứng minh, thực hành, v.v… để thuyết phục đối tượng tự động chuyển biến tư duy tại tâm.
Từ đây mỗi người sẽ dần tìm ra “con đường hạnh phúc” phù hợp với cuộc đời mình.

Xưa nhu cầu sống của con người tạm gọi là chưa phức tạp, nên những lý giải đơn giản nói chung là đã đủ để chấp nhận.
Nhưng ngày nay những lý giải như trên không còn tác dụng hay mang lại hiệu quả nữa, mà nó cần được nâng cao hơn, chính xác hơn, cụ thể thực tế hơn, và khoa học hơn. Có như thế mới thuyết phục được con người.
Trong lý giải của nghề VCTT là nhầm giới thiệu cho khách hàng thấy thế nào là "sơ đồ trí tuệ” của mỗi người, và đâu là con đường ngắn nhất để đi đến đích.
Xã hội phức tạp làm cho nhận thức sự sống của con người cũng phức tạp. Nhận thức phức tạp quay trở lại làm cho xã hội càng phức tạp hơn. Cứ thế tiến dần đến bế tắc.
Đấy là nguyên nhân chính làm cho bộ máy tinh thần của con người trở nên hư hỏng, thần kinh bị căng thẳng (stress), đạo đức băng hoại xuống cấp, bệnh tâm thần, tội ác gia tăng, v.v …
Nhận thức được sơ đồ trí tuệ, tức là đã có được lời giải cơ bản, thì  mọi phức tạp khó khăn của cuộc sống sẽ giảm đi rất nhiều, để thay bằng những bước tiến mạch lạc nhầm thoát ra và tiến đến một tương lai mới tốt đẹp hơn.

Thế nào là một “SƠ ĐỒ TRÍ TUỆ” ?
Trí tuệ là thành quả của não sau một thời gian vận động sinh tồn. Đại diện của trí tuệ là ý chí (ý muốn). Con người cần có ý chí để xác định tương lai tiến về đâu.
Xã hội ngày nay là một thế giới vật chất muôn màu, nó đủ sức lôi kéo ý chí con người về hướng Vật Chất - Mất Tự Chu.

Vật chất gợi cho con người sự ham muốn, từ ham muốn đến quyết tâm sở hữu nó cho bằng được.
Muốn vậy cần có tiền, tức là phải có nghề nghiệp và việc làm. Nếu may mắn tất cả đều được thỏa, tất yếu cá nhân sẽ có tiền và nhiều tiền ...
Sau có tiến là các hưởng thụ như mong đợi bấy lâu, để hi vọng tìm thấy cảm giác sung sướng và hạnh phúc trong cuộc sống.

Trên đây là sơ đồ trí tuệ đại cương chung của đa số người thời đại. Nó mang tính lựa chọn CHỦ QUAN SAI LẦM TỰ NHIÊN, do chưa được hướng dẫn định hướng đúng đắn.
Vì nó mới phản ánh “nhu cầu của trí tuệ ý chí”, còn thiếu phần “nhu cầu của trí tuệ tâm A1 (lương tâm quan hệ)”.
Tại sao như vậy.
Tại tạo hóa- tự nhiên sinh ra sự sống là như vậy, làm người là phải như vậy. Vì thực tế đã chứng minh như vậy, không còn cách nào khác hay hơn.

Nếu phóng sơ đồ trí tuệ trên ra to hơn, chi tiết hơn, đồng thời vẽ thêm hướng khắc phục để mọi người tham khảo chọn lựa:

-    Khi sinh ra, tâm A1 đã hướng dẫn ý chí con người phải hoàn  thành các kỹ năng ăn, mặc, ở, sinh hoạt, các hoạt động giải trí v.v… đồng thời với nó là các quan hệ xã hội (bắt buộc).
-    Đến khi trẻ lớn hơn, ngẫu nhiên tâm A2 xuất hiện, nhầm lôi kéo con người ngã về hướng tham vọng làm giàu vật chất, bỏ qua tiếng gọi của tâm A1 , phần lương tâm quan hệ công ơn nuôi dưỡng ngày nào.
-    Nên sau khi thành đạt giàu có, con người chỉ chú trọng hưởng thụ cá nhân, mà quên ý thức trách nhiệm với xã hội. Hậu quả dẫn đến, cảm giác hạnh phúc đời người có vẻ như còn thiếu hụt điều gì, mặc dù nhìn về mức sống vật chất không thiếu nếu không nói đang thừa nhiều.
-    Bất ngờ đâu đó, có người còn nghe được tiếng gọi của tâm A1. Nó gọi để nhắc về ý nghĩa sự sống. Con người ta “từ đâu đến, cuối cùng sẽ đi về đâu, thế nào là một kiếp người, v.v…”. Cuối cùng nó giúp ngộ ra rằng, cái thành tích mỗi người đạt được tuy to lớn, nhưng tuổi đời có giới hạn nên khả năng thụ hưởng cũng có giới hạn ... Vậy sao ta không ngay từ bây giờ hãy tận dụng những của cải vật chất đang có, để làm những việc có ý nghĩa nhất, vừa lợi mình vừa ích người, như thế có phải tốt và hiệu quả hơn không.
-    Muốn thế cần phải tổ chức lại xã hội, để mọi người cùng có ý thức tham gia xây dựng cuộc sống chung tốt đẹp. Ai có khả năng nhiều đóng góp nhiều, ai ít góp ít, miễn tất cả đều tham gia theo khả năng và hoàn cảnh, thay vì chỉ quanh quẩn lo bảo thu với các quyền lợi riêng tư để cuối cùng việc riêng hay chung đều bị rơi vào bế tắc.
-    Đây cũng là lời giải cho bài toán ơn nghĩa cuộc sống thuộc “nhu cầu trí tuệ tâm A1”. Vì ngày nào còn bé bỏng, con người phải nhờ đến các quan hệ xã hội để tồn tại và trưởng thành. Nay đã thành đạt để trở thành người có dư không lẽ đành tâm bỏ mặc người người còn thiếu vì hoàn cảnh thì lương tâm nào chuẩn y cho.
-    Song để mọi người có cơ hội giúp nhau chia sẻ phần thừa đến những hoàn cảnh còn thiếu như trên, cũng là để những người có thừa được có cơ hội phát triển toàn diện nhân cách, thì vấn đề đặt ra là phải có kế đoàn kết mọi người trong xã hội lại. Có đoàn kết thì mới tổ chức mọi người hoàn thành tốt mục đích trên, một cách lâu dài cho đến thành công cuối cùng mỹ mãn.
-    Muốn vậy phải nhờ đến tâm A1 làm cớ đoàn kết mọi người lại. Bằng cách nhắc mọi người đang sở hữu tâm A1 như một báo vật thiêng liêng mà tạo hóa đã ban cho. Nay hãy khai thác nó, tạo thành tâm điểm đoàn kết xã hội.
     Có đoàn kết thì loài người thế gian sẽ không còn sợ khó khăn nào mà không thể vượt qua, có hạnh phúc nào mà không vươn tới.
-    Và Diễn Đàn Nhân Dân và HTNT sẽ là những phương tiện hữu dụng thiết thực, nhầm giúp con người hiện thực hóa các giao tiếp bàn luận sao cho đến đích thống nhất thành công.

Như trên chúng ta đã phát họa đại cương về “sơ đồ trí tuệ”, từ thực tế sự sống đến con đường dẫn đến tương lai tốt đẹp.
Tuy nhiên nó mới phát họa phần hình thức của ý thức, còn thiếu  sơ đồ trí tuệ cho phần nội dung của tiềm thức (vô thức). Nó thuộc phần ý thức không thấy trực tiếp, mà phải dùng kinh nghiệm sống để cảm nghiệm và phát họa thành sơ đồ.
Từ sơ đồ con người cảm nhận về nội tâm, và dần ngộ ra đâu là con đường nên hướng về để tiến đến một tương lai hợp lý.

(Chú thích:
Não trạng con người có đặc tính vận động không ngơi nghỉ, trong có tiềm thức (tâm), nơi lưu trữ quá trình phát triển ý thức của cá nhân theo thời gian.
Nó lưu trữ tất cả nhưng chỉ làm nỗi bật lên những nội dung ý thức nào lập đi lập lại nhiều lần, hoặc đã gây ấn tượng mạnh với cá nhân.
Kết quả vận động của tiềm thức là làm đậm lên những những nội dung ý thức trên, để sau đó tạo thành động lực tác động và điều khiển trở lại (B) như một mệnh lệnh không thể thoái thác.
Kết quả (B) trở thành tiêu cực hay tích cực, tùy theo lúc đầu vào tại (B) các nội dung ý thức mang ý nghĩa thế nào, khi xét dưới góc nhìn của TÂM A1 .
Kết quả trên lâu dần sẽ tạo thành thói quen hay cá tính của mỗi nhân cách, và nó được thể hiện vào quan điểm sống, như một phần bản chất của cá nhân.)


Sau đây là sơ đồ trí tuệ nội tâm được phát họa một cách hết sức đại cương:

- Con người sống hoạt động chủ yếu dựa trên SỰ ĐIỀU HÀNH QUYẾT ĐỊNH của tiềm thức, cụ thể là tâm A1, thông qua trung tâm ý thức (B). (xem “Cách Sống Mới”)
Tuy nhiên do A1 khó “nhìn thấy”, trong khi trung tâm (B) được cảm nhận trực tiếp và tức thời, nên con người có thói quen ngộ nhận CÁI TÔI thuộc về trung tâm (B) thay vì tâm A1.
Do phải có tiềm thức để điều hành sự sống, nên não đã phát sinh thêm tâm A2 để thay thế tâm A1 (khi chưa được chú ý trọng dụng), nhầm thỏa mãn dục vọng chủ quan của con người.
- Trong cuộc sống, (B) có thể biến hóa ý thức thành đa dạng nhân cách nhất thời để mưu cầu sự sống, nên nó đã làm nhiều người ngộ nhận trong (B) có tất cả kể cả lương tâm (A1).
Do vậy để nhận thức con người hiệu quả, cần phải dùng TÂM GIÁC (đã qua rèn luyện), để cảm nhận về một nhân cách, xem họ đang dùng tâm A1 hay A2 trong cuộc sống hay trong giao tiếp. Thay vì chỉ nhận xét qua (B) với nhiều biến hóa che mắt nhất thời.
- Trên đây là đặc tính tự nhiên của tâm khi giao tiếp (nhất là đã qua rèn luyện). Nó là dịp để các tâm lượng giá lẫn nhau, vừa để biết người vừa để rút kinh nghiệm trưởng thành cho mình.
Bên nào có tâm giác cao hơn sẽ chiếm ưu thế trong lượng giá, và ngược lại.

- Xét về thực tế, lối sống thời đại đang nghiêng về xu thế vật chất hóa, nên khi đánh giá con người người ta có khuynh hướng dựa trên trung tâm (B) (A2) nhiều hơn để xét đoán. Kết quả đa phần bị mắc bẫy sai lầm và thất bại.
Cách đánh giá này chỉ thấy đúng nhất thời, nhưng sau thời gian mới thấy sai lầm lộ rõ và thất bại, nhưng lúc bấy giờ đã muộn …
Khi tự xét mình và xét người đều chủ yếu dựa trên (B), thì kết quả cho ra sẽ như người bị trượt vỏ chuối vậy.
- Nếu là việc nhỏ, sai lầm không đáng kể nên khó thấy. Nhưng nếu là việc lớn, hậu quả lớn, mọi người đều nhìn thấy. Nhất là ở cấp độ chính quyền, nơi bài toán quan hệ được khuếch đại lên mức tối đa, lúc bấy giờ mọi sai lầm dù nhỏ trong quan điểm sống (cá nhân và xã hội) sẽ lộ ra công khai khó bề che giấu.
Sai một sẽ thành sai hai, và tăng dần thành tham nhũng, ăn cấp của công, chống lại nhân dân từ suy nghĩ, lời nói đến việc làm, từ ít đến nhiều, từ vô ý đến cố ý, từ hiện tượng đến bản chất, v.v ...
- Như thế cách sống theo (B) hay A2 - ((B) đã được tiềm thức hóa thành tâm tiêu cực) - là nguy hiểm và bất lợi trên mọi mặt, vì nó không có cơ chế giúp cá nhân kiểm soát ý chí và hành động, nên không biết dừng lúc nào và phải tiến lúc nào cho phải đạo.
Đây là cách sống của lời nói hay nhưng việc làm không hay, vì trong A2 không có nội dung khuyến khích làm hay, làm điều tốt chuẩn mực.
- Lời giải là chọn cách sống (lao động, làm việc, sinh hoạt, đánh giá và cảm nhận con người v.v…) theo tâm A1, là bảo đảm an toàn. Đây mới đúng là “sợi chỉ đỏ chuyên chính” trong rèn luyện nhân cách của mỗi cá nhân chân chính.
Chuyên chính với chính mình trong phát triển nhân cách, chứ không phải dùng nó để đàn áp người khác bắt họ phải theo ý mình.
- Khi cái bản thân đã hoàn thành tốt nhân cách, thì tự động cái mọi người sẽ có niềm tin và tự giác đi vào khuôn phép, không cần phí công “độc tài chuyên chính” để gieo ân oán sợ hãi nơi mọi người, mà thành thất đức với lương tâm với mọi người với đất trời tự nhiên.

- Cách sống theo A1 là cách sống của lời nói và việc làm đều thật như nhau. Vì luật tạo hóa đã ghi như vậy trong tâm A1.
Trong sự sống con người cần đạt giá trị đúng đắn tích cực dù tại (B) hay tại các tâm, để hạnh phúc đời người được toàn vẹn, suy ra xã hội loài người có cơ sở cũng như tìm thấy cơ hội, tiến lên xây dựng và trở thành một môi trường sống lý tưởng nơi trần gian.
Tất cả mọi mong ước giá trị tốt đẹp đều chỉ có thể tìm thấy lời giải tại tâm A1, nơi có khả năng tổng hợp và định hướng sự sống con người phát triển theo hướng tích cực toàn diện, như “QUAN ĐIỂM HẠNH PHÚC DO TẠO HÓA ĐÃ AN BÀY”.

Sơ đồ trí tuệ từ góc nhìn tiềm thức (tâm) như trên đã hoàn thành.
Trong trí tuệ có hay có dỡ, nhưng cả hai đều nằm trong tầm kiểm soát con người nếu biết chọn đúng hướng đi, đúng hướng phát triển. Nó không quá khó cũng không quá dễ, nó chỉ cần sự vượt lên chính mình.
Vượt lên mình để thấy rằng, trí tuệ cá nhân thực chất là tài sản chung của xã hội, của loài người, hay của tạo hóa. Vì vậy không nên cá nhân không nên tự quyết điều gì mà không tham khảo mọi người.
Tâm A1 tuy nhỏ và khó thấy, nhưng nó luôn hiện diện trong mỗi người và giữ quyền quyết định tất cả dù cá nhân có muốn hay không.


8-     CON ĐƯỜNG KHAI THÁC TÂM A1 .

Con đường là do đi lại nhiều trên cùng một hướng mà thành.
Con đường tư duy trên não cũng không khác là bao, để tạo thành cái gọi là thói quen.
Mỗi thói quen, mỗi cá tính tương ứng với mỗi con đường tư duy trên não. Nó được hình thành phù hợp với mục đích sống mà con người theo đuổi.

Tạo hóa sinh ra trí não đồng thời cũng kèm theo nó một vài thói quen có sẵn.
Trong số ấy có ý chí “muốn sống hạnh phúc”, mà HTNT gọi là chân lý gốc (CLG) của sự sống.
Nhiệm vụ con người khi lớn khôn, là quyết tâm thực hiện CLG như một cứu cánh của đời người.
Tuy nhiên sự sống là một môi trường đầy gian nan thử thách, nó đòi hỏi con người phải mò mẫm tìm tòi đâu là con đường đi đúng đắn nhất.

Lúc đầu các con đường còn ngắn và ít, nên mọi người gần như không khó để chỉ nhau cùng đạt đến đích.
Thời gian trôi qua, số con đường tăng lên và dài hơn, nhưng không theo một qui hoạch mạch lạc nào.
Giống như mạnh ai nấy vẽ đường để đi.
Lúc đầu ai cũng tự tin hay cố gắng vẽ cho nó đúng nhất, nhưng cuối cùng sau thời gian dài của đời người mới vỡ lẽ ra … đúng sai khó biết khó kết luận, nhưng khả năng sai nhiều thường đang chiếm ưu thế.
 Trong số ấy, nhiều người đã bị lạc đường, làm tiếc cả đời người.
Cá nhân như thế, xã hội cũng vậy. Nếu người lãnh đạo không khéo chọn đường, thì cả xã hội (đất nước) và nhiều thế hệ phải trả giá đắt.

Vì vậy sự sống cần có sơ đồ trí tuệ để mọi người tham khảo, thì khả năng thành công sẽ rất cao, những trường hợp lạc đường đáng tiếc sẽ không còn xảy ra.
Sơ đồ trí tuệ tất yếu phải khác với sơ đồ giao thông đường lộ.
Mỗi đời người chỉ có một lần sống, một lần để lập sơ đồ trí tuệ tối ưu cho đời mình. Nó được bắt đầu từ thời tuổi trẻ.
Thế nhưng tuổi trẻ cũng là thời gian con người chưa đủ trí khôn và vốn sống, để tự vẽ sơ đồ trí tuệ một cách … hoàn hão.
Vì vậy trẻ rất cần có người lớn và xã hội, giúp vẽ một số nét cơ bản ban đầu, mà sau này nó gần như mãi mãi gắn với tâm trí trẻ suốt đời.
Con người chỉ có thể từ đây phát triển tiến lên, chứ không thể quay lui vẽ lại từ đầu. Nếu có chăng thì đây là trường hợp rất hi hữu, hiếm thấy. Nhưng sự quay lui ấy cũng chỉ đạt gần tuyệt đối.

Những nét vẽ ban đầu của người lớn hay xã hội đối với trẻ, có thể phân thành ba cấp giá trị. Một là vẽ đúng, hai là vẽ sai, ba là vẽ trung tính.
Trong ba cấp này, thì cấp vẽ trung tính là tối ưu nhất trong điều kiện xã hội chưa định hình rõ quan điểm chân lý như hiện nay.
Nếu có điều kiện nhận thức quan điểm chân lý (mức cơ bản), thì cấp vẽ đúng sẽ đem lại lợi thế lý tưởng cho trẻ phát triển sơ đồ trí tuệ sau này.

Từ một số đường vẽ ban đầu làm mồi, trẻ phải tự chịu trách nhiệm cá nhân hoàn thành tác phẩm sơ đồ trí tuệ của đời mình. Đây là trách nhiệm không ai có thể gánh vác thay.
Mỗi cá nhân là như thế, thì mỗi xã hội, mỗi quốc gia cũng phải có sơ đồ tương tự như vậy.
Nhiệm vụ thiết kế sơ đồ trí tuệ cho tương lai, từ những nét vẽ ban đầu của lịch sử để lại, phải thuộc về mọi người trong xã hội, trong quốc gia mình đang sống.

Đời người là vô giá, tương lai là vô giá, mọi sai lầm đều phải trả giá bằng lượng thời gian hao phí không có gì bù đắp được.
Vì thế sự sống rất cần được nghiên cứu, giúp đỡ, gợi ý, hướng dẫn, giới thiệu, đào tạo, giáo dục, v.v… để khả năng vẽ sơ đồ trí tuệ được hoàn thiện.
Như đã nhiều lần đề xuất, sơ đồ trí tuệ nên căn cứ vào tâm A1 để lên hình.
Mà đặc điểm của tâm A1 là không áp đặt thì ý thức mới có cơ hội “nhìn thấy” để vẽ. Bằng ngược lại nó sẽ không hiện nguyên hình, khi ấy cá nhân sẽ mãi mãi không tìm thấy con đường dẫn đến bến bờ hạnh phúc trọn vẹn của đời mình.

Mỗi đời người là một khả năng riêng biệt, không ai giống của ai.
Suy ra mỗi sơ đồ trí tuệ mỗi khác, vấn đề miễn là nó tối ưu với chính cá nhân khi đã “tận nhân lực”, bên cạnh sự giúp sức đúng đắn và nhiệt tình của xã hội.
Sơ đồ trí tuệ hiểu nôm na chính là cách sống của mỗi người, và ý chí là cây bút vẽ.
Để vẽ con người chỉ việc nhắm đến “mục đích sống hạnh phúc” để vẽ. Đừng để chi phối bởi nội dung nào khác mà thành vẽ sai mục tiêu.
Hạnh phúc có chuẩn nào để vẽ? Tâm A1 chính là chuẩn vẽ.

Chuẩn của tâm A1 rất đơn giản: “điều gì hợp tình hợp lý được mọi người công nhận công khai, thì hết tám chính phần đã đạt chuẩn tâm A1”.
Phần phức tạp còn lại, phải cần đến học thuyết chân lý dẫn đường. Nếu chỉ dùng kỹ năng quan sát thông thường sẽ không thấy đường để vẽ.
Như thế nhìn chung, sơ đồ trí tuệ nếu để tự nhiên vẽ không không, tức với điều kiện không bị tác động bởi các quyền lực vô lý chi phối.

Nhưng tiếc rằng thực tế cho thấy, thế giới đang vận hành theo sơ đồ trí tuệ A2. Vì vậy ít nhiều nó đang tác động lệch tâm quá trình lên sơ đồ trí tuệ của mọi người, chưa nói có trường hợp nó dùng bạo lực để gây tác động.
Đây là bài toán nan giải chung mang tính thói quen của não người.
Muốn xóa thói quen cũ thay bằng thói quen mới, trong điều kiện không dùng bạo lực, đòi hỏi phải mất thời gian và quan trọng là phải có qui trình chứng minh phải đồng bộ chính xác, cộng với thời cơ chính mùi, thì mới thuyết phục được nhận thức con người tự giác thay đổi.
Muốn chứng minh các thói quen đang có là sai, cần có một học thuyết nhầm tổng kết lại lịch sử và lý giải nó về nguồn gốc sơ đồ trí tuệ như loài người đang có.
Qua đây từng bước con người phân biệt được đâu là các sai lầm phi khoa học của quá khứ, và đâu là con đường chân lý nên chọn cho tương lai.
Trên đây là những công việc mà HTNT lên sơ đồ tiến hành.
Mà cụ thế là ĐĐNT, nó có nhiệm vụ bám sát chi tiết cuộc sống nhầm kịp thời hóa giải mọi sai lầm không đáng có, và thay bằng những bước đi đúng đắn hơn trong cuộc sống con người
ĐĐNT chính là chìa khóa giải cứu trực tiếp mọi vấn nạn mãn tính của xã hội loài người. Chiến tranh, giai cấp, bất ổn, kỳ thị sắc tộc, hạnh phúc, v.v… đều có chung một đáp án “HOÀN THIỆN LẠI SƠ ĐỒ ĐẠO ĐỨC” (hệ thống).

Nhìn tóm lượt lại lịch sử chúng ta thấy, thế giới đã có HTML,  chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa nông nô, v.v… . Các chủ nghĩa càng về sau, đạo đức thờ vua, thờ quyền lực chính quyền giảm dần,  để nhường cho mô hình đạo đức “quý trọng nhân dân” dần lên ngôi.
Riêng HTML có dụng ý muốn thay đổi xã hội tận gốc rễ, bắt đầu từ tư duy con người.
Tuy nhiên khi thực hiện, nó đã thất bại vì nhân thức con người chỉ tự nguyện thay đổi khi có chân lý, trong khi HTML chưa tìm ra chân lý sống mà cụ thể là chân lý gốc.
Vậy là sai một li đi một dặm, trèo cao té đau. Đó là tất cả những gì HTML đang vấp phải.
Không chân lý nhưng vẫn muốn tiến tới, nên tội ác bạo lực được dùng đến là điều khó tránh khỏi. Từ đây suy ra tính phi nghĩa của chế độ.

Tóm lại, bài toán quan hệ con người là nguyên nhân cơ bản mà lịch sử tiến hóa còn chưa vượt qua.
Cụ thể là bài toán đạo đức, nó có mang giá trị của tâm và chân lý không.
Nó cũng chính là bài toán về bản chất con người, bản chất sự sống, bản chất của ý thức. Tất cả được tạo ra để nhầm mục đích gì và đâu là nguyên lý vận hành của nó.
Tức là những vấn đề thuộc phạm trù triết học hiện đại phải lý giải.
Giải được các bài toán trên con người sẽ tìm thấy sự công bằng tự do hạnh phúc trong cuộc sống.
Còn không, mọi phương án cải tổ, cách mạng, đổi mới, quyết tâm khắc phục, nghị quyết, v.v…  chỉ là những đáp án nhất thời, nhưng sau đó bệnh cũ vẫn tái phát nhưng nặng hơn, nguy hiểm hơn và bất ngờ hơn.



IV – ĐẠO ĐỨC NHÂN TÂM

ĐĐNT là loại đạo đức tự nhiên có, vì được hình thành từ tâm A1.
Vấn đề chỉ là tập hợp nó lại, đúc kết thành lý lẽ có hệ thống, có nguồn gốc chứng minh rõ ràng góp phần chuẩn hóa nó, để dễ dùng nhầm đem lại sự đoàn kết và hạnh phúc cho mọi người.

Ta chia đạo đức ra làm hai phần, phần hình thức và phần nội dung.

Hình thức là những hành vi giao tiếp trực tiếp.
Như những lời ăn tiếng nói đến hành động, sao cho lịch sự văn minh nhã nhặn trật tự tôn trọng lễ phép thân thiện hòa đồng gương mẫu v.v… như thông lệ đạo lý con người vẫn dùng để dạy nhau.

Nội dung, trong phần này được chia làm hai phần nhỏ:
- một là, vai trò cá nhân: phần này do cá nhân chịu trách nhiệm. Tùy theo cách cá nhân vận dụng đạo đức mà cho ra kết quả quan hệ khác nhau, chủ yếu xoay quanh hai giá trị THẬT hay GIẢ.
 Tức là giữa hành động (đạo đức) và suy nghĩ (thực ý - tâm) có giống nhau không, giữa biểu hiện thái độ bên ngoài (nhất thời) và nhận thức bên trong có trùng nhau không.
Theo nguyên tắc, thông thường giữa chúng phải nhất quán với nhau là lý tưởng nhất, tức là “nói phải đi đôi với làm” như thế mới đạo đức. Chỉ trừ trường hợp đặc biệt hợp lý do tình huống hay hoàn cảnh, người ta phải vận dụng ý (ngoài) khác với lòng (trong) vì mục đích bảo vệ lẽ phải (chân lý) hay một lợi ích đúng đắn nào đó.

- hai là, vài trò xã hội: phần này do xã hội chịu trách nhiệm, nó liên quan đến bản chất của nội dung đạo đức nhằm phục vụ cho đối tượng nào, mà xã hội muốn định hướng (yêu cầu) mọi người.
Đạo đức hình thức chỉ có giá trị về hình thức, nhưng quyết định giá trị quan hệ và giá trị nhân cách thuộc về “đạo đức nội dung”. Đây là nơi quyết định bản chất thật của vấn đề, xấu hay tốt, thiện hay ác.

Xã hội ngày nay nhìn chung mới chú trọng về đạo đức hình thức, chưa có biện pháp quản lý đạo đức nội dung.
Để quản lý nó, người ta phải xác định mục đích của đạo đức là nhầm phục vụ cho đối tượng nào, vua chúa, giai cấp, mục đích lý tưởng cách mạng, v.v…
Dù cho đối tượng nào đi nữa, nhưng thiết thực nhất có lẽ chỉ có “ VÌ LỢI ÍCH NHÂN DÂN”, hay “VÌ CON NGƯỜI” (nói chung) là đúng đắn và hiệu quả nhất.
Mà con người chỉ muốn hạnh phúc trong cuộc sống.
Vậy nội dung đạo đức lý tưởng nên là “TẤT CẢ VÌ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI”.
Hay sự sống chỉ nên có một đạo đức duy nhất gọi là “ĐẠO ĐỨC HẠNH PHÚC”. Ai là con người thì đều sẽ được hưởng lợi ích từ mô hình đạo đức này.

Theo HTNT, đỉnh cao của “hạnh phúc” là khi “TÂM A1” được phát triển toàn diện. Suy ra đạo đức tốt nhất chỉ có thể … “ĐẠO ĐỨC NHÂN TÂM” (ĐĐNT).

Ở đây chúng ta có thể bàn thêm một chút về quan điểm “vật chất quyết định tinh thần”. Vì nó có liên quan đến nhận thức, cách sống, cuối cùng là đạo đức (sống).
Theo định nghĩa hẹp (HTNT) tinh thần là quan hệ (người và người)
Nói vật chất quyết định tinh thần, vô tình nó có nghĩa “có tiền là quyết định tất cả”.
Điều này trong thời đại ngày nay nói chung là không sai. Nhưng  thực tế cũng cho thấy nó mới đúng một phần, nó mới thể hiện một mặt của nhận thức, của lối sống xã hội.
Mặt kia của nhận thức, nó đang thuộc về “lẽ phải (chân lý – lương tâm) quyết định tinh thần”.

Mà tinh thần nghĩa rộng là “trí tuệ” là “sự sống”, với nội hàm bao gồm cả “vật chất” lẫn “tinh thần (nghĩa hẹp)”. Suy ra lẽ phải - chân lý quyết định tất cả.
Biết rằng lẽ phải - chân lý thuộc về tâm A1. (xem “Ý Thức”)
Mà tâm A1 thuộc phạm trù trí tuệ- tinh thần, suy ra “TINH THẦN LUÔN LUÔN QUYẾT ĐỊNH VẬT CHẤT”, nhưng nhất thời “vật chất quyết định tinh thần” khi trình độ nhận thức của trí tuệ chưa phát triển, nên chưa kịp định rõ được vấn đề.

Nếu triển khai lý luận theo hướng “vật chất quyết định tinh thần”, thì trong các vật chất có “vật chất người”. Mà người thuộc phạm trù “trí tuệ, tinh thần”.
Vậy câu trên thành là “vật chất tinh thần quyết định tinh thần” hay “tinh thần quyết định tinh thần”. Giữa hai tinh thần, thì lẽ phải (chân lý) là trung gian xác định thắng thua. – (còn nếu đem vật chất vào là chơi … ăn gian)
Mà lẽ phải - chân lý thuộc tâm A1. Vấn đề cũng quay về kết luận trên.
Tóm lại đường nào cũng về La mã. Nhưng do lúc đầu cái suy tiến hóa … còn cạn nên luận chỉ thấy ngọn mà chưa sát gốc, nên khi đem ứng dụng đường dai mới thấy hậu quả khôn lường …

Thực tiễn cho thấy khi con người sống mà không chọn lẽ phải (chân lý) làm trung tâm điều hành quan hệ, thì sự sống nói chung tinh thần nói riêng, sẽ rối loạn bất an thất thường cho dù con người đã cố gắng tích cực khắc phục.
Vì đây thuộc về luật của tạo hóa, mọi hướng kết luận khác đều chỉ chuốc lấy thất bại, làm hư hỏng nhân cách, hao hụt tinh thần, hạnh phúc biến chất, v.v ...

Rèn đạo đức tại tâm song song với phát triển đạo đức hình thức, là lời giải đúng đắn cho vấn đề cuộc sống và quan hệ.
Rèn tâm hay rèn lương tâm là quá trình hình thành thói quen nhận thức, “sống không phải chỉ cho mình mà còn vì mọi người”.



Nói chung để học và sống theo ĐĐNT là không khó, vì nó phù hợp với bản năng tự nhiên cộng với một chút lý trí.
Phần lớn nó giống với những kinh nghiệm đạo đức phổ thông mà mọi người đang dùng. Đặc biệt những nơi thôn quê xa thành, con người càng dễ tìm thấy chất liệu của lối sống lương tâm nơi con người. Nhưng muốn nó thành chất lượng A1 thì phải về thành phố, vì nó đòi hỏi phải có tính lô-gíc (khoa học) trong lập luận đạo đức.
ĐĐNT nhìn chung khác biệt với các mô hình đạo đức phổ thông khác, khi vấn đề liên quan đến bản chất sự sống, cụ thể là các quan hệ khi đã khuếch đại lên tầm vĩ mô, phức tạp, khó lý giải thống nhất trên phạm vi mọi người (xã hội).
Ví dụ: các vấn đề chính trị xã hội, học thuyết, chính quyền với nhân dân, v.v… Suy ra các quan hệ nhỏ về đạo đức cũng ít nhiều phải thay đổi, chủ yếu về phương thức lý giải là chính.


Sau đây chúng ta nêu một vài đức tính cơ bản mà ĐĐNT đòi hỏi phải đạt cơ bản: lòng tự trọng, tính trung thực, tình người, kỹ năng lý giải sự sống (quan hệ) bằng lý lẽ minh bạch chặt chẽ khoa học.

Lòng tự trọng là điều kiện cơ bản để lẽ phải phát huy giá trị. Có lòng tự trọng sự sống sẽ không cần dùng đến quyền lực vũ khí trong giải quyết mâu thuẩn, nó chỉ cần lẽ phải trái là đủ để nhận ra sai lầm và tự giác chỉnh sửa vì lòng tự trọng.

Tính trung thực là điều kiện cơ bản thứ hai để con người hình thành kỹ năng cảm nhận lẽ phải - chân lý. Vì nó liên quan đến tâm A1 (lương tâm), với đặc điểm riêng, phải có tính trung thực thì mới nghe được “tiếng nói của lương tâm”.
Đây như phép màu của tự nhiên dành cho con người.
Hay đây cũng là cách để người tốt (đạo đức) có điều kiện phân biết  với người xấu (đạo đức kém), người có trình độ sống cao phân biệt với người có trình độ sống thấp.

Tình người, nó không tự nhiên mà có. Thường nó phải qua rèn luyện từ  hoàn cảnh mới phát sinh. Sự đau khổ vì mất mát và nhu cầu được giúp đỡ, hoặc qua giáo dục đúng đắn kết hợp với thực tế người thật việc thật, v.v… là những môi trường tốt tạo nên tình người trong sáng.
Còn lại, đa phần những quan hệ tích cực hình thức, chủ yếu do “thói quen quan hệ” hơn là “tình người” phát triển.
Tình người là thói quen quan hệ tích cực đã được nâng lên thành cảm xúc yêu mến mạnh mẽ.
Tình cảm cũng có phần do năng khiếu bẩm sinh cộng với hoàn cảnh  tạo thành.
Tuy nhiên nhìn chung tình cảm có thể được rèn luyện từ không thành có, từ có thành không, thông qua lý lẽ và hoàn cảnh đúng đắn.
Sự sống cần có tình người để quản lý hành vi biết tôn trọng người khác, cũng như sẵn sàng đoàn kết chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn v.v.... Hoặc nó giúp con người có những ứng xử hợp lý trước những mâu thuẩn phức tạp, đặc biệt khi ảnh hưởng đến lợi ích bản thân, v.v…

Kỹ năng lý giải sự sống bằng lý lẽ mạch lạc khoa học, đây là một yêu cầu đặc biệt của ĐĐNT, để sự sống trở nên mạch lạc đoàn kết thống nhất, nhờ có các lý giải hợp lý chặt chẽ.
Không có lý lẽ đúng đắn là điều kiện tiên quyết trong quan hệ, thì mỗi người sẽ chủ quan nghĩ vấn đề theo nhiều hướng khác nhau, cuối cùng thành bản chất cá nhân. Đã thành bản chất thì lý đúng cũng thành sai, thành mất tác dụng, thành không ai nghe ai, thành  … bạo lực.

Song song với các đức tính cơ bản trên, là xây dựng thói quen yêu chuộng lẽ phải công lý hơn là yêu tiền. Tức là xây dựng niềm tin vào tính hợp lý là sức mạnh lớn nhất trong cuộc sống , thay vì đồng tiền và quyền lực.
Có lẽ đây là yêu cầu khó nhất của ĐĐNT, vì nó trái với tâm A2  phát sinh tự nhiên nơi con người.
Vì thế đây là vấn đề cơ bản mà HTNT đã đặt ra ngay từ đầu. Thay đổi cách sống cũ  (A2) thành cách sống mới (A1 ) là yêu cầu xuyên suốt của học thuyết đối với con người mọi thời đại.




V – KẾT LUẬN


Sự sống loài người thế gian nếu còn gọi là khó khăn và đau khổ, thì nguyên nhân lớn nhất thuộc về QUYỀN LỰC XÃ HỘI DO AI CHIẾM DỤNG.
Khi vấn đề quyền lực đã được lý giải sáng tỏ, cũng là lúc quyền lực xã hội được trả về đúng với chủ nhân đích thực cùa nó là NHÂN DÂN.

Nhưng muốn quyền lực của nhân dân được xác lập vĩnh cữu, thì yêu cầu khái niệm chân lý sự sống phải được minh bạch hóa. Nếu không mọi sự ngộ nhận đều dẫn đến nhân dân mất quyền lực.
Như thế chỉ cần có chân lý thì thế gian này sẽ vượt qua được bể khổ để đến với bến bờ hạnh phúc.
Có chân lý con người sẽ hiểu được mục đích sống hạnh phúc của đời người là gì. Rõ ràng nó không phải chỉ có tiền và quyền lực mà quan trọng hơn cả là trí tuệ và đạo đức.
Trí tuệ sẽ giúp con người có kỹ năng lập luận phân tích nghiên cứu lý giải sự đúng sai của các hiện tượng quan hệ một cách đúng đắn khoa học.
Từ những kết luận của trí tuệ con người mới bỏ công rèn luyện nó thành thói quen có điều kiện, thâm nhập vào tâm, tiêu hóa thành nhận thức và hành động mới, cuối cùng là cách sống mới (kỹ năng sống mới).
“Kỹ năng sống mới” là nhân tố quyết định để “QUYỀN LỰC NHÂN DÂN” trở thành hiện thực trong cuộc sống.

Kỹ năng sống mới sẽ phát huy hiệu quả thông qua “Hệ Thống Diễn Đàn Nhân Dân”, có ở rộng khắp xã hội.
Kết quả thống nhất trong các diễn đàn là cơ sở tạo nên sức mạnh quyền lực của nhân dân.
Đi đầu trong khả năng lý giải các mâu thuẩn trên là những người có trình độ sống (tâm giác A1) cao.
Họ cũng là những người được ưu tiên tuyển chọn vào làm trong Bộ Máy Trung Quyền (thay vì Chính Quyền – xin xem phần “Đọc Thêm” ở cuối), là bộ máy quyền lực trung gian giữa Quyền Lực Nhân Dân và thực tiễn cuộc sống.
 Bộ Máy Trung Quyền sẽ hoạt động theo chế độ tam quyền phân lập giống như các nước văn minh vẫn làm.

Bên cạnh Bộ Máy Trung Quyền và Quyền Lực Nhân Dân,  là một “TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU SỰ SỐNG CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI” làm nhiệm vụ tham mưu tư vấn – (tương tự với tổ chức Đảng hiện nay, nhưng văn minh hơn hiệu quả hơn, vì toàn dân đương nhiên là đảng viên – xem “Ý Thức”).
Trung tâm trên còn có tên gọi là “TRUNG TÂM PHÁT TRIỂN KHOA HỌC TINH THẦN”. Tiêu chí của nó là không dùng quyền lực để áp đặt (vì chân lý chưa sáng tỏ), mà dùng lý lẽ chân lý để hiệp thông nhân dân thành một khối đại đoàn kết thống nhất.
Nên “ĐẢNG CỘNG SẢN” có thể đổi thành “ĐẢNG NHÂN TÂM”.
“Đảng Nhân Tâm” thực chất là một trung tâm khoa học, có nhiệm vụ đào tạo mọi người trong xã hội trở thành những con người sống tốt đẹp và hạnh phúc như Qui Luật Tự Nhiên đã định.

Đảng Nhân Tâm tất yếu lấy HTNT làm cơ sở.
HTNT là học thuyết mở, nên Đảng Nhân Tâm cũng là một đảng mở. Mọi vấn đề của Đảng đều được dư luận công khai bàn luận để góp phần hoàn thiện quá trình hoạt động của nó,
HTNT là thành quả đúc kết từ kinh nghiệm sống của con người nói chung đến nay.
Cái gì đúng cái gì hay của lịch sử và hiện tại, cần được nói lên và tập hợp lại để mọi người  tham khảo khai thác. HTNT như là một sự mở đầu, con đường hoàn thiện sẽ thuộc về mọi người ./.

                         Hết tác phẩm thứ bảy.

                                 Tp. HCM, ngày 30 tháng 01 năm 2012
                                                           HOÀNG VĨNH SƯU




PHẦN ĐỌC THÊM


A - NHÀ LÃNH ĐẠO HAY NHÀ HÀNH ĐẠO

Lịch sử loài người có thói quen nguy hiểm là “thừa nhận” quyền mắc sai lầm của các nhà lãnh đạo.
Lý do vì “dân không thể hiểu bằng các nhà lãnh đạo”, hơn nữa “không phải việc thì cũng có thể lý giải được”.
Nên cuối cùng dân phải đành chịu. Trong khi các nhà lãnh đạo có toàn quyền … làm sai, hại dân hại nước một cách hợp pháp hợp lý lẽ.
Như thế là bất lợi cho phía nhân dân.

Sự thật không nhà lãnh đạo nào có quyền mắc sai lầm ngoại trừ  được sự cho phép của nhân dân, vì ngoài tầm hiểu biết chung.
Muốn không bị mắc sai lầm, trước hết nhà lãnh đạo phải được đào tạo để trở thành một nhà Đạo Đức Chuyên Nghiệp. Tức là người biết lấy cái đau của mọi người làm cái đau của chính mình.
Kế đến nhà lãnh đạo phải am tường sự sống con người và xã hội, cuối cùng là luôn tự giác đặt “Quyền Lực Nhân Dân” lên trên “Ý Chí Chủ Quan” của các nhà lãnh đạo (chính quyền).
Nếu vậy NHÀ LÃNH ĐẠO (chính quyền) nên gọi thành NHÀ HÀNH ĐẠO, vì chủ yếu là thừa hành dưới sự lãnh đạo của toàn dân trong một xã hội (quốc gia).
 
Chúng ta biết rằng không ai có thể biết tất cả, dù là tài ba xuất chúng.
Vì vậy “hành đạo” cũng giống như một nghề như bao nghề khác, chỉ khác là nó có mang tính tổng hợp các hoạt động của xã hội.
Nó tổng hợp theo cách, sắp xếp hay lý giải sao cho hợp lý mọi hiện tượng diễn biến trong xã hội.
Nhà hành đạo làm được việc này, vì họ là nhà đạo đức học hay là nhà khoa học về tinh thần. Tức là người có khả năng hợp lý hóa tư duy cao hơn người bình thường, đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ và trong sự sống toàn diện.
Như vậy nhà hành đạo có nhiệm vụ giúp xã hội hợp lý hóa mọi hoạt động thành có hệ thống hợp lý, đồng thời giúp vạch ra hướng phát triển tương lai.

Nhà hành đạo cũng là nhà đạo đức nên có ưu thế phát hiện ra những hiện tượng con người làm việc bất minh trong bộ máy, nhầm đảm bảo lợi ích cao nhất mà xã hội cần được hưởng.
Song song đó là sự công khai hóa rộng rãi các hoạt động của nhà hành đạo.
Đây là điều kiện giúp nhà hành đạo không mắc sai lầm trước nhân dân, vì tất cả đã có mọi người giám sát và cùng chịu trách nhiệm.
Bằng ngược lại, nó sẽ biến “nghề lãnh đạo” từ chỗ cao quý trở thành nơi ẩn chứa nhiều “thâm cung bí sử”, mà nếu ai nghe qua cũng phải  kinh ngạc, khiếp sợ, … và tức giận …

Công khai, cởi mở, thân thiện, hòa đồng… thường xuyên với nhân dân đa dạng (không phải chỉ trong các buổi họp và chỉ với một số ít đối tượng chọn lọc), phải là thuộc tính hàng đầu của nghề hành đạo. Nó giúp  họ thuận lợi trong nhiệm vụ, vừa minh chứng được kỹ năng đạo đức trí tuệ ngang tầm trách nhiệm đang giữ.
Nói cách khác, “công khai thân thiện cởi mơ hòa đồng …” là một nguyên tắc hàng đầu của người hành đạo đúng nghĩa.
Phương thức hành đạo như trên rõ ràng chỉ có những người thật sự tài năng mới có thể hoàn thành.


B - TƯ DUY HÀNH ĐẠO

Mục đích của tư duy, bên cạnh nhu cầu ăn mặc ở là nhu cầu đạo đức.
Đạo đức là quan hệ, là chính trị.
Toàn dân sống có đạo đức, tức là toàn dân đang làm chính trị, dù muốn dù không.
Suy ra tư duy hành đạo là tư duy đạo đức.

Hành đạo sao cho tốt ?
Hành đạo (lãnh đạo) nôm na là dẫn đường mọi người đi (sống) đến đích (hạnh phúc) thành công.
Cái khó là xác định “mục đích sống đời người” là gì.
Đây là yếu tố quyết định cho nhiệm vụ lãnh đạo trở nên thuận lợi hay khó khăn. Chọn mục đích sai xã hội sẽ trở nên rối ren, chọn mục đích xã hội phát triển bình yên thuận lợi.

Theo HTNT, mục đích sống đời người là “hạnh phúc tại tâm”.
Trong tâm bao gồm thiện tâm (lương tâm A1) và ác tâm. Nhiệm vụ của nhà hành đạo là phải nhìn ra lương tâm A1 để định hướng cho xã hội.
HTNT là kết quả của quả trình tìm tòi và nhìn ra ấy. Và nó đã chứng minh rằng cái đúng cái chân lý đang nằm về phía nhân dân.
Tức là sự sống phải thuộc về mọi người chứ không thể thuộc về một thiểu số bất kỳ (chính quyền).
Nói cách khác sự sống chỉ tìm ra lẽ phải và chân lý, khi nhân dân phải là người lãnh đạo của chính họ, ngoài ra không ai khác có thể làm thay.
Vì vậy một xã hội lành mạnh là một xã hội mà mọi công dân đều được tạo điều kiện nắm bắt thông tin đa dạng và từ nhiều góc độ một cách hiệu quả, để cuối cùng họ có đủ điều kiện tự quyết định lấy tương lai sự sống của chính mình.



C - GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC

Tiên khởi của sự nghiệp làm người là trau dồi kỹ năng đạo đức. Có đạo đức con người mới không bị lạc đường trước cuộc sống đa chiều đa phương hướng.

Xã hội ngày nay khác nào một cỗ máy khổng lồ. Và nó cần có những người biết sử dụng thành thạo cỗ máy ấy.
Khi máy và con người ráp lại, mọi người thi nhau ra sức sản xuất hết công suất.
Nhưng … “phóng nhanh vượt ẩu” sẽ gây tai nạn.

Tuy cùng đứng chung trong một cỗ máy, nhưng xem ra mỗi người muốn tùy nghi sản xuất theo ý mình, không đồng lòng thống nhất theo một hiệu lệnh.
Như thế vấn đề đặt ra muôn thuở cho xã hội loài người, là phải “sản xuất có trật tự”.
Trật tự nào nhỉ ?
“Trật tự đạo đức” là chìa khóa của vấn đề.

Lịch sử đạo đức đã không làm tròn trọng trách của mình trước loài người, nên bao nhiêu tai nạn mới xảy ra.
Nếu trước chưa làm tốt, thì nên làm lại cho tốt vậy.
Muốn đạo đức làm tốt trách nhiệm thì một là mỗi cá nhân phải lo … “tu thân tề gia bình thiên hạ”. Hai là, chọn đạo đức cho tốt để đầu tư tu thân.
Một đạo đức tốt là có thể giúp cá nhân làm chủ sự buồn vui nội tâm, cũng là nhận rõ đâu là sự đúng sai trong cuộc sống, hay trong lý lẽ và hành động.

Phạm trù đạo đức có tiến kịp với thời đại hay không là tùy ở lý giải “thế nào là đạo đức tốt” này.
Đạo đức nào cũng đem đến con người sự chia rẽ về lẽ phải, hay mục đích sản xuất trong cỗ máy chung.
Riêng chỉ có ĐẠO ĐỨC LƯƠNG TÂM (A1) là giúp con người tìm thấy sự giống nhau như đúc, trong khái niệm về LẼ PHẢI.
Nó đồng nghĩa với con người phải chọn mục đích sống chính là “lương tâm A1”, cũng là để giúp cái tôi của mỗi cá nhân được trụ vững trên đôi chân của mình, do đời sống tinh thần phát triển trong sự bình tâm.
Nếu thiếu cái tôi sẽ như người xây nhà thiếu móng. Khi ấy nhà xây càng cao độ nguy hiểm càng lớn.
Cũng như sản xuất càng nhiều, kinh tế càng khủng hoảng, mức sống càng chênh lệch, mâu thuẩn con người càng lớn.

Ngoài ra lương tâm A1 kém sẽ trở thành người mất tự do trong nội tâm, do dễ bị lôi kéo bởi ngoại cảnh v.v…
Khi mọi người chấp nhận chọn cái tôi lương tâm A1 làm mục đích sống chính, thì lẽ phải của xã hội loài người không còn khác nhau về quan điểm nữa. Sự sống sẽ trở nên bình an.
Trên đây là con đường giáo dục đạo đức nên chọn.


D – ĐẠO ĐỨC VÀ THỰC TIỄN XÃ HỘI

Giáo dục đạo đức là sự truyền đạt từ lý thuyết đến thực hành, từ nhà trường đến thực tiễn xã hội.
Xưa nay sự nghiệp giáo dục đạo đức mới chịu trách nhiệm đến giai đoạn trường lớp và lý thuyết là hết. Còn thực tế ứng dụng ngoài xã hội được giao tất về cho trách nhiệm cá nhân.
Phương thức đào tạo như trên là thiếu khoa học, là không công bằng, là thiếu trách nhiệm, là khiến xã hội … tự sát.

Nếu có sự sống thật sự tốt đẹp, thì giáo dục phải kiêm nhiệm trách nhiệm toàn diện từ đầu đến cuối, từ trường lớp cho đến khi hòa nhập xã hội.
Chúng ta hãy nhìn các tôn giáo đã châm lo thế nào đối với con chiên của mình thì sẽ hiểu.
Như thế một nền giáo dục đạo đức đúng nghĩa, nó sẽ trở thành một thứ quyền lực của xã hội. Vì có khả năng chỉ đường tạo điều tốt tránh điều xấu cho xã hội thông qua cá nhân.
Và một nền giáo dục đạo đức đúng nghĩa chỉ có thể trở thành hiện thực, khi nó được phát triển trên cơ sở lý luận khoa học hiện đại, đủ khả năng lý giải mọi hiện tượng sự sống từ vi mô đến vĩ mô.

Tất yếu khoa học không đồng nghĩa với đáp án vô hạn, nhưng nó biết cách đưa ra lời giải hợp lý trong mọi tình huống cho dù đã, chưa, hay không thể tìm ra đáp án.
Vậy là nếu KHOA HỌC HÓA ĐẠO ĐỨC thành công, thì ngành giáo dục sẽ trở thành một phần của bộ máy quyền lực điều hành xã hội.

KHOA HỌC HÓA ĐẠO ĐỨC có nghĩa con người chấp nhận sự sống xã hội loài người vận động theo qui luật tự nhiên.
Qui luật tự nhiên là một QUYỀN LỰC KHÁCH QUAN mà xưa nay loại người chưa nhận thức. Vì chưa … nên QUYỀN LỰC CHỦ QUAN thay thế.
Suy ra đạo đức hóa thành bạo lực, để thành phi đạo đức.
Suy ra đạo đức mất vai trò quyền lực đối với xã hội.
Để cuối cùng các tôn giáo phải đảm nhận chức năng này, nhưng chỉ ở tư thế … cầu nguyện … van xin. Nhưng cho hay không tùy ở … bạo quyền.

Áp dụng ĐẠO ĐỨC KHOA HỌC (ĐĐKH) là cơ hội để nhân (đức) quyền thay thế bạo quyền vĩnh viễn.
ĐĐKH là ĐĐNT, là chìa khóa ĐƯA QUYỀN LỰC KHÁCH QUAN của qui luật tự nhiên vào đời sống con người và xã hội.

Nếu như có nghĩa con người khi còn trẻ cần được tìm hiểu:
- “Tự nhiên đã qui định thế nào đối với sự lựa chọn của mỗi cá nhân trước cuộc sống”.
Con người đã phải học các định luật của tự nhiên đối với vật chất từ các lớp học phổ thông.
Vậy nay cần học thêm các định luật của tự nhiên đối với vật chất – người để biết QUAN HỆ NGƯỜI cần phải tuân theo những qui luật gì.

Biết rằng con người sống và làm việc chủ yếu theo những cảm nhận vui buồn của bản thân. Từ các vui buồn ấy sinh ra lý trí, đến phiên lý trí điều khiển nhân cách và đạo đức.
Mà vui buồn là sản phẩm cảm xúc của tiềm thức (tâm).
Nhưng một phần của tiềm thức là do con người tạo ra, sau một hành trình khá dài của thời gian sống lao động học tập và vui chơi giải trí.
Xây dựng Đạo Đức Tốt cho con người là quá trình uốn nắn tâm, sự vui buồn của bản thân trong quá trình hình thành lâu dài này.
Vì thế cần phải làm sớm từ lúc tuổi trẻ, để nhân cách có cơ hội phát triển phù hợp với qui luật tự nhiên. Tức là tương lai sẽ mãi nằm trong tầm dự kiến và chủ động của con người.



E – LÝ TRÍ VÀ ĐẠO ĐỨC


Đặc điểm sinh tồn của loài người là lý trí (trí tuệ), không có lý trí không có loài người.
HTNT định nghĩa LÝ TRÍ là TINH THẦN (0), những tồn tại ngoài lý trí TẠM gọi là VẬT CHẤT.
Trong Lý Trí bao gồm ý thức (tâm B) và tiềm thức (tâm A).
Trong Tiềm Thức thì chia ra tâm A1 và tâm A2.

Biết rằng,
 Tâm A1 là lương tâm, là tình người, là SỰ HỢP TÌNH HỢP LÝ HỢP LÔ-GÍC. Ta cho mang tính tinh thần (1).
 Tâm A2 là trái lương tâm, phi nhân tính, là tình vật chất, thờ đồng tiền, yêu bạo lực, thích VÔ LÝ BẤT CÔNG. Ta cho mang tính vật chất (2).
Khi Lý Trí vận động thì Ý Thức bị điều khiển bởi Tâm A1 hay Tâm A2 , tùy sự chọn lựa hình thành nhân cách mỗi người (lúc trẻ, do ngẫu nhiên cộng với ý chí).

Chúng ta trở lại vấn đề.
Trường hợp 1:   Nếu con người chọn mục đích vật chất (A2) làm mục đích sống, thì Lý Trí sẽ mang tính vật chất (2). Tâm A1 bị suy yếu.
Trường hợp 2:   Nếu con người chọn mục đích tinh thần (A1) làm mục đích sống, thì Lý Trí sẽ mang tính tinh thần (1). Tâm A2 bị triệt tiêu hay bị sát nhập vào Tâm A1.

Cả hai trường hợp trên đều diễn biến trong não người, nên đều là TINH THẦN (0) – ký hiệu (0).
Trường hợp 1, ta có TINH THẦN (0) mang tính tiêu cực, chủ quan, ác, xấu, mất đạo đức (khoa học), sự sống trái tự nhiên, phát sinh quyền lực chủ quan, v.v…
Trường 2, ta có TINH THẦN (0) mang tính khách quan, thiện, tốt, có đạo đức (khoa học), sự sống hợp tự nhiên, triệt tiêu quyền lực chủ quan, phát triển quyền lực khách quan của tự nhiên, v.v…

Tuy nhiên trường hợp 1 đang là khuynh hướng ngã về của thời đại. Vì nó dễ, không phải qua rèn luyện trau dồi nhận thức phức tạp.
Lời giải của thời đại là phấn đấu chọn hướng mục đích sống như trường hợp 2, để sự sống thành hợp lý có qui cũ, mọi người được hưởng hạnh phúc.


F – ĐẠO ĐỨC VÀ QUI LUẬT TỰ NHIÊN

Thế nào là cách sống hòa nhập với qui luật tự nhiên ?
Theo tự nhiên, ta thấy trí tuệ con người được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản:
- Tâm A1 , ý chí, thói quen.
Theo lý thuyết đây phải là sơ đồ trí tuệ của “Mười A”.
(Chú thích: gọi A là tâm. Nếu ta chấm điểm A theo thang điểm 10, thì “Mười A” là người tốt nhất (thiện) và “Một A” là người xấu nhất (ác))


- Tâm A2 , ý chí, thói quen.
Là sơ đồ trí tuệ của “Một A”.
Con người sinh ra lớn lên tự nhiên đã có tâm A1 làm căn bản. Tuy nhiên cũng trong phát triển tự nhiên tâm A2 được phát sinh, nó cạnh tranh với tâm A1 quyết định nhân cách con người.
Đa phần nếu để tự nhiên, tâm A2 sẽ chiếm ưu thế hơn tâm A1.
Nhưng theo nguyên lý sinh sinh tồn thì sự sống phải thuộc về tâm A1.
Muốn vậy bước đầu con người phải phát hiện ra tâm A1. Kế đến  tập trung điều tiết ý chí nhầm chỉnh dần thói quen sống cho phù hợp.
Biết rằng tâm A1 thuộc bản năng gốc có trước, nên trước sau nó sẽ là nhân tố quyết định cuối cùng. Song nếu chỉ nhìn ở góc độ hẹp, thời gian ngắn lịch sử, thì quan điểm tâm A2 đang chiếm ưu thế.

Như thế sự sống là quá trình con người phấn đấu tiến từ “Một A” lên “Mười A”.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, con người thích phấn đấu đạt “Mười A từng phần” hơn là “Mười A” tuyệt đối.
“Mười A từng phần” là người sống tốt, sống có lương tâm trong một giới hạn môi trường nhận thức nào đó mà họ đã quen.
Ví dụ: môi trường nhận thức nghề nghiệp, môi trường nhận thức trong phạm vi không gian địa lý quen thuộc (làng mạc, lối xóm, v.v…).

Nhưng nếu nhiều “Mười A từng phần” hợp lại sẽ gần tương đương với một “Mười A” tuyệt đối, hoặc sẽ bằng nếu có đủ thời gian.
Song có thể đến một thời điểm, con người sẽ tìm ra một “Mười A” tuyệt đối, để rút ngắn thời gian mò mẫm nhiều tốn kém.

Nhiệm vụ của “Mười A” là mở đường triệt tiêu được tâm A2 để tâm A1 có cơ hội phát triển thuận lợi.
Bản chất của tâm A2 chủ yếu là do ý chí và thói quen sai lầm tạo nên. Nay ta sửa lại hai yếu tố này, thì tâm A2 sẽ bị triệt tiêu.
Ta sửa nó bằng nhiều cách. Cách đơn giản nhất là đi tìm nguyên nhân sai lầm trong từng sự việc, và khắc phục nó.

Như thế mọi sai lầm của con người nhìn chung đều có lý do. Kể cả trường hợp quá khó và phức tạp, nhưng nếu mọi người cùng hợp sức chịu khó quan sát kỹ thì cuối cùng cũng tìm thấy nguyên nhân gốc của nó.
Kết quả thành công như trên không vì con người tài giỏi, mà chính là vì tạo hóa đã tạo ra loài người có khả năng như thế.
Đó là qui luật tự nhiên của sự sống, là đạo đức của lý trí con người.

Khi đã tìm ra lý do sai lầm rồi thì ta nghĩ cách lý giải khắc phục nó, và loại nó ra khỏi quá trình tư duy lao động tiếp theo.
Từ một vài kết quả ban đầu dần dần ta suy rộng ra đến toàn diện. Để cuối cùng (B) loại bỏ được tâm A2 theo thời gian, trong khi tâm A1  ngày càng lớn mạnh.
Vậy (B) là vừa là nguyên nhân, vừa là bộ lọc của não nếu ta biết vận dụng nó một cách khôn khéo (nhìn vào tâm A1 để khai thác).

Quá trình loại bỏ tâm A2  thế nào được mô tả một phần qua HTNT, mà … “Mười A” muốn thuật lại làm bằng.
Quá trình (B) làm nhiệm vụ lọc tư duy trí tuệ, cũng là quá trình kiến tạo nên … một “Mười A”.
Mọi nghề nghiệp đều tạo ra sản phẩm phục vụ xã hội, đây cũng là cách để mỗi người tự giới thiệu nhân cách mình với đời. Và mỗi nhân cách  như thế cũng đại diện cho tính chủ quan của một cá nhân, một kiểu thói quen hình thành tự nhiên sau quá trình sống theo đuổi mục đích đời người.

Và cũng do ngẫu nhiên các sản phẩm nhân cách như trên nhìn chung đều mang nặng tính vật chất, nên tính chủ quan vật chất là loại cá tính phổ biến hiện nay trên thế giới.
Nhưng theo HTNT, tính chủ quan tinh thần mới là nhu cầu đúng nghĩa của sự sống.
Do vậy xã hội có hai loại sản phẩm phục vụ sự sống, một thuộc về các sản phẩm có thuộc tính vật chất (tinh thần thứ yếu) và hai là các sản phẩm có thuộc tính tinh thần (vật chất thứ yếu).
Trong đó các sản phẩm tinh thần được qui dịch thành TƯ DUY KHÁCH QUAN (tính chủ quan tinh thần), có nhiệm vụ dẫn lối cho TƯ DUY CHỦ QUAN (tính chủ quan vật chất) trong phát triển sơ đồ trí tuệ  cá nhân và xã hội.

Chủ quan tinh thần trở thành tư duy khách quan vì nó là sản phẩm của tâm A1 , đại diện của qui luật tự nhiên trong mỗi con người, là chân lý gốc của sự sống.
Vì thế ta gọi chủ quan của tự nhiên đồng nghĩa với khách quan của con người.
Vậy nhiệm vụ của “Mười A” là tạo ra các sản phẩm Tư Duy Khách Quan nhầm phục vụ sự sống.

Muốn vậy, sơ đồ trí tuệ của “Mười A” phải đạt đến mục đích sống TRỐNG KHÔNG sau khi đã nạp “đầy đủ” hay “hoàn thiện” cơ bản theo yêu cầu nhận thức của tâm A1.
Thay vì các sơ đồ trí tuệ khác có mục đích “vì một giá trị đến một giá trị vật chất cụ thể”, thì với “Mười A” là “trống không” sau khi đã thỏa “vì mọi giá trị, kể cả vật chất”, sao cho mục đích chuyển tâm thành công.
Trên đây là phương thức để “Mười A” trở thành như một trọng tài khách quan trước mọi quan điểm phải trái, đúng sai, thiện ác, v.v...

Ý chí (nguyện vọng) của “Mười A” trở nên “trống không” như trên, là xét theo góc độ của nhu cầu về đáp án chân lý sự sống. Trong khi nhu cầu trong cuộc sống thực tế đời thường, nó vẫn xảy ra như mọi cuộc sống tự nhiên đòi hỏi.
Ý nghĩa của sự “trống không” trên được diễn đạt thành cảm giác “bình an cơ bản” trong tâm hồn giữa cuộc sống thực tế vạn biến.

Cộng trên và dưới lại chúng ta có một “Mười A” chuyên sản xuất ra các tư duy khách quan (không tải về ý chí) và những cảm giác bình yên nơi tâm hồn.
 “Không tải” là tại (B) và “cảm xúc bình yên” là tại A1 , cả hai kết hợp thành cập đôi biện chứng ổn định trong sơ đồ trí tuệ của “Mười A” đến cuối đời.
Từ “không tải” “Mười A” mới bổ sung vào “mục đích sống vì mọi người” do quán tính vận động của sơ đồ trí tuệ, hơn là vì mưu cầu hạnh phúc cá nhân (đích “không tải” đã đạt).

Qua trình nội dung trình bày trên đã giới thiệu với chúng ta phần nào về “quan điểm khách quan” và “hạnh phúc đời người”.
Nó cho thấy, mục đích lớn nhất của đời người sau ăn mặc ở, là đạt quan điểm sống khách quan, tiền đề của năng lực sống hạnh phúc cơ bản nơi tâm hồn.
Chúng ta tin rằng, cuối cùng mọi người sẽ đạt đến đích như trên khi điều kiện khách quan đã hội đủ.


(Ghi chú: khi (B) trống không cũng là lúc các lực ngoại cảnh tác động mạnh lên (B) để chiếm lĩnh khoảng trống của ý chí. Vì vậy lúc này (B) tiếp tục cho hút về vô thức trống không để tìm sự bình yên, phần còn lại dành cho cuộc sống đa dạng với sơ đồ đáp án đã thạo.
Đây là lúc khái niệm về tâm A3 được hình thành – sau A0 (bản năng gốc), A1  (bản năng gốc sau phân chia) và A2 (bản năng phát sinh).
Tâm A3 cũng như tâm A2, nó được tách ra từ tâm A1 , khi hoàn cảnh trí tuệ đã thay đổi. Nhiệm vụ của nó là tổng hợp thành công các tâm A0, A1, và A2 về một mối thống nhất.
Vì thế tâm A3 trở thành “tâm không màu”, tức tâm trống không của bình yên và sự tự do vô bờ.
Tâm A3 là sự kết hợp thành công giữa tự nhiên và nhân tạo, giữa chủ quan tạo hóa và chủ quan loài người, giữa vô thức A1 và ý thức (B), giữa tinh thần và vật chất, giữa LÝ THUYẾT VÀ THỰC TẾ, giữa hư ão và thực tại, giữa vô hình và hữu hình …
Đây là tâm của khách quan tự chủ ổn định trước thế giới sự sống phức tạp.
Hay đây là nơi đào thoát hiệu quả khỏi vòng lẩn quẩn của chu kỳ tư duy sai lầm chủ quan mà lịch sử để lại.
Sự sống là do tâm điều khiển.
Tâm sai sẽ cho ra lý lẽ, hành động sai. Và ngược lại.
Tâm A3 có ưu thế cho con người CẢM GIÁC CHÂN LÝ trong sự sống. Nó cũng là cảm giác hạnh phúc tinh thần cao nhất mà con người ra sức phấn đấu suốt đời.
Nó là đích đến cuối cùng của mọi sơ đồ trí tuệ, khi mục đích hạnh phúc vật chất đã thỏa.)


Kết lại chúng ta nhận thấy, giữa “Một A” và ”Mười A” là sự chênh lệch cơ bản về tâm thiện. Một bên là “Một A” có tính nghịch với tự nhiên,  ngược lại  “Mười A” là thuận với tự nhiên.
Giữa “Một A” và ”Mười A”, ai sẽ thắng ai ?
Vấn đề sẽ tìm thấy lời giải ngay từ lý lẽ lý thuyết, thay vì phải chờ hậu quả xảy ra mới rút kinh nghiệm, với điều kiện ĐĐNT được CHỌN LÀM QUI TẮC SỐNG MỚI  …




G – BỘ MÁY TRUNG QUYỀN


“Mười A” (hoặc kém một chút), A, AA (xem “Nguyên Lý Giáo Dục” phần đọc thêm) là những người chọn việc “hợp lý hóa các lý giải đa chiều về sự sống” (“lý giải sự sống”) làm kế sinh nhai và phục vụ xã hội.
Tuy nhiên trong các nghề, nghề “lý giải sự sống” có ý nghĩa định hướng tổng hợp nhất đối với sự sống con người. Nó có khả năng chỉ ra con đường tương lai nên hướng đến.
Đây là loại nghề … “đứng trên thiên hạ” để chỉ đường, nên có thể gọi là nghề của “lãnh đạo” cũng không sai. Nó ít nhiều được quý trọng hơn các nghề khác, nhất là tính đạo đức chuẩn mực gương mẫu khách quan phục vụ mọi người là những đặc điểm nổi bật của người hành nghề này.

Tất yếu ai cũng được khuyến khích phấn đấu để trở thành các AA, nhưng không vì thế mà phải đạt bằng mọi giá. Vì sự sống cần đa ngành nghề trong một xã hội. Hơn nữa nghề nghiệp cũng phụ thuộc vào khả năng.
Không AA thì AB hay “Mười A từng phần”, cũng là một lựa chọn hợp lý.
AA là nghề phục vụ cho nhu cầu bản chất trí tuệ (đời sống tinh thần), trong khi các nghề khác đa phần phục vụ cho nhu cầu đời sống vật chất.
Cả hai loại nghề đều cần cho sự sống như nhau. Song có thể lúc này chỗ này, nghề này có vẻ giá trị hơn nghề kia.

Nếu nhìn vấn đề theo một góc độ khác, ta có thể luận giải như sau:
Mỗi loại nghề có một chân lý gốc tương ứng, làm chuẩn mực trong điều khiển hành động.
Nếu xét góc độ “trí tuệ”, thì chân lý gốc tại TÂM là bao trùm lên mọi sự sống.
Nhưng nếu xét góc độ sự sống thực tế toàn diện, thì chân lý gốc tại CƠ THỂ  có lúc có tiếng nói độc lập và quyết định của riêng nó.
Nếu một bên nhầm đáp ứng bản năng phát triển của trí tuệ, thì bên còn lại cũng nhầm đáp ứng bản năng phát triển của cơ thể. Cái nào cũng có tính quyết định đối với sự sống.
Một bên vì sự tồn tại của cơ thể - vật chất khỏe mạnh, một bên vì sự  phát triển của trí tuệ - tinh thần đúng đắn.
Một bên đại diện cho “PHƯƠNG TIỆN VẬN ĐỘNG”, một bên đại diện cho “PHƯƠNG HƯỚNG VẬN ĐỘNG”.
Cả hai nhu cầu đều thiết yếu, nhưng tùy lúc mà chân lý gốc của phía nào quyết định hơn phía nào.
Nhưng khi xã hội đã phát triển, thì vai trò chân lý gốc của tâm sẽ dần trở nên sáng tỏ và chiếm ưu thế nhiều hơn.

Sự sống không có vật thể thì không con người.
Con người mà thiếu trí tuệ cũng là vô nghĩa.
Thường người kém (xã hội chưa phát triển nhận thức), người ta thiên về vật thể làm mục đích.
Nhưng nếu là người tài (xã hội đã phát triển nhận thức), người ta thiên về trí tuệ  làm mục đích.

Qua nội dung trình bày trên, chúng ta thấy rõ hơn về vai trò vị trí của mỗi loại nghề trong cuộc sống và xã hội. Tùy mỗi người rút ra cho mình một kết luận.


Sự sống càng phát triển thì nhu cầu lẽ phải- chân lý càng cao.
Nhiệm vụ “ban phát” các lẽ phải- chân lý về nguyện tắc phải thuộc về bộ máy chính quyền, bên cạnh có sự hỗ trợ của các tổ chức đảng phái, trung tâm khoa học, v.v…
Nhưng tiếc thay trong thực tế người ta dùng bộ máy chính quyền để áp đặt các giá trị phi lẽ phải- chân lý. Thế là sai chức năng.
Nguyên nhân đơn giản vì xã hội còn thiếu … các “Mười A” làm công cụ dẫn đường.

Vì lợi ích nhân dân, vì lợi ích xã hội, vì lợi ích mọi người, phải chăng chúng ta nên thay khái niệm “Bộ Máy Chính Quyền” thành “BỘ MÁY TRUNG QUYỀN”.
Để nhắc nhỡ nhau rằng, quyền lực chính luôn thuộc về toàn dân, còn “Bộ Máy” do toàn dân cử ra chỉ để thực hiện theo mệnh lệnh.
Vì thế không lý gì “Bộ Máy” lại có quyền áp đặt với “Nhân Dân” bao giờ.

“Bộ Máy Trung Quyền” là một tổ chức TRUNG GIAN, có trách nhiệm chuyển từ ý chí toàn dân sang thành những hành động việc làm cụ thế đối với xã hội.
Tất cả xảy ra dưới sự giám sát của hệ thống DIỄN ĐÀN NHÂN DÂN, để mỗi khi phát sinh mọi bất hợp lý thì sẽ được phản ánh và được điều chỉnh kịp thời.
Nếu thực hiện đúng theo qui trình như trên, thì xã hội đâu còn mâu thuẩn để áp đặt.

Điều kiện thực hiện thành công qui trình trên, đơn giản mọi người  dùng lương tâm A1 làm Quyền Lực Trung Tâm để điều hành lẫn nhau trong công bằng bình đẳng công khai và hợp lý.
Lẽ phải- chân lý của ĐĐNT sẽ là những vị trọng tài công minh sáng suốt, giúp mọi người luôn tìm được lối ra trong bình yên và đoàn kết, trước những mâu thuẩn từ đơn giản đến phức tạp, trong quá trình điều khiển “Bộ Máy Trung Quyền” theo mệnh lệnh./.
                                                                               

                                                     HOÀNG VĨNH SƯU (LCH)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét