Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

5 - NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC



Loài người.
Sự sống.
Ngôn ngữ.
Giáo dục.
Kỹ năng sống.

Con người sinh ra lớn lên cần được giáo dục để trưởng thành. Giáo dục mang lại kiến thức, kỹ năng sống, kỹ năng ổn định và phát triển xã hội.
Giáo dục lúc đầu do bản năng phản xạ tự nhiên, nhưng càng về sau ý thức giáo dục trở thành một nhu cầu không thể thiếu của cuộc sống.
Giáo dục đem đến sự thành công nhưng cũng có thể mang đến sự thất bại, nếu giáo dục sai.
Thất bại rút kinh nghiệm, nhưng đến nay giáo dục vẫn còn đó những thất bại nan giải.
Tại sao giáo dục thất bại ?
Tại nhiều nguyên nhân …
Và cần có thời gian …

Ngoài xã hội người giàu giàu thêm, người nghèo nghèo thêm … người ta bảo tại giáo dục, người nói do số trời …
Tại ai  … cũngđược, miễn sao giải được bài toán giáo dục.
Có người chọn sự cầu nguyện, người khác thì ra sức làm việc, v.v …
Song nhanh và chắc ăn nhất có lẽ chỉ có con đường giáo dục.

Tuy cùng là giáo dục nhưng cũng có lắm ngã đường để chọn lựa. Chọn theo con đường KHOA HỌC phải chăng là hợp lý nhất, vì nó cho con người nhiều sự chủ động hơn so với các chọn lựa khác.
Tuy nhiên khoa học mới là phương tiện, vấn đề phải có con người cụ thể mới giúp nó vận hành hoàn hão.
Con người ấy là ai ?
Ai cũng được, nhưng trước mắt “Người Chỉ Dẫn” (NCD - xem  “Cách Sống Mới”) có thể có nhiều lợi thế hơn. Vì NCD có “Học Thuyết Nhân Tâm” (HTNT) dẫn đường, một học thuyết minh chứng về sự sống và con người dưới góc độ khoa học toàn diện.


I – KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH GIÁO DỤC:
Muốn làm ra đồ vật người ta phải “sản xuất”, muốn đào tạo con người cần có “giáo dục”.
Giáo dục mà tạo ra người xấu, không gọi là giáo dục.


II – VẤN ĐỀ GIÁO DỤC.

Mục đích của giáo dục là đào tạo con người trở thành người tốt, người hữu ích cho cá nhân và cho xã hội.
Song giáo dục cũng phải dựa trên phương pháp, phương thức, đường hướng, mục đích hợp lý đúng đắn, nếu không kết quả sẽ khác với mong đợi.
Giáo dục thành công con người sống bình an hạnh phúc, xã hội phát triển ổn định. Giáo dục thất bại, con người mâu thuẩn xung đột lẫn nhau, xã hội phát triển bất ổn.
Có thể nói hòa bình hạnh phúc thịnh vượng trên thế giới nói chung, hết chín phần là do giáo dục quyết định (phần còn lại thuộc về thiên tai, dịch bệnh, tai nạn, số trời, v.v …) …
  

A - GIÁO DỤC TỰ PHÁT
Giáo dục như đang có có thể tạm gọi là TỰ PHÁT. Vì nó chưa đáp ứng sự sống một cách toàn diện.
Ngày xưa để sống con người phải học săn bắn, học hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi, v.v… , cũng như kỹ năng đối phó kẻ thù, kỹ năng phân biệt cái ác, kỹ năng chống giặc xâm lược, kỹ năng làm cung tên dao kiếm, v.v…
Ngày nay để sống con người cần được đào tạo rất đa dạng, đặc biệt là các kiến thức khoa học.
Thế giới ngày nay đã tiến lên một tầm cao thành tích so với xưa là nhờ có giáo dục.
Tuy nhiên mục đích lớn nhất của giáo dục là đào tạo con người trở thành những công dân tốt, biết sống hạnh phúc cho mình và cho mọi người, thì đến nay giáo dục còn thất bại.

Vậy làm sao để khắc phục khuyết điểm này.
Phải chăng đây là một yêu cầu quá lớn lao đối với sức người, với khả năng của thời đại.
Một con sâu làm rầu nồi canh, một chiếc thau lủng là chiếc thau bỏ đi.
Giáo dục mà còn để sót một người xấu, một kẻ ác, là xã hội còn ăn không ngon ngủ không yên.
Một ác sẽ sinh nhiều ác, nhiều cái ác sẽ thành đại ác, đại xấu. Nhiều đại ác đại xấu gom lại, thế giới có một siêu ác xuyên quốc gia. Lúc bấy giờ đại chiến thế giới nổ ra là điều khó tránh khỏi.
Như thế chiến tranh suy cho cùng cũng do giáo dục thất bại mà ra.
Hết chiến tranh đến thời bình, xuất hiện khủng hoảng kinh tế, niềm tin hao hụt, đạo đức suy yếu, quan hệ bất an, hạnh phúc đau khổ có thể hoán đổi trong phút giây, v.v… tất cả có thể tính cho giáo dục.

Tóm lại trăm sự trên thế gian đều có thể qui cho giáo dục trách nhiệm, ngoại trừ một phần nhỏ thuộc về nguyên nhân tự nhiên.
Phải chăng nếu giáo dục hiệu quả hơn, loài người sẽ nhất định vượt qua được mọi thử thách phức tạp của cuộc sống.
Nếu thế giáo dục đang giữ một sứ mệnh vô cùng to lớn đối với sự sống loài người. Các nhà nghiên cứu, các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý, v.v… dù tài năng thế nào cũng phải dựa trên giáo dục để phát huy.
Tuy nhiên vị thế giáo dục ngày nay phải chăng còn cách rất xa với tiềm năng của mình.
Ví dụ: ngày nay để giáo dục một đứa trẻ, người ta phải làm gì, chuẩn bị bao nhiêu nội dung? Câu hỏi này đến nay vẫn chưa có lời giải rõ ràng và thống nhất.
Mỗi nơi mỗi người dạy trẻ theo cách của riêng của mình. Đúng hay sai không ai kiểm tra, nó tùy thuộc hên xui, nếu may thì trẻ được hưởng (nên người), xui thì trẻ bị thiệt.
Khi xã hội xảy ra tội phạm, người ta không truy cứu trách nhiệm của các trung tâm giáo dục, cũng như các trung tâm giáo dục cũng không tự giác chịu trách nhiệm … , người ta chỉ chú trọng kẻ gây tội. Phải chăng như thế là bất công, là chưa nhìn vấn đề từ gốc.
Xã hội như thế là yếu, giáo dục như thế là chưa tròn. Nói chung tất cả còn “tự phát”.

Hay tại giáo dục bị “quyền lực” (chính quyền) chi phối …
Quyền lực và giáo dục, là hai phạm trù có mối quan hệ biến chứng thống nhất, cả hai là sản phẩm của nhau.
Thông thường quyền lực có tính quyết định đối với  giáo dục.
Nhưng nếu giáo dục được đặt trên cơ sở khoa học toàn diện, thì nó có thể chi phối quyền lực. Vì khoa học chỉ dựa trên qui luật tự nhiên, một quyền lực tối thượng.
Vì thế giữa chúng có thể có hoặc không có sự đối nghịch nhau, tùy theo mô hình xã hội và tùy theo trình độ phát triển của giáo dục.
Lý tưởng nhất là giáo dục khoa học và quyền lực thuộc về nhân dân , thì cả hai sẽ luôn song hành trên một quỹ đạo chung là qui luật tự nhiên.
Bản chất của giáo dục tự phát là không đồng nhất, nên kết quả đào tạo (nhân cách) thất thường đa dạng đa chiều, nên nó là mầm móng của mâu thuẩn, bất ổn, bất công, v.v… trong xã hội.

B - GIÁO DỤC CHUẨN MỰC.
Giáo dục chuẩn mực là giáo dục mang tính khoa học toàn diện, và đủ khả năng đáp ứng mọi yêu cầu đặt ra của xã hội, trên góc độ đào tạo, hướng dẫn.
Cách giáo dục phổ biến là chọn người làm mẫu (gương) để những người khác noi theo.
Cách này chỉ đạt hiệu quả tương đối, vì khả năng con người khác nhau nên không phải ai cũng có thể sao chép được ai.
Vì mỗi cá nhân là một thế giới riêng không ai giống ai, nên giáo dục cũng giống như trị bệnh, tùy đối tượng mà cho liều lượng học tập thích hợp.
Như thế mọi cá nhân mới có điều kiện phát huy hiệu quả, trên những lợi thế của mình.
Đi tìm sự chuẩn mực trong giáo dục, trước hết là đi tìm sự đúng đắn trong phương hướng giáo dục.
Phương hướng giáo dục tốt nhất là mọi người cùng tham gia làm giáo dục.
Con đường giáo dục là con đường ghồ ghề và dài vô tận, vì thế nó cần được đại chúng hóa để có đủ năng lực hoàn thành chức năng lớn lao. Muốn đại chúng hóa giáo dục thành công, đòi hỏi phải có học thuyết minh chứng hợp lý vạch đường.
Trước mắt chúng ta có học HTNT, là một mô hình về xã hội hóa giáo dục.




III – NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC.


    1 -  NGƯỜI TỐT.
  
Mục đích của giáo dục là đào tạo người tốt.
Thế nào là người tốt.
Xã hội loài người đến này còn bất ổn, suy cho cùng là do nó bao gồm đa nhân cách nên luôn phát sinh mâu thuẩn trong quan điểm sống.
Ai cũng có quyền cho mình là tốt là đúng đắn, không ai tự cho mình là xấu là sai. Vì thế bước ra xã hội ai cũng có thể bị mắc lầm. Kể cả người đã bị kêu án luật rồi cũng có thể kêu bị oan sai, nên chưa chắc họ là xấu thật.
Hoặc tùy theo địa phương, tùy theo hệ tư tưởng, chế độ, v.v…  mà hình thành quan điểm đúng- sai khác nhau. Hoặc đối với cá nhân nếu theo chủ cơ hội (ba phải) thì mọi sự đều có thể đổi thay trắng đen nếu thấy có lợi.
Vì thế vấn đề ai xấu ai tốt, ai sai ai đúng, ai ác ai thiện, v.v… xưa nay còn rối rấm chưa minh bạch thống nhất.

- Tốt, đồng nghĩa với đúng, tích cực và thiện.
- Xấu, đồng nghĩa với sai, tiêu cực và ác.
Khi đánh giá về nhân cách, điều quan trọng là người đánh giá đứng trên quan điểm nào (hệ tư tưởng nào).
Thế giới có rất nhiều quan điểm sống, mỗi quan điểm có thể đưa ra một nhận xét riêng về nhân cách.
Giữa các quan điểm làm sao biết quan điểm đúng hơn. Nên trong thực tế người ta không dễ  phủ quyết một quản điểm chỉ đơn giản bằng những chứng minh lý lẽ.
Hay có người cho rằng quan điểm là quyền tự do (sở thích) cá nhân, nên miễn bàn đúng sai, nếu họ chưa có những sai phạm cụ thể.

Thật ra quan điểm không thể tùy sở thích lựa chọn như nhiều người nghĩ, mà nó đã được qui định bởi tự nhiên. Nếu con người không chọn như qui định tự nhiên, hậu quả sẽ đến không phải ngay tức thời mà sẽ xảy ra trong tương lai gần hay xa.
Theo HTNT, sự sống chỉ có một quan điểm cơ bản đúng nhất mà con người nên chọn.
Một là vì nó do tự nhiên qui định, hai là nó giúp con người trở nên đúng đắn nhất hạnh phúc nhất, và ba là nếu mọi người cùng chọn quan điểm đúng nhất thì xã hội sẽ không còn xung đột mâu thuẩn vì khác biệt quan điểm.

Trong vấn đề quan điểm, chúng ta  cần chú ý, mỗi người có thể tùy hoàn cảnh mà thay đổi  quan điểm sống, thay đổi mục đích sống để thích nghi. Tuy nhiên thực tế những thay đổi ấy thường chỉ là phụ, trong quan điểm sống chính không bao giờ thay đổi, vì không thể.
Như thế giữa quan điểm phụ và quan điểm chính có thể khác nhau nhất thời, nhưng quan điểm phụ chỉ là tạm thời nó chưa là đại diện của nhân cách. Chỉ có quan điểm sống chính mới là đại diện đúng nghĩa.
Quan điểm sống chính, do tự nhiên, ẩn rất sâu trong tiềm thức (tâm) con người. Nhiều khi bản thân cá nhân của nhiều người không thể nhận thức hết về mục đích và quan điểm sống chính của mình là gì, chỉ thấy những quan điểm phụ biểu hiện hàng ngày.
(Chú thích: con người thường ngộ nhận quan điểm sống chính là do ý chí quyết định, nhưng thực tế ý chí chỉ quyết định đối với quan điểm phụ, còn quan điểm chính đại diện cho nhân cách cá nhân là do tâm A1 hoặc A2 quyết định. – xem “Cách Sống Mới”.)

Vấn đề đặt ra là làm sao thay đổi quan điểm sống chính thành tối ưu và đồng nhất cho tất cả mọi người trong xã hội, có như thế xã hội mới phát triển ổn định lâu bền.
Khi quan điểm sống chính của mọi người đều giống nhau theo nghĩa tích cực tối ưu, thì mọi người sẽ tự nhiên cảm thông và cùng nhau tiến về tương lai hạnh phúc tốt đẹp.
Để tạo sự hợp nhất như trên thành công, sự sống chỉ cần tìm ra quan điểm sống tối ưu là tự khắc mọi người hướng về đây để thay đổi.
Và HTNT trước mắt sẽ cung cấp quan điểm sống tối ưu trên để mọi người tham khảo.

Theo quan điểm HTNT, người tốt là người chọn quan điểm sống chính là lương tâm A1.
Đặt điểm của lương tâm A1 (tâm) là ai cũng có giống nhau từ nội dung đến cơ chế vận hành. Nên khi đồng ý chọn nó làm mục đích sống chính, thì nhất định quan điểm sống chính của mọi người sẽ có cơ hội tìm thấy sự tương đồng trong lối sống tích cực.
Lý do để mọi người chọn A1 làm mục đích sống chính đời người, là vì nó đem lại giá trị hạnh phúc trọn vẹn cao nhất hơn bất kỳ hướng chọn nào khác (theo minh chứng của học thuyết Nhân Tâm).
(chú thích: nếu có một hướng chọn nào khác tốt hơn, nếu phân tích kỹ, thì nó sẽ đều trùng với mục đích tâm  A1, nếu có khác chỉ là cách hiểu … ngộ nhận).

Đề chọn sống theo hướng tâm A1, mỗi người chỉ cần chấp nhận và hướng về nó là đủ. Sau nếu có thời gian sẽ tập trung thay đổi nhiều hơn dựa trên các khác biệt cần chỉnh sửa (xem “Cách Sống Mới”).
Như thế để là người tốt vấn đề cơ bản là thay đổi cách sống (định hướng lại mục đích sống). Đây là vấn đề vừa dễ vừa khó vì ai cũng có thể hoàn thành, nhưng muốn mở rộng khả thì có thể đến suốt đời .
Như thế lời giải về người tốt xem như đã có, quan điểm sống chuẩn đã được xác định.


    2 – ĐẶC ĐIỂM GIÁO DỤC.
  
Giáo dục, theo HTNT, trước hết và căn bản là giúp con người xây dựng quan điểm sống đúng đắn.

Hiện nay trên thế giới đang có các quan điểm nổi bậc như là :
a-    Quan điểm sống theo mệnh lệnh do sợ hãi - (do “mô hình độc đoán – quyền lực tập trung” đào tạo). Ví dụ: Phong kiến, Hít le, Mác-Lê.
b-    Quan điểm sống tự do miễn không trái luật (do “mô hình tự do cá nhân – quyền lực kiểm tra chéo tam quyền phân lập” đào tạo). Ví dụ: CN tư bản.
c-    Quan điểm giáo điều, giác ngộ và tự nguyện sống theo niềm tin tuyệt đối vào “đấng tối cao” (do “mô hình tín ngưỡng – quyền lực dựa trên sự giác ngộ niềm tin” đào tạo). Ví dụ: các tôn giáo.
Theo quan điểm a, mục đích giáo dục là đào tạo con người học cách sống theo mệnh lệnh.
Theo quan điểm b, mục đích giáo dục là đào tạo con người học cách sống mở rộng quyền tự do cá nhân.
Theo quan điểm c, mục đích giáo dục là đào tạo con người học cách sống tự nguyện tự giác vì niềm tin.
Tất cả các quan điểm trên có thể gọi chung, ít nhiều cũng vì mục đích hạnh phúc con người. Song không mô hình nào có thể thích hợp cho tất cả loài người.

Theo HTNT, mục đích giáo dục là đào tạo con người học cách sống theo tâm A1, là có thể thích ứng cho tất cả mọi người.
Tức là con người khi nghĩ hay làm gì đều phải dựa trên những chứng minh hợp tình hợp lý, có lôgíc, nhằm đạt hiệu quả trong công việc, và sự đoàn kết giữa mọi người, v.v…  trên cơ sở kim chỉ nam của tâm A1.
Khi vấn đề cảm thấy chưa ổn, mọi người đều có quyền đưa nó ra công khai để toàn xã hội tham gia góp ý tranh luận hoàn thiện.
Trong các quan điểm giáo dục trên, chỉ có quan điểm của HTNT là chú trọng công khai tranh luận toàn xã hội làm, làm phương hướng phát triển sự sống, trên nguyên tắc phát huy tối đa tâm A1.
Vì theo chứng minh, chỉ bằng sự tranh luận công khai toàn diện đến tận cùng và khoa học, thì tâm A1 trong mỗi người sẽ được phát huy, nhân cách phát triển đúng đắn, dẫn đến khả năng đoàn kết và hợp nhất giữa mọi người từ trong tư duy đến hành động.
Kết quả trên đạt được vì bản chất của tư duy A1 là mang tính khoa học tự nhiên.

Về quyền lực, trong HTNT, nó chia hợp lý cho mọi người trong xã hội THÔNG QUA HỆ THỐNG DIỄN ĐÀN NHÂN DÂN. Và nó được tập hợp lại khi các quan điểm sống ĐƯỢC ĐÚC KẾT THÀNH MỘT KẾT LUẬN THỐNG NHẤT, được gọi là lẽ phải- chân lý (LPCL).
Kế mới giao cho những người được xã hội thuê, gọi là “chính quyền” nhầm thực thi các mệnh lệnh được đúc kết từ các DĐND như trên – (xem “Ý Thức”).
Về sự sống, con người được tự do phát triển tất cả những gì khoa học chứng minh là nó có ích và hợp lý cho quyền được sống hạnh phúc của mỗi đời người nói riêng, của toàn xã hội nói chung.
Trên đây là một số nội dung cơ bản được đề xuất nhầm đổi mới mục tiêu đào tạo của giáo dục.


3 – KHOẢNG CÁCH GIÁO DỤC

Giáo dục là sự truyền đạt những kinh nghiệm về kiến thức, về kỹ năng sống, về niềm tin, v.v… , gọi chung là những kiến thức có ích cho sự sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Kiến thức được truyền đạt, song hiệu quả tiếp thu là tùy khả năng người học.
Thực tế cho thấy, năng lực trí tuệ mỗi người mỗi khác, người thông minh, người kém. Có người năng khiếu trong lĩnh vực này nhưng ở lĩnh vực khác lại kém, hoặc không thích, v.v…
Trong giáo dục rất cần lưu ý sự khác biệt này, vì nếu không sẽ dễ ngộ nhận và qui lỗi cho người học (lười) hoặc qui cho nội dung đào tạo.
Giáo dục đúng nghĩa là không ép (nhồi sọ), nó rất cần sự tự nguyện tự giác (thích thú) của người học, chỉ như thế kết quả đạt mới cao toàn diện và đi sâu vào tâm.
Bệnh chạy theo thành tích, theo chỉ tiêu, bệnh hám lợi, hám danh, v.v… từ cả hai phía (người dạy và người học), đều dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
Muốn dạy và học tốt, rõ ràng người dạy và người học đều phải lấy sự trung thực với lương tâm lên hàng đầu. Kế mới tính đến ý chí nội dung và kết quả học tập.
Về phía người dạy thì nhất định phải là người có thật tâm và thật tài, thì mới có thể làm giáo dục chuyên nghiệp. Chỉ có thật tâm thì người dạy mới truyền đạt kỹ năng sống hiệu quả, cũng như đề ra các phương thức đào tạo phù hợp với từng đối tượng.
Trong giáo dục, đào tạo về kiến thức khoa học tự nhiên (khoa học vật chất) đã khó, nhưng đào tạo về kiến thức khoa học làm người hay nhân cách học (khoa học tinh thần) càng khó hơn.
Trong khoa học vật chất, đối tượng nghiên cứu học tập nói chung đều cụ thể rõ ràng, nên người dạy và người học muốn nói khác cũng không được.
Nhưng trong khoa học tinh thần, đối tượng học tập rất trừu tượng (vô hình), nên rất dễ để ai nói sao cũng được. Vì vậy việc dạy và học sẽ rất khó khăn, nên rất cần sự thành tâm từ hai phía, đặt biệt từ phía người dạy.

Tuy nhiên nếu nói “cái tâm” là một phạm trù khoa học, thì tất yếu nó phải dựa trên một nền tảng lý lẽ vững chắc nào đó làm cơ sở. Điều này chỉ được nhận thức (“thấy”) khi những người thàm gia học và dạy đều có sự TRUNG THỰC khi tham gia vào thế giới của KHTT.
Tính trung thực là một yêu cầu tự nhiên trong khoa học, song với KHTT điều này càng đòi hỏi cao hơn vì khó thực hiện hơn.
Học kỹ năng sống theo tâm A1, không khó cũng không dễ, nó chỉ cần người học có tính trung thức cao trong quá trình học tập rèn luyện, là đã hoàn thành được một phần ba của con đường thành công.
Tính trung thực trước hết với chính mình, kế là với người dạy (để mau tiến bộ), sau nữa là với mọi người (để hoàn thiện kỹ năng sống). Khi đã hình thành thói quen trung thực, người học sẽ nhận thấy sự phát triển của tâm trong quá trình học tập rèn luyện.


4 -  CHÂN LÝ SỰ SỐNG

Trong khoa học vật chất (KHVC), các chân lý đều sáng tỏ nhờ có những vật chứng cụ thể.
Ngược lại trong khoa học tinh thần (KHTT), mọi thứ đều trừu tượng muốn chứng minh giá trị thật là cả một khó khăn thách thức. Sự ra đời của HTNT chính là tạo những tiền đề ban đầu cho sự chứng thực thế nào là giá trị thật của các hiện tượng tinh thần (kỹ năng sống).
Từ đây tạo cơ sở xác định đâu là chân lý thật của cuộc sống.
Chân lý sống là điều mà ai cũng phải công nhận và muốn hướng về. Bởi vì nó đem lại sự sống tích cực cho con người.

Mục đích của KHTT là hướng dẫn con người tìm về cách sống (kỹ năng sống) đúng đắn nhất, tức là kỹ năng làm người sao cho tốt nhất, hiệu quả nhất, hạnh phúc nhất.
Muốn hướng dẫn mọi người sống hiệu quả, KHTT cần có một số chân lý để làm vốn thuyết phục mọi người.
Số vốn ấy đầu tiên là nhờ sự góp ý của mọi người (xã hội), kế là vận dụng chân lý góc (xem “Ý Thức”) để hệ thống hóa các góp ý (lý lẽ) trên thành một kết luận hợp lý, mà ta gọi là “lẽ phải- chân lý” (LPCL) nếu nó được mọi người công nhận.
Như thế là vốn chân lý theo cách trên sẽ từng bước hình thành. Tối thiểu nó có giá trị trong thời điểm và phạm vi số người đồng tình trên.
Nhưng nếu kết quả không đạt, tức là có một ý kiến không đồng ý, thì vấn đề sẽ được đề nghị đưa ra nghiên cứu mổ xẻ công khai trên diện rộng hơn (ví dụ xã hội), cho đến khi tìm ra lời giải đồng thuận tuyệt đối mới thôi.
Hoặc thấp nhất là xin bảo lưu sự khác biệt ấy để chờ xác minh thêm … .Khi ấy vấn đề chưa được công nhận là chân lý khoa học. Nhưng để thuận lợi trong công việc, trước mắt người ta có thể kết luận tạm thời để dùng, nhưng song song đó phải có biện pháp theo dõi kiểm tra xem đâu là kết luận hợp lý sát với thực tế cuộc sống, hoặc điều chỉnh kết luận lại cho phù hợp v.v….
Như thế chân lý sống không thuộc về quyền lực đại diện mà luôn thuộc về quyền của mọi người.
Nói cách khác, ý kiến mọi người mới là quyền lực cuối cùng (trong HTNT), khi muốn GIẢI QUYẾT MỘT VẤN ĐỀ CHUNG.
Hiện nay cách phổ biến dùng quyền lực ĐẠI DIỆN (tập trung) hoặc dùng hình thức bỏ phiếu lấy đa số xã hội làm kết luận … hên xui. Cả hai cách này đều không bảo đảm tìm ra chân lý (lẽ phải) đúng nghĩa, vì nó thiếu sự đồng thuận của mọi người hay thiếu cơ sở lý lẽ.

Muốn hoàn thành một LPCL đúng nghĩa LÀ phải vừa có lý lẽ chứng minh vừa được mọi người liên quan đồng thuận (rộng nhất là xã hội …).
Để mọi người đồng thuận tất yếu phải cho họ quyền được tự do bàn luận rộng rãi, nhầm tìm ra hướng lý giải đúng nhất sao cho không còn BẤT KỲ sự khác biệt nào mới thôi. Nếu có Người Chỉ Dẫn hoặc Người AA (xem “Cách Sống Mới” và “Ý Thức”) tham gia quá trình tranh luận thì vấn đề sẽ nhanh gọn hơn.
(Chú thích: trong Cách Sống Học rất hiếm khi dùng đến hình thức biểu quyết theo đa số trong khi các lý lẽ còn chưa thông. Nếu lý giải bế tắc nhưng muốn có kết luận ngay thì tạm thời có thể dùng biểu quyết theo đa số, nhưng phải có biện pháp kiểm tra theo dõi thích hợp, đồng thời phải có qui trách nhiệm cá nhân cụ thể khi một quan điểm lý giải được lựa chọn sử dụng, v.v…).
Lý lẽ chứng minh (lý giải) của mọi người luôn cuối cùng chạy về một hướng đồng tâm, chỉ khi mọi người có giống nhau MỘT QUAN ĐIỂM SỐNG CHÍNH (tiền đề của hội tụ). Và quan điểm sống chính ấy không gì tốt bằng là kim chỉ nam của tâm A1.
Còn nếu không đường lý lẽ mạnh ai nấy triển khai để đích đến sẽ là vô cực (trong trường hợp đối tượng nguy hiểm chưa lộ rõ và cấp bách, đang đe dọa trực tiếp sinh mạng của mọi người).


5 – GIÁO DỤC SAI LẦM

Theo thông lệ ai nắm quyền thì nắm luôn giáo dục.
Họ giáo dục sao cho mọi người phải tự giác chấp nhận và tôn vinh cái cơ chế quyền lực mà họ đang chiếm hữu, với hi vọng nó sẽ được trường tồn mãi mãi.
Bên cạnh những người có quyền là những nhà giáo dục chân chính (chuyên nghiệp hay dân gian), họ có khuynh hướng ngã về lợi ích nhân dân để truyền bá các nội dung giáo dục, dù được phép hay không.

Nếu chính quyền dạy vua là con trời, thì các nhà giáo chân chính đối lại nhân dân là trên hết. Khi chính quyền dạy tự do cá nhân là hạnh phúc …, thì họ đối đối lại sự bất bình đẳng trong thu nhập. Khi chính quyền dạy đảng là trên hết, thì họ đối lại quyền tự do ngôn luận là trên hết… v.v...
Khi nhận thức xã hội phát triển thêm nữa, người ta dạy rằng phải tổ chức lại xã hội để không còn ai nghèo khổ và khó sống. Mọi người nghe hay kéo nhau đi làm cách mạng. Người ta mơ rằng, cách mạng thành công tha hồ sướng … hậu quả là xã hội đói vì lười, cẩu thả, gian dối  trong công việc, v.v…
Kế đến người ta giáo dục phải sửa sai, thấy lợi là làm lý thuyết chỉ để hình thức … , hậu quả là bạo lực tràn lan, từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, “luật rừng” hồi sinh … Xã hội lúc này cái gì cũng có, tốt xấu đủ kiểu tùy ai hiểu …

Cuối cùng mọi người loanh quanh đi tìm cái đủ trong cái thiếu, tính ngay từ trong bản chất của quan điểm vạch hướng cho xã hội.
Các nhà giáo dục chân chính đối lại … nhân dân đã bị hóa bò ...

Con người sinh ra lớn lên đúng lý phải được học về sự sống, về cái mà suốt đời người ta phải gắn bó.
Nơi ấy đã, đang và sẽ tốt hay xấu, suy ra mỗi con người phải làm gì khi bước vào đời.
Đâu là sơ đồ cuộc sống mà mỗi người cần có để đối chiếu, để xác định vị trí của bản thân  so với mọi người, để biết hướng phát triển tương lai, chung và riêng, mà không sợ sai lầm.
Đấy là cái học đúng đắn, giúp con người không bị bỡ ngỡ và lạc lối khi tham gia vào cuộc sống chung xã hội.

Nhưng các mô hình giáo dục trường lớp từ xưa đến nay nhìn chung, chỉ hướng con người nhìn cuộc sống bằng ý chí và sự quyết tâm (phấn đấu).
Thiếu đào tạo con người nhìn cuộc sống từ tâm A1 (tâm giác). Điều này đòi hỏi giáo dục phải chăm lo rèn tâm cho con người, thì khi ấy người học mới biết nhìn cuộc sống sao cho rõ,  nhận thức con người sao cho tinh.
Nếu không giáo dục đã mắc sai lầm cơ bản trong mục đích đào tạo nhân cách cho con người, cũng như nó gây ảnh hưởng đến khả năng thiết kế phương hướng chiến lược của phát triển tương lai xã hội.
Thay đổi giáo dục từ cơ bản, là con đường cách mạng ngắn nhất vá ít tốn kém nhất cho sự đổi mới của xã hội tương lai.
  

6 – NHỮNG TÁC ĐỘNG KHÁCH QUAN

ª
Con đường giáo dục đúng đắn xem như đã rõ, phần còn lại là thực hiện.
Sự sống là một phạm trù rộng lớn, nó ẩn chứa vô vàn những khó khăn thử thách, không ngòi bút nào có thể diễn tả hết được. Nhưng trước những khó khăn ấy, giáo dục bằng mọi giá phải vượt qua để giúp xã hội loài người tìm đến đích của thiên đường hạnh phúc.
Muốn vượt qua các thách thức trên, giáo dục cần được nhân dân hóa để mọi người cùng gánh vác trách nhiệm. Khi ấy mỗi cá nhân là một nhà giáo nghiệp dư, có trách nhiệm tự đào tạo bản thân và góp ý cho mọi người theo khả năng. Có như thế sự nghiệp giáo dục mới có cơ hội hoàn thành chỉ tiêu.
“Mô hình giáo dục nhân dân” có thể là tên gọi đúng cho trường hợp này.

Khó khăn trong giáo dục tuy nhiều nhưng nếu nắm được nguyên tắc, có lẽ ai cũng có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ từ vị trí của mình, bên cạnh sự hỗ trợ và tạo điều kiện từ phía xã hội.
Biết rằng giáo dục là bao gồm, giáo dục về KHVC và KHTT. KHTT, chính là đối tượng cần được “nhân dân hóa”.
Lúc bấy giờ giáo dục sẽ ngẫu nhiên trở thành một trung tâm quyền lực mới của xã hội. Vì khi mọi người biết giúp nhau sống tốt, thì vai trò của chính quyền trở nên thu hẹp dần.
Có thể chính quyền chỉ còn là người thừa hành của “quyền lực giáo dục”. Vì tiềm năng nghiên cứu của giáo dục là rất lớn (toàn dân), nên dư khả năng lấn sân sang công việc quan lý xã hội của chính quyền.
Một thực tế khách quan khó tránh khỏi của qui luật phát triển xã hội chăng.

Tuy nhiên nhiệm vụ chính của giáo dục vẫn là đào tạo con người, vì thế nhiệm vụ quản lý xã hội có lẽ chủ yếu thiên về nghiên cứu các chiến lược phát triển lâu dài cho xã hội, hơn là những quyết sách ngắn hạn. – Các quyết sách ngắn hạng (mang tính sự vụ) được giao về cho chính quyền (chuyên nghiệp) đảm nhận.
Có thể giáo dục chuyên sâu về lý luận lý thuyết, còn cụ thể quyền lực thực thi sẽ do bộ máy chính quyền nắm giữ.

Các mô hình chính quyền như hiện nay trên thế giới, rất dễ mang tính chủ quan thiểu số. Đơn giản vì nó chưa có học thuyết đúng đắn làm nền tảng vận hành.
Nên xã hội loài người đến nay nhìn chung rất khó tạo sự hợp nhất hiệu quả đồng bộ.

ª
Trong giáo dục đào tạo, theo lý thuyết xưa nay, nhân cách (đạo đức) luôn là ưu tiên số một.
Bởi nhân cách là kim chỉ nam quyết định chất lượng trưởng thành của một cá nhân. Không có nó con người dù tài năng bao nhiêu, cũng có thể trở thành vô tác dụng hoặc có hại cho  bản thân và cho xã hội.
Trong nhân cách, tố chất (bản năng) do cha mẹ di truyền sang, và do … số trời, đóng vai trò  quyết định cho giới hạn tầm cao phát triển của một tài năng.
Dân gian có câu “cha mẹ sinh con trời sinh tính”, thực tế cho thấy không sai.
Các yếu tố tự nhiên nói chung, nằm ngoài khả năng chủ động của con người. Đặc biệt đối với người mẹ, thời kỳ mang thai là khoảng thời gian có những ảnh hưởng quyết định đến đáp số tâm lý di truyền (tài năng) đối với trẻ.
Theo định nghĩa (HTNT), bản chất nhân cách con người là do tâm (A1 hoặc A2) quyết định, nhưng nó cũng là một phần ảnh hưởng đến sự thông minh của trí tuệ …
Khi mẹ có thai cũng là lúc cái tâm (A) của mẹ truyền sang con nhiều hơn so với phần của cha (?). Vì thế nếu (A) của mẹ thông minh khôn ngoan đức hạnh tốt đẹp, thì (A) của con sẽ được hưởng lợi thế, bằng ngược lại (A) (mẹ) vô tình trở thành vật cản cho sự trưởng thành của con trong tương lai.
… “con hư tại mẹ”, chia ra có lẽ do tâm (A) quyết định một nửa, nửa còn lại do quá trình  nuôi dại sau khi sanh.

ª
Trong một tập thể ngẫu nhiên bao giờ cũng có một số đối tượng kém hơn so với những bạn học khác, trường hơp này qui vào năng lực trí tuệ kém như lý giải ở trên, nó ngoài khả năng chủ động khắc phục của trẻ.
Nói cách khác nó do (A) di truyền gây ra, không do lỗi chủ quan của trẻ.
Ta gọi đây là một trong các yếu tố cản trở khách quan trong giáo dục.
Vì thế các phụ huynh hay các thầy cô giáo v.v…  chớ quá chủ quan mà trách trẻ (xử phát), vô tình gây khó hơn trong nhiệm vụ giáo dục vì làm cho trẻ trở thành nạn nhân của sự chấn động tâm lý (do cách người lớn đối xử), và nó sẽ để lại hậu quả rất lớn cho tương lai phát triển bình thường của trẻ.
Đạo đức, nhân cách, cách sống, v.v… cũng là một dạng tài năng của con người.
Áp dụng từ các lý giải trên ta suy ra, nhân cách đạo đức của một số trẻ (người lớn sau này) bị chậm phát triển hơn so với các trẻ khác. Đơn giản vì ngoài khả năng tiếp thu của trẻ.
Tuy nhiên kém không có nghĩa là không thể.
Để khắc phục hiện tượng trên, HTNT cho rằng, bản chất (A) tuy khó sửa nhưng nó luôn bị chi phối bởi A0 (bản năng gốc – muốn sống). Vì vậy nếu cho trẻ kém được phát triển trong môi trường giáo dục chuẩn mực (từ nhỏ, hoặc dùng môi trường tâm lý chửa trị khi đã lớn) thì vẫn có thể GIÚP trẻ lấy lại được khả năng cân bằng như bao trẻ khác. Tức là trẻ vẫn có thể trở thành người có ích và sống hạnh phúc bình thường như mọi người (tối thiểu đạt về tâm lý, tối đa là đạt về thể chất và tài năng trí tuệ toàn diện).
Tất cả vấn đề trên muốn đạt kết quả tối ưu, đòi hỏi xã hội đạt trình độ tổ chức cao, có môi trường giáo dục đồng bộ và rộng khắp (toàn dân là nhà giáo), để khi ấy các biểu hiện tiêu cực khách quan của trẻ được phát hiện kịp thời, và được sự trợ giúp đúng mức từ xã hội.
Năng lực trí tuệ kém nếu kiên trì rèn luyện sẽ khá lên, nếu may mắn hơn nữa sẽ thành giỏi giang như bao người.

Nói cách khác trong các trường hợp trên, giáo dục phải bỏ ra nhiều công sức hơn, mất nhiều thời gian hơn, kỹ năng sư phạm phải chuyên sâu hơn, mới có thể giúp trẻ hiệu quả.
Tất yếu sự hợp tác của trẻ trong mục đích phấn đấu hoàn thiện bản thân, mang ý nghĩa quyết định không kém. Trẻ phải cố gắng nổ lực phấn đấu hết khả năng, khi đã được sự khơi gợi hợp tình hợp lý cộng với sự kiên trì từ phía những người hướng dẫn, thì kết quả thành công cuối cùng mới đạt.

Giáo dục có ý nghĩa giá trị rất lớn trong giai đoạn đầu của đời người (tuổi trẻ).
Song nó luôn là món ăn có ích cho tinh thần con người dù ở thời gian nào của tuổi đời, nếu như sự sống có nhu cầu.
 Vì thế lúc nào con người cũng còn điều kiện và cơ hội để hoàn thiện bản thân cho dù đang ở độ tuổi nào, trẻ hay già.
Con người thường phải xa rời giáo dục là do hoàn cảnh kinh tế, do đến tuổi trưởng thành, do thiếu tính kiên trì, do ham chơi hơn ham học, do năng lực học tập kém, do bạn bè hay môi trường  lôi kéo, v.v…
Xa rời giáo dục, ra đời có thành công có vấp váp thất bại, khi có điều kiện quay lại tái giáo dục, học tập sẽ càng mau tiến bộ nhờ kinh nghiệm thực tiễn đã có. Người học sẽ dễ nhận ra phần nhân cách nào còn thiếu cần bổ sung, phần nào đã tốt nên tiếp tục phát huy.

Mức thấp nhất của kỹ năng sống cơ bản, là cá nhận chấp nhận chọn lối sống phát triển theo hướng của tâm A1, đồng thời phải minh chứng nó qua suy nghĩ, việc làm, và trong các sinh hoạt tự nhiên thường ngày. Các minh chứng không cần có qui mô lớn hay nhỏ, miễn nó phản ánh đúng sự thật, đủ để kết luận về một nhân cách. Tốt nhất là từ nhân cách ấy cá nhân có thể tự nuôi sống được bản thân.
Trường hợp chưa thể đạt kỹ năng sống tối thiểu như trên do hoàn cảnh, tất yếu khi vào đời nhân cách sẽ bị biến dạng tiêu cực, dưới nhiều hình thức, từ đơn gian dễ nhận thấy đến tinh vi phức tạp ngoài sức tưởng tượng v.v…
Trong các hậu quả tiêu cực về nhân cách, có thể dẫn đến bệnh tâm thần, trí lực kém, cá tính thất thường, đạo đức bất ổn, nghề nghiệp thất bại, nếu thành công chủ yếu do dối lừa, v.v... Tóm lại chất lượng sống không cao, hạnh phúc không tốt đẹp.

Sức khỏe cũng là một nguyên nhân có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của tâm. Vì từ tâm A2 tiến lên tâm A1 đòi hỏi phải hao tốn nhiền năng lượng tư duy để tạo nhận thức đúng đắn, nhưng do sức khỏe trí tuệ kém không đủ lực đào sâu suy nghĩ, dẫn đến nhân cách THIỆN chậm phát triển, nhất là khi xuất phát điểm trong một môi trường tiêu cực thì càng bất lợi hơn.
Nếu tất cả những nhược điểm trên được nhận thức đúng mức (trên quan điểm HTNT), thì lối thoát sẽ dần sáng tỏ và hồi phục dưới sự giúp đỡ của cộng đồng xã hội cộng với ý chí phấn đấu của đối tượng.


7 – NHỮNG TÁC ĐỘNG CHỦ QUAN

Trong giáo dục KHVC, môi trường xã hội cơ bản chỉ là yếu tố phụ.
Nhưng trong giáo dục KHTT, môi trường xã hội là một phần TẤT YẾU trong qui trình đào tạo kỹ năng sống (nhân cách). Nếu tách khỏi môi trường xã hội, sản phẩm nhân cách sẽ không thể hoàn thiện.
KHTT chịu trách nhiệm nghiên cứu và đào tạo nhân cách cho con người (cách sống) từ kém cho đến hoàn thiện, trên tiêu chí không trái qui luật tự nhiên.
Con người sinh ra lớn lên, rất cần có cơ hội hòa nhập với môi trường xã hội để được học hỏi và trưởng thành. Trong quá trình ấy là cuộc tập dợt đấu tranh giữa tâm A1 và tâm A2  xem kết quả nhân cách thích chọn bên nào hơn để phát triển.
Đấu tranh hình thành nhân cách, thông thường phải chịu sự tác động từ phía nhà trường, chính quyền, truyền thống gia đình, tôn giáo, các hệ thống tư tưởng, các sản phẩm hàng hóa, dư luận xã hội, hoàn cảnh kinh tế, năng lực bản thân, v.v…
Cộng chung lại thành cái gọi là “môi trường giao tiếp” hay “quyền lực trí tuệ (tinh thần)”, vì mỗi tác động là tương đương với một quyền lực áp đặt lên trí tuệ cá nhân.

Trong “quyền lực trí tuệ” nếu cân đo khách quan thì không quyền lực nào vượt trội tuyệt đối. Nên sự hình thành nhân cách có nhiều trường hợp phải rất phân vân.
Đối với xã hội, khi các quyền lực ngang ngữa nhau về tính chân lý, thì sẽ gặp bất lợi khi xã hội cần tập trung quyền lực theo yêu cầu. Một xã hội như thế là chưa mạnh, chưa phát huy hiệu quả.
Đối với giáo, khi quyền lực chủ đạo trong xã hội chưa rõ ràng, sẽ rất khó để hoàn thành nhiệm vụ đào tạo nhân cách cho xã hội.
Ví dụ: trong giáo dục mọi đúng sai phải phân minh, nay nếu chính quyền sai do kém, nhưng trong giáo dục bị cấm nói lên sự thật này. Suy ra người học sẽ học cái gì, khi sự thật bị che đậy. Nhân cách vì thế sẽ hỏng khi hoàn thành.

Để khắc phục, KHTT đề xuất chọn tâm (A1) là quyền lực chủ đạo của con người và xã hội. Đây là quyền lực chuẩn mực do tự nhiên qui định cho loài người, mà mọi người theo bản năng ai cũng có thể ý thức giác ngộ.
Vì là quyền lực của tự nhiên, nên quyền lực chuẩn mực sẽ đứng trên mọi quyền lực phát sinh trong cuộc sống, kể cả quyền lực của chính quyền.
Luận điểm trên có thể va chạm đối với một số chính quyền, như thế là nguy hiểm.
Ta gọi đây là yếu tố tác động chủ quan (sai lầm) của con người đối với giáo dục, cũng như đối với sự sống nói chung.
Vấn đề trên chỉ được khắc phục khi chính quyền giác ngộ A1, cộng với điều kiện “thiên thời địa lợi nhân hòa” hỗ trợ … (ví dụ qui luật tiến hóa đã đến thời điểm).

Trong giáo dục quan trọng nhất thời kỳ tuổi trẻ. Đây là giai đoạn con người dễ bị tác động bởi môi trường xã hội.
Một bên là các giá trị vật chất (hấp dẫn), một bên là các giá trị tinh thần (kém hấp dẫn). Nên đa số tuổi trẻ đều thích chọn mục đích vật chất làm lẽ sống chính, còn lợi ích tinh thần chỉ là phụ (chủ yếu do bị bắt buộc).
Song trong số ấy có nhiều trẻ có cách suy nghĩ khác, một phần do gia đình một phần do tố chất tự nhiên của trẻ.
Đây là những cá nhân biết dùng ý chí chủ quan vượt qua hoàn cảnh chung, những ngộ nhận phổ biến, để chọn cho mình cách nhìn đúng đắn về cuộc sống, đặt ưu tiên giá trị tinh thần (đạo đức nhân cách lương tâm) lên trên làm lẽ sống.
Họ chính là những nhân tố tích cực khách quan, sẽ góp phần lấy lại định hướng đúng đắn cho sự nghiệp giáo dục mà cuộc sống văn minh đã ít nhiều làm nó bị chao đão (đã mất một thời “tiên học lễ …”).
Cộng những nhân tố tích cực ấy lại phải chăng sẽ tìm ra cái gọi là “KHTT” hay “HTNT”,
cái đang thiếu của giáo dục hiện đại.


8 – GIÁO DỤC TOÀN DIỆN VÀ ĐỒNG BỘ

Sự sống đa dạng nhưng cũng rất giới hạn.
Làm người là nương theo giới hạn để cân đối xây dựng cuộc sống. Không thể tùy tiện chỉ sống theo ý muốn để cuối cùng phải nhận hậu quả.

Bản chất con người ai cũng muốn sống tốt đẹp, nhưng do chưa nhận thức sự sống toàn diện và đồng bộ, nên đa phần lúc muốn một đàng nhưng khi thực hiện kết quả đi một nẽo.
Vì thế muốn sống tốt cần phải học cách, để trước sau chỉ là một.

Loài người là một tập thể của nhiều cá nhân. Cá nhân có tốt tập thể mới mạnh.
Muốn tập thể phát triển mạnh mẽ bền vững, cần bắt đầu từ chiến lược chăm lo cho từng cá nhân hoàn hão có thể được.
Mỗi cá nhân là một cá tính và một bản chất. Cá tính con người khác nhau, nhưng bản chất lương tâm (A1) thì giống nhau.
 Nhưng khi tham gia vào cuộc sống, từ hai yếu tố trên con người phân thành hai cực cơ bản thiện và ác (tốt và xấu).
Do vậy muốn chủ động trong giáo dục, cần nghĩ cách chủ động được môi trường xã hội.

Môi trường xã hội là một hiện tượng sinh động biến hóa, cá nhân (hay tập thể) dù tài năng cũng không thể bắt kịp hết mọi thay đổi chi tiết của nó. Nhưng nếu hỏi tất cả mọi người thì vấn đề trở thành không khó.
Xây dựng tập thể mới, là xây dựng những nhân cách mới. Nhân cách mới là những cá nhân có ý thức hoàn thành tốt phần trách nhiệm của mình trong phạm vi được giao. Nếu mọi người đều làm tốt như vậy theo một nhịp điệu mệnh lệnh thống nhất, thì xã hội sẽ có một môi trường nhận thức tối ưu.
Ta gọi nó là “môi trường quyền lực”.

Muốn có nhân cách mới, cần phải có một công trình nghiên cứu để khai phá. Và thành quả đầu tiên phải bắt đầu từ một cá nhân. Từ đây mới đúc kết kinh nghiệm, và cho nhơn ra thành học thuyết, tiền đề cho sự hình thành mô hình giáo dục mới.
Có mô hình giáo dục mới đồng nghĩa với nhiều nhân cách mới sẽ được trưởng thành. Cứ như thế kết quả sẽ được mở rộng đến mọi người.
Như thế giáo dục sẽ trở thành một trung tâm quyền lực, vì nó góp phần đem lại sự thịnh vượng cho xã hội.

Nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo con người thành những nhân cách mới, những nhân cách đúng đắn từ trong bản chất đến thực tiễn hành động.
Xã hội văn minh đã làm con người biến chất. Nếu giáo dục được phát huy đúng chức năng, sẽ cản trở hiệu quả quá trình biến chất ấy, bằng cách mở đường cho phẩm chất tích cực tốt đẹp đang tiềm ẩn trong mỗi cá nhân, được có cơ hội phát huy một cách tích cực nhất.
Giáo dục trở nên hiệu quả khi nó chú trọng đào tạo, định hướng và xây dựng mục đích sống cho con người. Vì khi mục đích sống thay đổi, nhân cách con người sẽ thay đổi.

Một cá nhân (nếu thiếu hoàn cảnh thích hợp) không thể tự thay đổi mục đích sống thành công, nhất là chỉ trong một sớm một chiều. Nếu có chăng chỉ là sự ngộ nhận, hoặc …. Vì từ đây có thể hình thành nên cả một ngành khoa học để tập trung xử lý hiệu quả vấn đề.
Nếu một cá nhân có thể dễ dàng thay đổi như trên, thì có lẽ thế gian đã không trải qua nhiều biến cố như đã qua và đến nay.
Thay đổi một cách sống, thấy dễ nhưng khó. Khó sẽ thành dễ, nếu được giáo dục có bài bản hệ thống, trên cơ sở học thuyết đúng đắn làm nền.
Giáo dục hệ thống bài bản, thực chất là một mô hình giáo dục suốt đời. Có như thế thành quả xây dựng xã hội mới mới đạt chất lượng toàn diện và đồng bộ.
Vì tư duy con người rất nhạy bén, có thể nhanh đúng và có thể nhanh sai, đặc biệt nhanh sai. Để xây cái đúng rất khó mất nhiều công sức và thời gian, nhưng để phạm sai lầm thì không phải tốn gì cả. Bởi thế muốn giữ con người, xã hội cần được tổ chức toàn diện và đồng bộ, đặc biệt đối với giáo dục.
Để làm tốt nhiệm vụ trên, theo ước tính, hệ thống giáo đục (trường lớp) và hệ thống đảng sẽ liên kết nhau đảm nhận trọng trách này (xin xem “Ý Thức”).

HTNT chứng minh rằng xã hội loài người thất bại không phải do vấn đề giai cấp, không do  chế độ xã hội, không do bóc lột giá trị thặng dư, v.v… mặc dù chúng ít nhiều có phần đúng đắn hoặc có gây ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội, nhưng chưa phải là yếu tố quyết định.
Kỹ năng sống hay bản chất biến dạng mới là nguyên nhân quyết định làm xã hội loài người phát triển bất ổn.
Hay nói cách khác, nguyên nhân chính thuộc về tiến trình xã hội loài người tiến lên văn minh hiện đại đã thiếu sự phát triển cân đối giữa KHVC và KHTT.

Lời giải đúng đắn cho vấn đề, là xây dựng bổ sung KHTT, đồng nghĩa với yêu cầu:
- Phải bảo vệ thành công bản chất tốt đẹp của con người (nó đã có sẵn từ trong bản năng lúc sinh ra), trong suốt chặng đường từ lớn khôn, trưởng thành cho đến thời điểm kết thúc chu trình sống đời người. Tất cả đều cần được trợ giúp một cách hợp lý.
Nói theo góc độ khác, “cái tâm” vừa là nạn nhân vừa là nguyên nhân của tất cả vấn đề. Kiểm soát thành công tâm, là kiểm soát được qui luật phát triển xã hội vậy.
Muốn kiếm soát được tâm, giáo dục phải hoàn thành trọng trách, giáo dục toàn diện và đồng bộ cho từng cá nhân trong xã hội, từ lúc mới lớn cho đến cuối đời.
Công việc ấy chỉ có thể hoàn thành bằng mô hình “giáo dục nhân dân” cộng với HTNT làm kim chỉ nam ./.
      

                                                  HẾT
       
Chú thích:: (*) xem phần I “Cách Sống Mới”


                                                                        Tp HCM,  Ngày 10 tháng 7 năm 2009
                                                                            HOÀNG VĨNH SƯU

                                  






                ĐỌC THÊM



XÂY DỰNG
CON  NGƯỜI MỚI








Bản chất sự sống là sự thật, là khách quan, là chân lý, là tự nhiên, là trường tồn. Mọi sự trái nghịch sẽ bị vô hiệu hóa cộng với một sự trả giá không nhỏ.
Nên chỉ một sự lựa chọn, sống theo tự nhiên.

Sống theo tự nhiên không có nghĩa không làm gì, mà ngược lại phải cố gắng tìm hiểu tự nhiên (tính qui luật) và rèn luyện kỹ năng sống để thích nghi.
Xây dựng con người mới là nhằm trang bị kỹ năng sống như trên cho con người.

Con người là một cỗ máy có lý trí, nó không khó cũng không dễ để điều khiển. Vấn đề là phải chọn đúng hướng phát triển, nếu muốn nó vận hành suôn sẻ ổn định mãi mãi.
Chỉ như thế cái lợi mới tận thu, hạnh phúc mới tìm thấy cơ hội đến với mọi người.

Tuy nhiên, xây dựng con người mới có khi không khó ở tìm hướng phát triển đúng đắn, mà khó ở thay đổi “thói quen – bảo thủ” của cái cũ trước cái mới, của cái sai trước cái đúng, của phi chân lý trước chân lý, v.v …
Cần phải cố gắng “vượt lên chính mình” …


1.  SỰ SỐNG.

Tất cả là do sai lầm hệ thống, dẫn đến giáo dục phiến diện, nhận thức xã hội không minh bạch và nhất quán, lúc thế này lúc thế kia, làm con người khi lớn khôn mất phương hướng, cho dù ai cũng rất muốn hoàn thiện bản thân, cống hiến hết mình vì cuộc sống và cho xã hội.
Sự nhầm lẫn giữa xấu và tốt, đúng và sai v.v…, cuối cùng đến một ngày kia cái xấu nghiễm nhiên được lên làm “thầy” thiên hạ, để ra lệnh điều sai trái phải thi hành, nhầm đưa xã hội tiến … về đâu … (!).

Vì thế xã hội rất cần có một “sơ đồ đạo đức thống nhất” làm chuẩn, để mọi người thuận tiện trong soi rọi nhân cách mà không sợ bị tranh cãi.
Đây cũng là con đường để con người mới hình thành.

Biết rằng thời bình là nguyên nhân của thời chiến.
Vì vậy việc chăm lo thời bình, có khi cũng như thời chiến. Tức phải có sự hợp sức của mọi người, mà cụ thể là phấn đấu trở thành con người mới, là góp phần bảo vệ cuộc sống thanh bình và hạnh phúc cho toàn cầu một cách hiệu quả nhất.


2.    ĐỊNH NGHĨA CON NGƯỜI MỚI

 “Con người mới” là người có cách sống mới, mục đích sống mới.

Nghĩa của cái MỚI bao gồm  …
- bằng cách nào giữ trật tự xã hội, mà không dùng bạo lực áp đặt.
- bằng cách nào để mọi người được tự do theo ý muốn, nhưng vẫn nằm trong ý thức tự giác của quỹ đạo cân đối giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
- bằng cách nào để mọi người đoàn kết như một, thiểu số chính quyền đúng nghĩa là “công cụ được thuê”  để phục tùng theo mệnh lệnh của số đông xã hội.
- bằng cách nào để không còn người đau khổ và bế tắc trong đơn độc, mà không được sự chia sẻ giúp đỡ nhiệt tình của cộng đồng.
- bằng cách nào để hạnh phúc là một quyền lợi đương nhiên có, cho mọi đời người được sinh ra.
- bằng cách nào để mọi người có đủ kỹ năng lời lẽ và hành động trong giao tiếp, không trái với lương tâm (A1).

Hay …
- sao cho mọi người càng được tạo điều kiên tự do giao lưu, hội họp, phát ngôn, tiếp cận thông tin đa dạng đa chiều, v.v… thì xã hội càng ổn định phát triển trong quĩ đạo trật tự vững bền.
- sao cho các kiến luận đều tiến lên trình độ mạch lạc, lô-gíc, khách quan, khoa học, tự trọng, trách nhiệm, văn hóa giao tiếp cao, v.v… , tiền đề tìm ra lẽ phải -  chân lý, điều kiện đem lại sự đoàn kết thống nhất yêu thương trong toàn xã hội.
- sao cho tất cả điều gì có ích cho sự sống con người và xã hội, đều lần lượt sẽ được thực thi trong thời gian nhất, thuận lợi mất.
- sao cho thang giá trị được tính trên lương tâm (A1) làm chuẩn, tất cả còn lại là giá trị phương tiện cho giá trị mục đích chính trên.
- sao cho thế gian chỉ còn “Một Quyền Lực Duy Nhất” cai quản, và nó không gì khác hơn là  “QUI LUẬT TỰ NHIÊN”.



3.    SỰ THÁCH THỨC CỦA THÓI QUEN

    Con người sợ nhất … “thói quen”, nhưng mang ơn nhất cũng ... “thói quen”.
Vì sự mù quáng chủ quan, một phần do “thói quen” gây ra.
Nhưng tài năng xuất chúng, cũng một phần nhờ công của “thói quen” mang đến.
Thế mới kỳ tài … “thói quen”.

Nay nếu muốn đổi mới nâng cấp chất lượng sống, rõ ràng con người cần phải hết sức quan tâm đến sức mạnh đặc biệt của “thói quen”, gây cản trở.
Chúng ta có thể phân thói quen ra hai loại,
-    loại quán tính tư duy vô thức
-    loại tư duy ý chí có ý thức.

Loại quán tính tư duy vô thức, bao gồm các biểu hiện dưới dạng phát kiến, ý tưởng, định phương hướng tư duy, v.v… hay trong phong cách, thái độ, tình cảm, cảm xúc, cảm giác nội tâm, v.v… , là đối tượng quyền lực cao nhất đối với sự sống con người.
Đây là loại thói quen của tâm, đối tượng khó nhất, cũng là đáng ngại nhất.
Loại tư duy ý chí có ý thức thực chất chỉ là những hình thức phản xạ nhất thời, nên quyền lực nó ngắn, tạm thời, không bền. Nên chỉ cần cảnh giác vừa phải là đủ.

Chúng ta biết rằng hằng ngày con người phải thực hiện bao nhiêu hành động, bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu tư duy ý thức khác nhau để sinh tồn, thì có bấy nhiêu kỹ năng thói quen được hình thành và nhập tâm.
Một giây, một ngày, một tháng, một năm, nhiều năm, đến hết đời người cộng chung lại, thành một chuỗi các thói quen để làm nên một nhân cách.
Chuỗi ấy là bộ rễ, bám chắc vào não và cơ thể con người. Vô tình nó như là cái khung nhốt tư duy lý trí, quan điểm của một nhân cách vào một giới hạn khó thoát.
Cũng nghe đó, cũng biết và hiểu đó, nhưng theo cái giới hạn khung mà cuộc sống bản thân đã xếp đặt sẵn.

Vì thế cái thói quen khung ấy chính là đối tượng đáng sợ, để mỗi khi con người muốn chuyển từ giới hạn trình độ sống này (tâm), sang một trình độ sống cao hơn.

Để vượt qua nó, một là “nhắm mắt” làm liều, sau hạ hồi phân giải.
Hai là tìm cách bẻ dần từng nhánh thói quen nhỏ. Sau khi mất dần các gốc rễ, ta tập trung dứt điểm thói quen chính. Cách này cần nhiều thời gian và công sức. Những bù lại kết quả có tính lâu dài vững chắc.
Vì thế bài toán hoàn thiện nhân cách xưa nay được tiếng không dễ. Thời điểm tốt nhất là lúc trẻ, tuổi của dễ nghe dễ bảo.
Nay đã lớn, cách sửa có thể chọn chỉnh dần dần theo khả năng, song quan trọng là sửa quan điểm nhận thức trước. Cái này khác với “thói quen” nhân cách, có thể sửa ngay và làm ngay bằng lý trí.

Tức là khi nghe hợp lý, thì dựa theo đó kết luận và hành động theo bằng tất cả quyết tâm.
Vấn đề là công việc giao cho những người hoàn thiện nhân cách cao hơn chủ động, còn bản thân không thể vì “thói quen” nhân cách cũ vẫn còn.
“Quan điểm nhận thức” có thể thay đổi trước, là vì bản năng A1 của mọi người luôn hiện hữu với thời gian. Vấn đề là đánh thức nó dậy.
Vì thế trí tuệ con người luôn có khả năng sáng suốt mọi lúc mọi nơi với bất kỳ ai, nếu được góp ý đúng đắn hợp lý, kịp thời … và kỹ năng cũ cũng không quá phức tạp.

Và khi “thói quen tâm” được gắn thêm quyền lợi và quyền lực to lớn, thì yêu cầu đổi mới càng bội phần khó khăn.

Như vậy chúng ta có thể tóm tắt, có ba ngọn Thái Sơn cản trở chính quá trình hình thành con người mới, sau khi con đường dẫn đã sẵn.
- Một là mục đích sống, hai là thói quen tại tâm (vô thức) và ba là sự tác động của môi trường xã hội (quyền lực).
Yếu tố ba là hệ quả của hai yếu tố đầu tích tụ thành. Yếu tố một là tương đối dễ sửa, vì chỉ cần chấp nhận thay đổi mục đích là sẽ thấy khác theo thời gian.
Khó nhất là yếu tố hai vì nó vô hình vô thức, nên phức tạp. Nó ẩn mình nên dễ khiến con người phạm sai lầm chủ quan mà vẫn tưởng mình đang đúng đắn khách quan chân lý.

Cuối cùng tất cả phải nhờ đến lương tâm A1 để thoát.



4.    CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

    Thói quen nào cũng phát triển, theo giá trị hướng này hay hướng kia. Dù tiến theo hướng nào, đều khiến con người phải ghiền và gắn bó với nó.
Khi mục đích sống chính đã ghiền, tức nó đã hòa vào nhịp tim và hơi thở của cá nhân. Đây là lúc nó đã gắn với tính mạng của chủ thể.

Vì thế đôi khi con người phải cần đến sự giới hạn của tuổi thọ để tự giải thoát mình.
Hoặc mọi sự chủ quan đều tiến về giới hạn của đường cùng, nên đến lúc buộc nó phải thay đổi (cách mạng). Đây là thời cơ để nhân tố mới tích cực hơn phát triển.
Hoặc nếu có điều kiện hơn nữa, nhìn về lịch sử để suy tính tương lai. Vạch ra con đường phát triển hợp lý và chọn lựa nó, thay vì phải chờ đợi hậu quả tiêu cực xảy ra rồi mới đổi mới thì không lợi bằng.



5.    CON NGƯỜI MỚI VÀ HỌC THUYẾT.

    Giá trị đỉnh cao của một học thuyết xã hội, không nằm ngoài tiêu chí “giáo dục đào tạo con người”.
Học thuyết nào hoàn thành tốt tiêu chí này, học thuyết ấy sẽ dành thắng lợi.
Giáo dục lý tưởng nhất của một học thuyết, là đào tạo người cũ thành mới, người kém thành giỏi, người ác thành thiện, người sai thành đúng, người chủ quan thành khách quan, người buồn khổ thành người vui sống hạnh phúc, người tham quyền và bạo lực thành khát vọng công bằng và lẽ phải- chân lý, v.v… gọi chung giáo dục là nhằm xây dựng “con người mới”.

“Con người mới” là phép thử quyết định tính chân lý của một học thuyết .

Con người mới và cũ khác nhau ở mục đích sống.
Con người sinh ra đã có mục đích sống.
Nhờ có mục đích sống từ bản năng mà trẻ duy trì được khả năng sinh tồn.

Mục đích sống cơ bản nhất là nhu cầu hưởng thụ.
Nhu cầu hưởng thụ đơn giản thuộc về vật chất.
Nhu cầu hưởng thụ cấp cao và phức tạp hơn, thuộc về tinh thần (trí tuệ).
Nhu cầu sau sẽ phát huy khi hoàn cảnh sống thuận lợi (về nhận thức, điều kiện vật chất, môi trường), nhất là sau khi nhu cầu hưởng thụ đơn giản đã được thỏa.

Khi con người chọn mục đích sống là lương tâm A1, thì từ việc lớn đến việc nhỏ đều được hoàn thành theo nội dung của tiêu chí này.
Quá trình tư duy như trên, đối với con người mới, là một nhu cầu hưởng thụ tinh thần trong cuộc sống. Tất yếu nó phát triển song song với nhu cầu hưởng thụ vật chất mà điều kiện sống cho phép.
Tốt nhất mọi hưởng thụ đều dưới sự giám sát và hỗ trợ của cộng đồng (dùng lẽ phải-chân lý), khi cá nhân có nhu cầu, hoặc khi xã hội phát hiện có hiện tượng bất thường.

Vậy “con người mới” là những người chọn nhu cầu hưởng thụ tinh thần (trí tuệ) làm lẽ sống chính. Từ đây mục đích hạnh phúc đời người sẽ có điều kiện phát triển cân đối toàn diện và hợp lý.



6.    VỐN LIẾNG LÀM NGƯỜI

Vốn lớn nhất của con người là bộ não, nhằm tạo khả năng tư duy đa dạng.
Vốn lớn kế là tình người, nhằm đem lại ý nghĩa và giá trị thật cho sự sống.
Cộng hai vốn trên lại sẽ tìm thấy vốn lớn quyết định nằm ở tâm A1.

Vốn cơ thể là vật chứa của ba vốn trên.
Vốn cơ thể không lớn không nhỏ, nhưng không có nó ba vốn kia không thể tồn tại.
Vì vậy mỗi khi vốn cơ thể bị đe dọa, ba vốn kia bị đe dọa giá trị nghiêm trọng …
Hoặc khi vốn cơ thể  làm chức năng phát triển, ba vốn kia cũng dễ bị đảo lộn giá trị nghiêm trọng …

THẾ NHƯNG,
Khi con người có đủ điều kiện phát huy hiệu quả BA VỐN ĐẦU, thì VỐN CƠ THỂ bị mất quyền chi phối trước ba vốn đầu, cho dù vốn cơ thể đang ở trường hợp hay hoàn cảnh nào.
Đây là mục đích muốn hướng đến của “Con Người Mới”.
Đây cũng là con đường sẽ đưa loài người đến tương lai sán lạng./.


 
                                             TP. HCM, ngày 13 tháng 2 năm 2012
                                                      HOÀNG VĨNH SƯU (LCH)



Mọi sự trợ giúp xin vui lòng gởi về:


ASIA COMMERCIAL BANK  -  SWIFTCODE: ASCBVNVX
Account:  9442057 
Master:    LO CONG HOAN 
Branch:    CN CHO LON

hoặc 

Số tài khoản :         123 893 919
Chủ tài khoản:        LO CONG HOAN
Nơi mở tài khoản:  ACB PGD Bình Phú.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét