Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

2 -  Ý THỨC




(Chú thích:
-        ‘Lương tâm A1’, hay ‘tâm A1’, nôm na là “lương tâm đã học thuyết hoá”. Với ý nghĩa, từ đây đủ để lý giải thành công mọi hiện tượng sinh tồn loài người, một cách khách quan và khoa học. – Vì A1 là khởi nguồn của chân lý, là trung tâm cuối cùng điều hành sự sống, là QLTN của xã hội loài người.
-        ‘Lương tâm A1’ là phương tiện định hướng quan hệ con người hợp tình hợp lý hợp logic khoa học, trên mọi mặt đời sống. Mà nếu công khai ra ai cũng có thể công nhận là đúng là tốt, là có lợi nhất cho cá nhân và xã hội – không phân biệt họ thuộc đối tượng nào trình độ sống ra sao, miễn là sau khi đã được nghe những lý giải phù hợp khả năng.)












… Ngày xửa ngày xưa … có một Bà “Thời gian” và một Ông “Không gian”. Do “Tự nhiên” mai mối … họ đã kết duyên tri kỹ. Cả hai thân nhau như … “hình với bóng”,  “một tấc không đi, một ly không rời” …
… thời gian trôi … họ đã có với nhau một hoàng tử xinh xắn tên gọi … “Thế giới Tồn tại” …
“Thế giới Tồn tại” bao gồm … vô số các “Đĩa Vũ trụ”, các “Vì sao”, các “Lỗ đen”, các “Sao Chỗi”, các “Dãy Thiên hà”, các “Hạt Nguyên tử”, v.v …
Trong số các “Đĩa Vũ trụ” có … một “Thái Dương hệ”. Trong “Thái Dương hệ” có … một hành tinh “Trái đất” còn gọi “Thế gian” …

… “Thế gian” là một tổng thể các tồn tại “Hữu hình” và “Vô hình”. Nó bao gồm “Trái đất”, “Loài người”, “Động Thực vật”, “Phong cảnh”, “Núi”, “Rừng”,”Mây”, “Bầu trời”, ”Song ngòi”, “Biển cả”, “Vực thẩm”, v.v…
Mới nhìn qua người ta ngờ rằng “Thế gian” là một hỗn hợp các vật thể lộn xộn, chúng vận động không theo một trật tự nào. Nhưng kỳ thực tất cả vận hành rất có qui cũ, mỗi tồn tại ứng với một quỹ đạo gọi là “Qui Luật Tự Nhiên”, do  “Tạo hóa- Tự nhiên” qui định …

Chuyện kể  … “Tạo hóa- Tự nhiên” ban cho “Không Thời gian” một đặc ân … mang tên “Sự sống”.
“Sự sống” vận động và phát triển tạo nên “Thế giới Sự sống”. Trong “Thế giới Sự sống” … do ngẫu nhiên và do qui luật tiến hóa … “Ý thức” được hình thành.
“Loài người” là đối tượng vật chất được “Tự nhiên” giao trọng trách “Quản lý” hiện tượng đặc biệt này, mà cụ thể là mỗi “Cá nhân”.
Từ khi có “Ý thức”, “Cá nhân” bắt đầu biết “Tư duy và Xét đoán” …
Xét đoán rằng … “Ý thức” … là một “Công cụ” của “Ông … Trời” (“Ông … Tạo hóa- Tự nhiên”). Nó được đưa xuống nhằm giúp “Ông…” “Quản lý Nhân thế”. Mặc dù nó cũng có nhiệm vụ giúp “Loài người- Cá nhân” “Nhận thức” “Thế giới Tồn tại”.
Như thế “Ý thức” có … “Hai Chức năng” trong “Sự sống”.
Vì … “Ông … Trời ” “Tiên đoán” rằng … “Loài người- Thế gian” khi có “Ý thức”, tức từ khi được giao “Quyền Mở Rộng” …, thì họ có thể “Không Ưng … Sống Theo Các Qui định Của Tự nhiên” …  mà “Tự phát Tùy tiện”, nên cần phải có “Biện pháp” và “Công cụ” “Uốn nắn” kịp thời …

Kết quả … “Đúng như Ông … Dự kiến” … “Loài người- Cá nhân” “Đã Vi phạm Hàng Loạt” các “Qui định” của “Tạo hóa- Tự nhiên” …
Có thể vì “Loài người- Cá nhân” “Không Biết” hoặc đã “Quên rằng” … tất cả “Sự sống” đều do “Tạo hóa- Tự nhiên” “Chủ động Điều hành”, kể cả “Loài người- Cá nhân” …. nếu không sẽ bị “Trừng phạt” ...
 … nhiều “Cá nhân hay Tập thể” … đã “Cả Gan Tự tiện” … “Thay Trời” “Hành đạo”, với lý do “Họ Là Kẻ mạnh” …
Thế là  …
“Rét, rét, …!!”, “Tiếng Còi vang lên”  … và “… Trời” đã tiến hành “Xử Phạt” theo … “Luật Nhà Trời” …

Biết rằng … “Ông … Trời” điều hành “Thế gian” bằng “Qui luật Tự nhiên”, trên nguyên tắc “Nghiêm minh” “Chặc chẽ” “Công bằng”, nên “Ông …” có tiếng là … “Lưới trời Tuy Thưa Mà Khó Lọt” ...
Nếu “Tội nhỏ”, … “Cá nhân” … “Tự Gánh Hậu quả”.
Nếu “Tội lớn”, … “Dòng họ Con cháu” … “Cùng Gánh Hậu quả”.
Nếu “Tội lớn Nữa”, … “Cộng đồng Xã hội, Cùng Các Thế hệ Mai sau” … “Phải Cùng Gánh Hậu quả” …
Tiếc rằng “Loài người- Cá nhân” ở “Thế gian”, … đã “Vi phạm” … “Đủ dạng Tội” “Từ Nhỏ đến Lớn” “Không thiếu Tội nào” … kể cả … “Tội Tày trời” … cũng “Không chừa” …
Thế là bao nhiêu “Hậu quả” không biết từ đâu … “Rơi xuống” như … “Trời giáng” … làm cho bao nhiêu “Thế hệ Con người” phải nhiều phen … “Khiếp día” gây nên bao cảnh “Gian nan Khổ sở Cùng cực” …

“Trời giáng” bằng cách nào … ?
Bằng “Búa rìu”, bằng “Lưỡi liềm”, bằng “Xét đánh”, bằng “Bão tố”, bằng “Động đất”, bằng “Núi lửa Phun trào”, v.v…
Hay “Ông…” “Đánh” bằng … “Ý thức” ?
Biết rằng “Ý thức” là công cụ tối cần thiết đối với “Sự sống” “Con người”.
Nó là nhược điểm tối kỵ trong tất cả các nhược điểm của “Loài người”. Nếu như thật sự “Con người” bị đánh vào chỗ hiểm ấy, thì rõ ràng không còn đường chạy …

Nếu giả thiết trên đúng là không sai, thì “Ý thức” quả thật xứng đáng là đối tượng cần được nghiên cứu cẩn thận và nghiêm túc.
Trước mắt “Ý thức” rất có khả năng là “Con dao Hai Lưỡi”. Một, vì nó được dành cho “Loài người- Cá nhân” “Toàn quyền Sử dụng”, và hai, vì nó còn dành cho … “Trời Hành đạo” với “Thế gian” ...

Suy ra “Ý thức” vừa có “Công Lớn”, nhưng cũng vừa là một “Tôi phạm Lớn” đối với “Con người”.
Ví dụ: “Ý thức” để “Luật rừng” thâm nhập vào “Quan hệ Con người”, đấy là một tội.

Nếu xét về công lao thì “Ý thức” đã giúp loài người có một cuộc sống “Nhận thức” (được “ngôn ngữ” và “chữ viết” hỗ trợ), thay vì “Mù quáng” như “Muôn loài”.
Từ “Nhận thức” con người phát triển thành “Kiến thức Có Hệ thống”.
Từ “Kiến thức”, các “Nhận thức” được nâng cấp lên một nấc mới, góp phần làm cho “Mức sống Loài người” không ngừng được “Nâng cao”.
Tuy nhiên bên cạnh sự “Nâng cao”, là sự “Xuống cấp” về “Nhân cách Đạo đức” của một bộ phận con người, gây nên những “Bất ổn Xã hội”, làm “Ảnh hưởng Không nhỏ” đến thành quả của “Chất lượng Sống”.

Vì đâu có sự “Xuất hiện” của những “Hiện tượng Bất ổn” trên ?
Phải chăng do “Hệ quả” của hiện tượng “Dao Hai lưỡi” trên, khi “Con người” vi phạm đến “Luật … Trời” và “Ông …” đã cho “Quả báo” …
Đây là … một nghi án cần được phá bằng tất cả sự nỗ lực có thể …


Trước tiên chúng ta nhận thấy, đỉnh cao trí tuệ của loài người là “Kiến thức”.
Vấn đề đặt ra, phải chăng “Kho tàng Kiến thức” của loài người tích lũy đến nay có vấn đề, vì có thể nó “Không Hoàn toàn Đúng đắn”. Có những “Sai sót” mang tính “Rất Cơ bản” mà đến nay con người còn bị bỏ sót.
Nhìn lại sự sống loài người từ thời khai thiên lập địa, những biến cố xã hội (mâu thuẩn đối kháng) phải chăng bắt đầu xuất hiện nhiều và phức tạp, chủ yếu là từ khi loài người tiến lên mức sống “Văn Minh Vật Chất” (sản phẩm vật chất phát triển vượt trội) đến nay.
Tức là từ khi sản lượng vật chất của một số cá nhân có thể tăng lên gấp nhiều lần, so với những người khác trong xã hội.
Từ đó họ thành giàu lên, trong khi đa số người còn lại ngẫu nhiên bị nghèo xuống, đến mức có thể bị đe dọa sự sống.
Vấn đề trên đã vô tình tạo nên một sự nghịch lý về hoàn cảnh sống của con người trong cùng một môi trường xã hội. Trong khi thực tế tất cả họ đều có “nhu cầu sống” tương đồng như nhau.
Hậu quả là, xã hội xuất hiện TÂM LÝ BẤT AN khi con người có sự so sánh. Và  quan hệ con người bắt đầu cảm thấy căng thẳng, tiếp theo là sự phân hóa trong nhận thức con người về đẳng cấp mức sống.
Cuối cùng là CÁCH SỐNG cũng thay đổi, nó tạo sự khác biệt sâu sắc giữa hai đẳng cấp mức sống, từ hình thức đến nội dung, từ quan điểm đến kỹ năng quan hệ, v.v...
Sự phân hóa trên cho thấy, con người sẽ mãi mãi mâu thuẩn với nhau do xuất hiện hiện tượng “chênh lệch mức sống vật chất”, mà thực tế nó vô phương lý giải bằng các lý lẽ phải-trái thông thường.

Sự phân hóa đã vô hình trung làm giảm niềm tin con người vào cuộc sống, vào tương lai, vào hạnh phúc, vào các quan hệ, vào khả năng nhận thức, v.v...
Có phải, từ khi xã hội xuất hiện giới “Người Giàu” thì đồng nghĩa “Quyền thế xã hội” cũng bị họ “Liên minh” để tạo thành một phe khối thống nhất. Trong khi giới “Người nghèo” thì ngẫu nhiên bị tách khỏi dần các “Quyền thế xã hội” lúc nào không hay, mặc dù nó là do sự hợp lực của tất cả mọi người trong xã hội mà thành.
Kết quả là xã hội bị phân hóa thành hai khối với hai thái cực NGỊCH NHAU rõ ràng. Nó nghịch về QUYỀN LỢI, QUYỀN THẾ, MỤC ĐÍCH SỐNG, CÁCH SỐNG, NHẬN THỨC SỰ SỐNG, v.v… cuối cùng họ thành hai giới người gần như hoàn toàn khác nhau, không ai giống ai.
- Một bên, “Thiểu số người” “Giàu có và Quyền thế” (chiếm hữu “Lượng Tài sản TỐI ĐA” trong xã hội), có mục đích (lâu dài) quyết bảo vệ lợi thế mà họ sở hữu.
- Một bên, “Đa số người” “Nghèo khổ và Mất Quyền thế” (chiếm hữu “Lượng Tài sản TỐI THIỂU” trong xã hội), có mục đích (lâu dài) quyết đấu tranh đòi lại sự công bằng bình đằng về quyền sống.
Khi hai mục đích sống trái ngược đối đầu nhau, nhất định sẽ nổ ra thành những cuộc đấu tranh sống còn dưới nhiều hình thức, từ nhỏ đến lớn, đến ăn thua đủ nhau bằng tính mạng.

Khi xảy ra những xung đột như trên, nhất thời bao giờ phe “có quyền thế” cũng giành thắng lợi dòn giã ban đầu nhờ sức mạnh “quyền thế”. Nhưng sau một thời gian, bên “mất quyền thế” dần dà lớn mạnh đủ khả năng nỗi dậy đồng loạt và giành chiến thắng cuối cùng (trong một giai đoạn lịch sử).
Trong khi chưa có sự nỗi dậy đồng bộ, xã hội tạm thời bị phe “giàu quyền và của” quản lý bằng “Quyền lực” (vũ khí …). Tất yếu nó không phải là môi trường có lợi cho LẼ  PHẢI  và CÔNG LÝ phát triển, khi con người chưa tìm ra một lý giải nào làm trung gian hòa giải.
Vì thế theo chu kỳ, những người chịu bất công, phải vượt qua mọi thách thức khó khăn gây ra từ phía chính quyền, để nỗi dậy đòi quyền của lẽ phải và công lý, theo phản xạ tự nhiên … “Trời” cho.

Vậy là số người “giàu tiền giàu thế”, cũng ra sức tiêu trừ những mầm móng “phản loạn” trên, với danh nghĩa “vãn hồi trật tự an ninh xã hội”, v.v… . - Trong khi thực chất kẻ “Giàu Tiến Giàu Thế” đang là một phần nguyên nhân gây nên hiện tượng bất ổn xã hội.
Nhưng thật ra họ cũng không có tội …, vì sự làm giàu và sự giàu quyền thế của họ cũng do ngẫu nhiên … “Trời” cho. Vì nào phải ai cũng tạo được sự giàu có một cách chân chính như họ … (loại trừ trường hợp giàu do gian dối, tội lỗi, bất chính, v.v … ).
Khi cuộc sống thiếu cơ sở minh chứng lẽ phải thuộc về ai, dẫn đến nhận thức con người bị đảo lộn đa chiều, cuối cùng không ai nghe ai và tin ai.
Xã hội con người và sự sống vì thế thành phức tạp, sự bất ổn đã xảy ra triền miền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, hết nơi này đến nơi khác, trong các xã hội văn minh của loài người.

Cứ theo chu kỳ những cuộc đấu tránh lớn lại diễn ra.
Con người được giải thoát đó, nhưng tiếp theo lại bị cuốn tiếp vào một chu kỳ bất công bất ổn khác, cho dù đã có bao nhiều bài học kinh nghiệm lịch sử đã được rút ra v.v … nhưng chỉ vô ích khi nguyên nhân gốc rễ của vấn đề chưa được lý giải bằng một minh chứng sáng tỏ.
Vì thế các chu kỳ bất ổn (cách mạng hay chiến tranh) xảy ra thường có nội dung “TƯƠNG ĐỒNG NHAU”. Tựu trung lại, một là do tranh chấp về quyền lợi (lòng tham), hai là do mâu thuẩn về quyền thế (bất công áp bức), ba là do bất an về công lý (nhận thức), cộng chung lại thành tâm lý bất ổn.
Về nội dung bản chất nó là như nhau, nhưng chỉ khác về qui mô hình thức, về thời gian chu kỳ, hay về cách thức nguyên nhân tạo ra ngòi nổ xung đột.
Nhưng mục đích chung vẫn là vì “QUYỀN LỢI VÀ CÔNG LÝ (chân lý)”.
Cho dù tất cả đã được cảnh báo từ trước, nhưng con người vẫn không thoát được vòng lẫn quẩn của thói quen nhận thức và tâm lý.
Phe “giàu tiền giàu thế” luôn tin rằng lần này sẽ “áp đặt khôn khéo hơn nên nhất định sẽ thành công”, phe “nghèo tiền nghèo thế” thì nhất quyết “lần này họ không để bị lừa nữa” … , cuối cùng mọi sự “đối thoại hai chiều” kết cục phải dẫn đến bế tắc … và vết xe đổ ngày nào lại được tái tục diễn ra … theo thời gian …

Bên “giàu tiến giàu thế” gọi chung là “giai cấp trên” với đại diện là “chính quyền”, tất nhiên được tầng lớp giàu hết mình hậu thuẩn.
Bên “Nghèo Tiền Nghèo Thế” gọi chung là “giai cấp dưới”, có đại diện tự nhiên là “Giới Trí Thức Tiến Bộ”, được đa số nhân dân luôn sẵn sàng ủng hộ.
Hai đại diện của hai phía, đối đầu nhau có lúc thắng lúc thua, song tất cả đều trải qua nhiều tổn thất vì “lời nguyền” của …  “Thượng đế”.
Quá trình đấu tranh như trên cũng là quá trình xã hội phát triển tiến lên.

Vấn đề đặt ra là vì sao loài người không thể phát triển trong bình yên đoàn kết, thì sự sống có phải đạt nhiều ý nghĩa và nhiều hạnh phúc hơn không ?
Nguyên nhân vì … con người nhìn chung chưa thật tin ở  … “Trời”. Hay chính xác hơn con người chưa hiểu ra thế nào là “qui luật tự nhiên” mà trời đất đã xếp đặt, dành cho thế giới loài người là gì  …

Loài người có một mong ước muôn thuở là được sống trong “một môi trường hòa bình hạnh phúc vĩnh cữu”.
Nhưng bằng con đường nào, bằng những lý giải ra sao ?
Đã có nhiều triết lý, nhiều chủ nghĩa, nhiều tư tưởng được nêu ra, song đến nay mọi ứng dụng xem ra vẫn còn chưa ngã ngũ.
Có thể sự sống cần có một đáp án khác hợp lý hơn, hiệu quả cụ thể hơn.

Sau đây một hướng truy tìm đáp án khác được giới thiệu  …

Giả sử rằng, loài người sinh ra là để được sống trong “hòa bình hạnh phúc”, những bất ổn chỉ là tạm thời trong quá trình tiến hóa của lịch sử.
Vậy đâu là con đường dẫn đến sự tất yếu trên.
Phải chăng đó là con đường của các tín ngưỡng, tôn giáo. Có thể nó là một phần nhưng chưa phải tất cả. Bởi đã qua bao nhiêu thời gian mọi sự ở trần thế vẫn còn ở lừng chừng giữa đúng và sai, thiện và ác, v.v...
Như thế tự nhiên có thể còn tiềm ẩn một lời giải nào khác, mà loài người thế gian chưa khai thác đến.

Mấu chốt vấn đề có thể nằm ở lời giải của bài toán “ý thức”.

Trước tiên ý thức là nguồn lực chính để trí não con người vận hành. Nó là điểm khởi đầu của mọi vận động tư duy sinh tồn mà con người có thể có. Nói cách khác, nó là đầu tàu của sự sống, là gốc rễ trực tiếp của nhận thức.
Giả sử, nếu cái gốc rễ hay cái đầu tàu trên, vì một lý do ngẫu nhiên nó bị mắc sai lầm, thì phải chăng toàn thân và đuôi tàu kéo theo sẽ phải chịu chung số phận.
Nếu ví dụ hình tượng một chút, ta nói nếu tình cờ ý thức bị sự cố “cúp điện”, thì cả hệ thống tư duy não sẽ bị rơi vào “bóng tối”. Khi ấy kiến thức dù có lớn lao thế nào, cũng phải đành vô dụng, hoặc phải hoạt đồng trong “mù quáng” mang tính hên xui ...
Như trên cho thấy vai trò trọng yếu của ý thức đối với sự sống con người, là rất to lớn, xứng đáng để con người tập trung nghiên cứu tìm hiểu nó một cách hết sức nghiêm túc và cẩn thận.

Ý thức trước hết là một tồn tại khách quan ngoài ý chí con người.
Tuy con người thường xuyên sử dụng ý thức trong cuộc sống, nhưng thực tế “hiếm khi có thời gian” dành cho ý thức một cách tương xứng.
Nếu cẩn thận quan sát, chúng ta sẽ thấy ý thức không vô tư (trung tính) như ta nghĩ. Nó có thể biến hóa thành xấu hoặc tốt, sai hoặc đúng, tội đồ hoặc anh hùng, v.v… tùy theo quá trình con người ĐÃ ỨNG XỬ với nó như thế nào. Hay nó đã được ĐÀO TẠO ra sao trong quá khứ của thời con người còn trẻ.

Theo cách đặt vấn đề như trên, ta thấy con người và ý thức là hai chủ thể có sự độc lập tương đối với nhau.
Tuy thông thường con người chỉ thấy, “ý thức là ta” hay “ta là ý thức”. Cả hai là một.
Nhưng sự thật cả hai không là một. Vì đại diện cho cái ta (cá nhân) là ý chí (ý muốn) chứ không phải là ý thức.
Ý thức chỉ là một công cụ ghép thêm vào Ý Chí.
Nếu vậy ý thức đại diện cho ai? Cho cái gì ?

Trong cuộc sống, có ý chí nào mà không kết hợp với ý thức, và ngược lại. Vì thế cả hai là sự liên kết rất bền vững.
Muốn tách chúng ra để nghiên cứu không phải là việc đơn giản.
Tuy nhiên do chúng liên kết chặt với nhau, nên ta có thể tìm hiểu ý chí thông qua ý thức, hay ngược lại.

Để tìm hiểu ý thức, nhất thời ta có thể thay đổi ý chí theo một nội dung khác (nên chọn nội dung tích cực làm thí nghiệm), không giống với những nội dung thông thường hằng ngày ta quen dùng. Kết quả sau một thời gian, ta sẽ thấy ý thức có sự thay đổi theo mô hình “nhất thời” mà ý chí đã chủ động dựng (kịch) ra để thử nghiệm.
Kết quả ta thu được một “ý thức mới” từ cuộc thí nghiệm trên.

Tiếp theo ta theo dõi sự tương quan giữa “ý thức mới”với “ý chí cũ”.
Kết quả cho thấy, sau thời gian “ý chí cũ” cũng dần dần thay đổi nội dung theo mô hình “ý thức mới” đang có. Cứ như thế, cả hai có thể nương vào nhau tạo điều kiện biện chứng cho nhau thay đổi.
Ví dụ, thay đổi theo hướng tích cực tiến lên do ý chí ta muốn.
Quá trình trên cũng là lúc cá nhân bắt đầu nhận thức ra “vai trò tác động của ý thức đối với sự sống” là như thế nào. (Chú thích: xem thêm phần sau)
Ví dụ: ý thức đang đúng hay sai, thiện hay ác, v.v…

Để tìm hiểu ý thức toàn diện hơn …
Trước tiên ta giả sử ý thức đang mắc sai lầm.
Điều này đúng hay sai? Lần lượt chúng ta có những lý giải sâu đây.

Xã hội loài người hiện đang có nhiều bất ổn trong quan hệ, suy ra sự sống bất ổn. Nếu thế ta có quyền qui cho ý thức là nguyên nhân chính gây ra những hiện tượng trên, vì ở đâu ta cũng thấy có sự hiện diện của nó, nên nó là nghi can số một.
Suy rộng ra các hiện tượng tiêu cực khác như, những mâu thuẩn, tính bạo lực, sự đau khổ, sự mất niềm tin, v.v… đều có chung một nguyên nhân, ý thức.
Nếu vậy, ý thức, có khả năng là một tội phạm ẩn danh nguy hiểm bậc nhất đối với sự sống loài người từ trước đến nay (từ thời thủy tổ loài người …), nhưng chưa bị phát hiện để qui nguyên nhân (kết tội).

Vì chưa ai minh định ra tội danh đầy đủ của ý thức, nên nó được xem là “vô tội”. Tuy nhiên cuộc sống đòi hỏi phải có tội phạm để qui, nếu có xuất hiện một hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội.
Và thông thường người ta qui cho cá nhân (ý chí) phải chịu trách nhiệm. Thực tế là ý chí đang gánh tội thay cho ý thức (một cách oan ức).
Nên thực tế nhiều khi con người cảm thấy như mình bị oan ức khi cuộc sống đã biến mình trở thành một “tội phạm”, vì ý chí của mình nào có muốn.
Tóm lại, trong sự sống ý chí không muốn làm sai, nhưng ý thức đã đưa ý chí cá nhân vào thế “phải làm sai - ngoài ý muốn” ...

Tội của ý thức lớn hay nhỏ tùy theo khoa học nghiên cứu và định luận.
Tuy nhiên nó cũng tùy vào sự cảm nhận chủ quan của mỗi cá nhân đối với vấn đề.
Bởi ý thức kết hợp chặt chẽ với đa dạng tư duy của não, trong bao gồm tư duy cảm xúc và tư duy lý trí. Nên khi ý thức bị phê phán đau buồn, thì nó cũng gợi cảm xúc đau buồn kèm theo đối với cá nhân.
Suy ra, nếu cá nhân phán xét ý thức một cách công minh và trung thực, thì e rằng cá nhân sẽ phải tự chuốc lấy nỗi đau … khó chấp nhận.
Cuối cùng ý thức thường được con người bao che, cho dù lắm khi cá nhân cũng mơ hồ cảm nhận thấy … nó đang “có tội” (với lương tâm).

Đây là điều thách thức lớn lao, khi con người muốn lý giải đến tận cùng, đâu là nguyên nhân bất ổn của sự sống.
Như thế nguyên nhân xâu xa của “bất ổn” có phần do … “Ta xử Ta chưa công minh”.
Đây là vấn đề thấy đơn giản trong nhận thức, nhưng thực tế trong cuộc sống, nó là một thách thức không nhỏ đối với một người bình thường. Vì thế xưa nay việc “tu thân” luôn là một nỗi khó khăn không dễ vượt qua với rất nhiều người.
Mà điều này có ảnh hưởng quyết định đến mục tiêu chúng ta muốn tìm hiểu, đâu là chân tướng tận cùng của “ý thức”.

Cuối cùng vì ý nghĩa lợi ích lớn lao của sự sống, bắt buộc đến một lúc, có thể do thiên thời địa lợi …, do qui luật tiến hóa, do ý chí quyết tâm, v.v…  , con người có thể chiến thắng được “cái tôi” bảo thủ một cách triệt để.
Nhờ đó chân tướng trung thực của “ý thức” hoàn toàn lộ diện.
Đến khi ấy, mọi giá trị sẽ được trả về đúng với địa chỉ ban đầu của nó. Công – tội, đúng – sai, thiện- ác, v.v… thuộc về ai, thuộc về địa chỉ nào, do đâu gây ra, v.v…  sẽ được kết nối về đúng chỗ cũ, trong công bằng và hợp lý.
Khi ấy sự sống mới có điều kiện trở về trạng thái đơn giản dễ hiểu bình an như nó vốn có.

Cái sai của ý thức, nếu có, dù thế nào cũng không do con người muốn. Có người cho rằng do kiếp trước để lại, do trời đất đày đọa và xử phạt con người, v.v … .
Ở đây chúng ta cho rằng, tất cả là do thời thế tiến hóa ... phải mở đầu bằng những sai lầm thì sau mới có các thành công để gặt hái.
Nên nhiệm vụ lúc này là đi tìm con đường trả lại cho ý thức sự đúng đắn ban đầu, mà vì cuộc sống đã làm nó bị đánh mất.


Thế là hành trình đi tìm lời giải cho “ý thức” cần được tiếp tục hoàn thành …


Ý thức, bản thân nó là vô tội. Đó là điều chắc chắn.
Bởi “nhơn chi sơ tính bổn thiện”.

Song ý thức bị mang tiến có tội (phạm sai lầm), khi nó bị môi trường xã hội tác động – trong khi ý chí chưa đủ năng lực bảo vệ nó.  (xin xem “Cách Sống Mới”)
Nay nếu ta muốn ý thức trở lại con đường “hoàn lương”, thì một là cố gắng làm thay đổi hoàn cảnh sống, và hai là, nâng cao ý chí lên tầm hiệu quả (bằng cách nâng cao nhận thức, v.v…) nhằm đủ khả năng tác động tích cực đến ý thức.
“Nâng cao ý chí”, vấn đề này có thể thực hiện được nếu cá nhân có quyết tâm. Nhưng để làm thay đổi môi trường xã hội, thì đây rõ ràng là vấn đề đỏi hỏi phải có … học thuyết, phải có chủ nghĩa thích hợp.

Do không còn sự chọn lựa nào khác, nên cuối cùng bài toán “học thuyết” cũng được đặt ra để nghiên cứu tìm đáp án ...

Nhưng  … cuối cùng vấn đề trên cũng đặt ra yêu cầu, phải hoàn thiện nhân tố “ý thức” trước thì bài toán “học thuyết” mới tìm thấy lời giải như yêu cầu.
Vì chỉ có nó mới đủ lực, đủ cơ sở, làm thay đổi tận gốc từ thượng đến hạ tầng kiến trúc xã hội, cũng như hạ và thượng tầng kiến thức của con người.
Muốn thế, chúng ta phải ra sức nâng cao ý chí tích cực lên nhiều hon nữa … thì mới đủ hi vọng mở rộng cánh cửa “ý thức” đến tận cùng.

Như thế một lần nữa, bài toán “ý thức” được đặt ra. Nó là gì, bản chất nó ra sao, v.v… tất cả cần có những lời giải đáp rõ ràng minh bạch.

Những thắc mắc nêu trên thực chất là muốn hỏi về, bản chất sự sống con người là gì, con người là ai, mục đích sống thế nào, hạnh phúc ra sao, v.v…
Mà đây là những vấn đề thuộc về chủ đề “thế nào là bản chất của loài người”.
Nếu thế đây là những vấn đề không nhỏ …
Vậy nay chỉ với một số trang giấy thô sơ này, e rằng nó có đủ điều kiện chăng để hoàn thành một nội dung mang tính rất cơ bản này.
Hay đây là vấn đề theo đúng lý ra, nó phải được … “tạo hóa- tự nhiên” trang bị cho loài người ngay từ sớm, ngay từ khi loài người mới nhận quyết định … “giáng hạ” xuống trần thế …
Nhưng tiếc rằng thực tế đã không như mong ước, mọi thứ đều rất thiếu và rất thiếu ...

Loài người sống ở thế gian rất khác với muôn loài.
Sự sống muôn loài có thể nói là rất bình an và tự nhiên, vì đặc tính vô thức của nó.
Trong khi loài người từ khi bị “đày” xuống trần gian … đã luôn cảm thấy bất an âu lo  đủ điều, bởi đặc tính ý thức của mình.
Có thể vì “Trời” cho con người còn ít quá. Ví dụ như, một chút “ý thức”, một chút bản năng khi mới sinh, một chút cá tính khi trưởng thành, v.v … thế là hết. Với vốn sống như thế e rằng không đủ để ứng phó trước vô số vấn đề đặt ra từ cuộc sống …
Tuy nhiên, “những trang thiết bị ban đầu” kia biết đâu cũng đủ để giúp loài người thoát khỏi những nan giải của cuộc sống. Vấn đề là phải biết khai thác nó.
Nếu thế, chúng ta hãy tiến hành rà soát lại tất cả những trang thiết bị kia để xem nó thế nào. Nếu tạo hóa- tự nhiên đã khéo lo cho tất cả, thì điều này thật là phúc đức với loài người.


Cuộc sống khó khăn một phần cũng có thể do được hưởng nhiều ưu đãi, nên bù lại loài người phải trả một cái giá tương xứng chăng.
Hay do sự tự tôn quá đáng, mà loài người- cá nhân đã phải sa vào những tính toán sai lầm chủ quan, dẫn đến sự lạc lối trước những qui định của tự nhiên ...
Chỉ khi con người ý thức được “quyền năng giới hạn” của mình, thì kỹ năng nhận thức “qui luật tự nhiên” mới có điều kiện phát triển.

Ý thức là công cụ cơ bản mở cánh cửa “trí tuệ” của loài người.
Con người cần có ý thức để tư duy vận động, lý giải các vấn đề đa dạng của cuộc sống. Nếu máy mắn nó đạt thành công thì được khen thưởng, nếu bị thất bại nó phải có trách nhiệm.
Như thế ý thức có thể đúng hoặc sai đối với trí tuệ con người.
Ta có thể gọi nó là “ngọn hải đăng” khi nó đang phát huy tính tích cực đúng đắn, ngược lại nó là “sương mù” khi nó cản trở trí tuệ con người tiến đến chân lý sống.
Vậy ý thức vừa là tiêu cực, vừa là tích cực, nếu xét tùy hoàn cảnh.
Với não, ý thức là đầu tàu trí tuệ chỉ là đuôi tàu. Khi đầu tàu sai, đuôi tàu lật bánh.
Nay nếu chúng ta cho rằng ý thức đang mắc sai lầm và con người muốn chỉnh sửa lại, thì điều chắc chắn là phải trả giá không rẻ.
Nhiều người thấy thế sinh ngại, nên thường người ta thích chọn con đường … “thà phạm sai lầm còn hơn khắc phục sửa chữa” để khỏi phải gánh sự mệt mỏi ... - (tiếc rằng trong sự sống khó ai tránh mắc sai lầm trong ý thức - Xem “Cách Sống Mới”.)


Muốn tìm hiểu ý thức, chúng ta có thể tra cứu qua sách báo, thăm hỏi kinh nghiệm dân gian, nghe những lời giáo huấn của các tôn giáo, v.v …
Nhưng nhìn chung kết quả tìm thấy không nhiều, không rõ, nhất là xét góc độ khoa học.

    Theo “Cách Sống Mới”, ý thức là sản phẩm trực tiếp của tâm (A1  và A2).
“Tâm” là một khái niệm diễn tả nội tâm. Chữ “Tâm” với dân gian được hiểu là tính thiện. Song với HTNT, nó là trung tâm điều hành về nhân cách (đạo đức) của con người. Vì thế nó bao gồm cả tính ác và tính thiện.
 Chữ “tâm” (dân gian) được dùng phổ biến trong giới người “tốt, tích cực”, còn lại có người cảm thấy dị ứng” với nó. Do vậy “ý thức” cũng là một khái niệm khó hiểu (khó lý giải) đối với một số người.

Ý thức, là một thực tại không hình dáng, không mùi vị, không âm thanh, không ổn định trạng thái để dễ cảm nhận, v.v… , nên nói chung là không thể diễn tả cụ thể về nó. Nó chỉ có thể được xác định qua minh chứng và phân tích.
Vì thế ý thức không thể tự ý thức về chính nó.
Suy ra nếu nó đã sai hay đúng, thì “ý thức” không thể tự cảm nhận được. Nên khi  con người đã bị hỏng nhân cách hay biến dạng như thế nào đó,  thì cá nhân đành chịu không thể tự điều chỉnh khắc phục được (nếu không nhận được sự phê phán từ mọi người xung quanh).
Như các triết gia từng nói “ta tư duy là ta tồn tại (ý chí)”.
Mà ý thức là “thầy” của tư duy, suy ra cũng là “thầy” của sự sống (ý chí). Nếu một mai thầy chỉ dạy sai, sự sống tránh sao không thất bại (đau khổ).

Nay nếu con người muốn dùng trí tuệ và ý chí để quản lý “ông thầy” (ý thức), thì đây rõ là một nhiệm vụ bất khả thi nếu xét về nguyên tắc.
Nhưng do “ông thầy” … mắc sai lầm nhiều quá, nên buộc ý chí phải phấn đấu “quản lý” cho bằng được “ông thầy” biến chất kia, với hi vọng sẽ đem lại sự tốt đẹp cho quá trình tư duy cuộc sống của con người.
Để đạt được mục đích trên, chúng ta phải dùng phương pháp “đi đường vòng”, bằng cách  hướng ý chí tiến vào tâm trước, kế từ tâm ta quay lại giám sát ý thức.

Khi vào tâm con người mới thấy rằng, nhiều vấn đề tâm (A1) nghĩ một đàng, ý thức đi diễn đạt một nẽo (vì bị A2 tác động) – (xem “Cách Sống Mới”). Nên cuối cùng cuộc sống không đạt như ý muốn.
Vấn đề cần chĩnh sửa là làm sao cho ý chí của tâm (A1) và ý chí hành động (B) – (xem “Cách Sống Mới”) - phải trùng khớp với nhau. Tức là ý thức đã nằm dưới quyền quản lý của ý chí và trí tuệ.
Hay vấn đề trên có nghĩa, con người đã hoàn toàn chịu dưới sự quản lý của qui luật tự nhiên.

Bằng nhiều cách (thời gian, sự cố gắng của ý chí, lòng quyết tâm, v.v... - xin xem “Cách Sống Mới”) cuối cùng con người cũng có thể hoàn thành được mục đích trên, tức là “làm chủ được ý thức” (xem diễn giải cụ thể trong các phần tiếp theo).
Cuối cùng cái không thể đã được hoàn thành.
Hay ngược lại nó có nghĩa, con người hoàn toàn có khả năng từ bỏ lối sống chủ quan tự phát, để xây dựng kỹ năng sống hòa nhập theo qui luật tự nhiên.
Kết luận, ý thức chỉ có thể được nhận diện và làm chủ được nó, khi con người chủ động xây dựng lối sống phù hợp với các điều kiện tự nhiên do tạo hóa qui định cho loài người.
Như thế xưa nay Ý THỨC đã MẮC SAI LẦM trong phạm trù “quan hệ”, do chưa nhận thức đầy đủ các qui định của qui luật tự nhiên đối với sự sống con người là gì. Từ đây nó dẫn đến sự sai lầm lớn nhất của ý thức ... TÍNH CHỦ QUAN TỰ PHÁT.


Sau đây là hành trình đi tìm cơ sở minh chứng cho các kết luận trên …

Để khám phá ý thức, như đã dự kiến chúng ta sẽ chọn hướng tìm từ tâm, mà cụ thể là nội tâm. Vì đây là nơi biểu đạt trung thực nhất các nội dung của tâm (vô thức), dưới dạng của công cụ “ý thức”.
Tuy nhiên việc khám phá nội tâm, khác nào việc …  khám phá đại dương vậy. Bởi tục ngữ có câu: “lòng sông lòng biển dễ dò, đố ai lấy thước mà đo lòng người.”
Như thế đây thuộc loại công việc làm mãi không thấy kết quả.

Tuy nhiên nếu lòng người đã quyết và nếu bắt đầu từ đáy biển cạn trước … thì hi vọng sẽ nhiều ... Nếu như gặp may lớn (trời cho),  thì biết đâu cái không thể sẽ thành cái có thể …
Và may thay đều hi vọng trên đã biến thành sự thật …
Quá trình dò tìm bước đầu đã thu được kết quả. Từ đây, công cuộc dò tìm càng được cố gắng đẫy mạnh hơn, đồng thời mạnh dạng tiến dần ra những đáy “lòng” xa hơn và sâu hơn ...

Sau nhiều năm tháng cố gắng phấn đấu, kết quả sơ kết như sau:
-    Một là, tác phẩm “Bút Ký Ngôn Ngữ A”,
-    Hai là, tác phẩm “Lối Sống Hiện Đại” (tóm lượt từ tác phẩm trên, với dụng ý phổ thông hóa  …).

Sau thời gian dò tìm “đáy lòng” rộng và sâu, người dò tìm có đủ cơ sở để kết luận từ góc độ khoa học, “sự sống là một hệ lý giải hoàn chỉnh (học thuyết)”. Từ hệ lý giải nó tạo nên Cơ Chế Vận Động Tư Duy của mỗi cá nhân, phù hợp với tâm sinh lý và hoàn cảnh sống của cá nhân đó.
Cơ Chế Vận Động Tư Duy của mỗi người là do ba yếu tố cơ bản sau đây kết cấu thành, Ý CHÍ, TÂM, Ý THỨC. Nếu một trong ba yếu tố này thay đổi nhân cách con người sẽ thay đổi.
-    Trung tâm điều khiển mọi vận hành của cơ chế trên là TÂM.
-    Đầu vào và đầu ra của tâm là Ý THỨC,
-    Ý chí có nhiệm vụ tổ chức và định hướng cho cơ chế vận động trên, một là theo hướng tự phát (đã làm), hai là theo hướng do tự nhiên qui định (chưa làm).
(ý chí cũng là cửa ngõ cuối cùng để tạo ra hành động)
Cơ Chế Vận Động Tư Duy là “bộ máy tinh thần” của mỗi người, và cũng là “trí tuệ” của mỗi nhân cách.
Dựa trên những thành quả ghi nhận trên, học thuyết mới hình thành và nó mang tên “Học Thuyết Nhân Tâm” (HTNT).

Sau đây là các tác phẩm giới thiệu đại cương về HTNT:
-    Một là, “Cách Sống Mới”
-    Hai là, “Mở Cánh Cửa Tự  Nhiên”
-    Ba là, “Ý Thức”.
(và hai tác phẩm khác sẽ được giới thiệu sau)
Trong HTNT, “Ý Thức” là cơ sở luận quan trọng thứ hai sau “Cách Sống Mới”.



I – MỘT SỐ KHÁI NIỆM DẪN NHẬP.
  
    Như chúng ta đã biết, ý thức có nguồn gốc tại tâm.
 Nếu con người thích sống thiên về tâm (A1), thì sự cảm nhận về ý thức không khó. Ngược lại nếu thiên về tâm (A2) thì sự cảm nhận sẽ khó khăn hơn.
Cảm nhận ý thức (từ A1), có thể ví như cảm nhận được … ý trời.
(Chú thích: nói “cảm nhận ý thức” là nó đến từ A1. Vì ý thức mọi người đang dùng, nhìn chung, là đến từ A2.)
Tuy ý thức là đối tượng có thể “thấy” được do cảm nhận tư duy, nhưng muốn nghiên cứu nó không dễ. Trong khi tâm là một đối tượng hoàn toàn không thể “thấy” được, nhưng ngược lại nó tương đối dễ nghiên cứu hơn, vì thông qua quan sát kết quả sống (lao động quan hệ) là có thể suy ra bản chất nội dung của tâm (vì tất cả sự sống là do sản phẩm từ  tâm tạo ra).
Ví dụ, một hành động sát nhân, ta có thể suy là do tâm ác.
Trong khi ý thức, phải dùng phân tích lý luận để nhận diện.

Ý thức và tâm là hai mặt của một vấn đề.
Để đảm bảo tính trung thực trong nghiên cứu cặp phạm trù này, người nghiên cứu cần phải quan sát, suy lý, phân tích, tổng kết, từ nhiều góc độ trải nghiệm cuộc sống, từ kinh nghiệm dân gian (trong và trên thế giới), v.v… trước khi đúc kết thành những luận điểm mang tính nguyên lý cơ bản về con người, sự sống và xã hội.
Tất cả được tạm gọi là hoàn thành, khi mọi suy lý trên đều thỏa về mặt lý thuyết đến thực tiễn ứng dụng. Cuối cùng tất cả được chấp nối, liên kết lại thành một hệ luận nhất quán, mang tính giá trị không thời gian tuyệt đối (dưới góc nhìn của tác giả).

Sau đây chúng ta diễn giải và giới thiệu sơ nét về các tác phẩm:

    1 - “BÚT KÝ NGÔN NGỮ A”, ghi lại những suy niệm ban đầu về thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả, từ góc độ ý thức A1.

    2 - “LỐI SỐNG HIỆN ĐẠI”, rút gọn từ tác phẩm trên dưới dạng thương mại hóa phổ thông hóa … thử nghiệm.

    3 - “CÁCH SỐNG MỚI” là những đúc kết mang tính luận điểm khoa học, dựa trên những nhận thức ban đầu trong “Bút ký ngôn ngữ A”.
Tác phẩm minh chứng, tư duy con người vận hành có nguyên lý, có điều kiện … chứ không đơn giản chỉ tuân theo các ý chí chủ quan của con người. Đây là luận cứ cơ bản để kiến tạo nên học thuyết mới, HỌC THUYẾT NHÂN TÂM (HTNT).
  
    4 - “MỞ CÁNH CỬA TỰ NHIÊN”, các lý giải nhằm ứng dụng HTNT vào cuộc sống, đồng thời giới thiệu về mô hình xã hội mới hiệu quả hơn.
Đến đây, vấn đề phạm trù “con người” vẫn chưa được minh chứng sáng tỏ. Vì thế cần có thêm tác phẩm để minh giải bổ sung, tác phẩm “Ý Thức” ra đời.

    5 - “Ý THỨC”, tác phẩm nghiên cứu về bản chất con người, về chân lý sống, về ý nghĩa đời người, về hạnh phúc, v.v….
6 -  …


HTNT là sự phản ánh về cuộc sống theo góc nhìn chủ quan của tác giả.
Tuy nhiên sự phản ánh trên đã thông qua nghiên cứu, kiểm nghiệm, chọn lọc, từ nhiều góc độ khác nhau. Nên nó mang tính khoa học khách quan, vấn đề còn lại tùy thuộc vào sự thẩm định của đọc giả.
Vì tin rằng nó mang tính khách quan trung thực, nên học thuyết mới có quan điểm trung lập với mọi quán điểm tư tưởng khác, trên tinh thần vì sự sống hạnh phúc con người và xã hội làm tiêu chí luận bàn so sánh.
Nếu bản chất thế gian chỉ có một chân lý sống, thì mọi lý lẽ tích cực cuối cùng sẽ phải gặp nhau tại một điểm hội tụ thống nhất.

Về phần mình tác giả tin rằng, HTNT là học thuyết mang tính chất của chân lý sống phù với qui luật tự nhiên, nên nó có khả năng tạo sự hội tụ thống nhất trước mọi luồn tư tưởng khác nhau trên thế giới.

Các hệ tư tưởng tích cực khác nhau trên thế giới, nhìn chung đều dựa trên chân lý sống để triển khai. Tuy nhiên do khác nhau về thời đại và môi trường phát triển xã hội, nên cách hiểu và cách đặt vấn đề của mỗi người không giống nhau, dẫn đến cách lý giải phải khác nhau về sự sống.
Nếu xét từ góc độ khoa học, mọi góc nhìn đều ít nhiều mang tính hợp lý nhất định của nó. HTNT với tư cách là nhân tố đến sau, cùng với điều kiện môi trường nhận thức thông tin thế giới thuận lợi hơn, nên hi vọng thành quả nó đạt nhiều khả năng tốt hơn.
Để hoàn thành một học thuyết mang tính khoa học toàn diện, đỏi hỏi nhiều điều kiện minh chứng khắt khe khách quan hợp lý và hiệu quả.
Trong số có hai điều kiện tối thiểu để đạt chuẩn mực giá trị, một là không dùng quyền lực để buộc mọi người phải công nhận giá trị chân lý của mình, hai là công khai để mọi người cùng tham gia hoàn thiện học thuyết (mở), nơi ấy mọi người sẽ là cùng tác giả và cùng chịu trách nhiệm tính hiệu quả của nó.
Một học thuyết mang tính khoa học, trước hết nó phải ngả về quyền lợi nhân dân làm kim chỉ nam triển khai. Muốn thế nó phải chứng minh bằng cách nào quyền lực xã hội phải thực tế thuộc về NHÂN DÂN, chứ không thuộc về các thế lực nào khác hay thuộc về chính quyền như hiện nay và trong quá khứ.
Và may mắn đây lại là một phần tất yếu trong chân lý sống, mà tạo hóa- tự nhiên đã qui định.
Một học thuyết mang tính chân lý, tất yếu phải thỏa các điều kiện trên.

HTNT được hình thành từ kinh nghiệm dân gian là chính, vì vậy bản chất của nó không nằm ngoài mục đích phấn đấu vì lợi ích nhân dân.
Bù lại để phát huy hiệu quả sức mạnh của nhân dân, xã hội chỉ có thể chọn học thuyết chân lý làm kim chỉ nam phát triển thì mới đạt hiệu quả.
Biết rằng mọi con người đều từ nhân dân mà trưởng thành (ngoại trừ vua chúa …), kể cả chính quyền và các đảng phái. Vì thế bảo vệ quyền lợi nhân dân, thực chất là bảo vệ quyền lợi của mọi người, mọi thành phần xã hội.
Vấn đề của xã hội (thời bình) là thống nhất mọi ý chí khác nhau thành một sức mạnh thống nhất, mà không cần dùng đến quyền lực vũ khí áp đặt. Điều đó có nghĩa, phải bằng phương thức nào để mọi sự cạnh tranh về quyền lợi, đều trở thành sự cạnh tranh vì sự đoàn kết xã hội trên cớ sở phân chia lợi ích chung và riêng một cách hợp lý.
Điều trên chỉ có thể trở thành hiện thực, khi con người nhận thức ra bản chất sự sống là hoàn toàn phụ thuộc vào CHÂN LÝ GỐC (CLG). Từ đây con người sẽ tìm ra các lẽ phải- chân lý (LPCL) được dùng để giải quyết trong các vấn đề mâu thuẩn đời thường.
 Đây là lời giải hiệu quả cho cuộc sống mới, xã hội mới.

Như thế sự sống con người và xã hội cần có hai yếu tố cơ bản để đạt thành công là CLG và LPCL. Vậy ta tạm gọi hai yếu tố trên là chân lý sống hay chân lý.

Muốn tìm chân lý cho cuộc sống, trước hết chúng ta hãy tìm hiểu bản chất sự sống con người là gì, và dựa trên cơ sở nào để hình thành quan điểm SAI hay ĐÚNG nơi con người.
Trong số các hướng nghiên cứu, thì ý thức là điểm xuất phát nhiều triển vọng như chúng ta đã biết.

Và vấn đề đã được tiến hành như sau:
Khi ý thức vận động, tư duy vận động (tư duy là tiền đề của ý chí ).
Muốn tìm hiểu ý thức, cần phải cô lập tư duy trước.
Nội dung phổ biến của tư duy là “hưởng thụ vật chất”.
Sau hưởng thụ vật chất, là … “hưởng thụ tinh thần (trí tuệ)” - (vấn đề tuy chưa được xã hội chính thức công nhận, nhưng thực tế đã minh chứng).

Trong hưởng thụ tinh thần, hưởng thụ phẩm chất đạo đức là một nhu cầu mang tính truyền thống. Song nó cũng là nền tảng trật tự xã hội, tiền đề của ổn định và phát triển.
Trong hưởng thụ phẩm chất đạo đức, hưởng thụ tình người là đỉnh cao trong các giá trị quan hệ. Nó vừa là cội nguồn vừa là mục tiêu của sự sống, vừa là chỉ dấu về cái tôi đang tồn tại.
Sự sống mà thiếu tình cảm như cây phải mộc bi thiếu nước.

    Để phẩm chất đạo đức trở thành tiêu chí hưởng thụ đúng nghĩa của cuộc sống, vấn đề đòi hỏi “sự sống” cần được định nghĩa lại một cách hợp lý và đúng đắn (khoa học). Bởi nếu không khéo, đạo đức trở thành vật cản của phát triển, là gánh nặng trong quan hệ, là nỗi khổ ràng buộc đối với những người đang ở thế phải tuân thủ vì lợi ích của những người đang ở thế trên, v.v..., thay vì nó phải đem lại niềm vui công bằng cho mọi người nói chung.
Vấn đề trên đồng nghĩa với yêu cầu định nghĩa lại, “thế nào là sự quan hệ đúng đắn giữa con người với con người” (đặc biệt quan hệ chính quyền với nhân dân).
Suy cho cùng đây là một trong các vấn đề nan giải của mọi thời đại. Giải đáp được bài toán này xem như sự sống loài người đã có phương án giải phóng từ cơ bản.
  
Để tìm đáp án, trước hết con người cần có một kênh đối thoại hiệu quả với nhau.
Tức là cần có một quan điểm trung lập, làm cầu nối trung gian kết nối mọi quan điểm nghịch, mâu thuẩn, bảo thủ … thành có thể hiểu và tiến đến đồng thuận với nhau.
Bởi đối thoại mà không cùng quan điểm, thành “ông nói gà bà nói vịt”, kết quả sẽ không đi đâu về đâu, hoặc có khi sinh hiểu lầm mất đoàn kết.
Để có một quan điểm trung gian làm cầu nối, sự sống đòi hỏi phải có một học thuyết  nhằm minh chứng thế nào là một quan điểm trung lập.
Một học thuyết như trên nếu có, chỉ có thể là “học thuyết chân lý”. Vì chân lý là trung điểm tuyệt đối có thể giúp con người hội tụ mọi sự khác biệt thành một ý chí thống nhất.

Chân lý cuộc sống, qua khảo sát thực tế, nó có thể được tìm thấy tại TÂM (thiện) (lương tâm hay tâm A1). Nó là một năng lực bẩm sinh có ở tất cả mọi người. (Xem “Cách Sống Mới”)
Tâm cũng là nơi thể hiện quyền lực của tạo hóa- tự nhiên đối với con người (thường gọi là qui luật tự nhiên).
HTNT là học thuyết phát triển trên nền tảng của “Tâm”.
Nếu trên thế gian này chì có một chân lý sống, và mỗi người chỉ có một tâm thiện, thì có khả năng HTNT là một “học thuyết chân lý”.
Nếu được như thế, HTNT sẽ là quan điểm trung gian có thể giúp mọi người tìm thấy tiếng nói chung cho dù rất khác nhau về quan điểm sống.



II – SỰ TIẾN HÓA TRONG LÝ LUẬN

Theo Mác xã hội loài người đã có những thay đổi sâu sắc từ khi xuất hiện chế độ tư hữu trong quan hệ xã hội.
Có tư hữu là có nhu cầu làm giàu cá nhân.
Ngoài nhu cầu sinh tồn con người còn muốn trở thành người giàu có, vì thế phải cạnh tranh đối đầu nhau … bằng tất cả sức lực và tính mạng nếu có thể.
Đây là đặc điểm của xã hội văn minh.
Khi xã hội có người giàu lên, tất yếu phải có người nghèo xuống. Lâu dần nó tạo thành hiện tượng phân hóa xã hội. Xã hội phân thành nhiều giai cấp, nhưng tiêu biểu có hai giai cấp cơ bản, một là giai cấp ưu thế về tài sản vật chất, và hai là giai cấp khó khăn về tài sản vật chất.
Hai giai cấp trên có hai mức sống rất khác nhau. Nhiều người cho như thế là vô lý và bất công. Nên xã hội phát sinh tư tưởng đối kháng, muốn đòi lại sự công bằng cho sự sống.
Đến một thời gian sự mâu thuẩn trên biến thành một cuộc cách mạng bùng nổ …

Mặt khác khi con người có lợi thế về vật chất là nghĩ đến lợi thế về quyền lực, nhằm đảm bảo sự an toàn cho số tài sản họ đang được hưởng. Kết quả xã hội hình thành một sự liên minh giữa giai cấp giàu với giai cấp quyền lực, nhằm đối phó trước mọi biến động không có lợi cho họ.
Do lịch sử phát triển, quyền lực đến một lúc nó tách ra trở thành như một nghề mới trong xã hội văn minh. Nghề này ngoài khả năng đem lại danh vọng và uy quyền cho những người có điều kiện theo đuổi nó, nó còn đem lại sự giàu có nếu người ta muốn. Mặc dù trên danh nghĩa, người có quyền lực là những người được thuê nhằm phục vụ chung cho xã hội.
Phe của giai cấp giàu và quyền lực, bao giờ cũng là thiểu số trong xã hội. Nhưng họ nắm giữ gần hết điều kiện sống cơ bản của toàn xã hội. Vì vậy họ chiếm lợi thế gần như tuyệt đối trước mọi đối kháng của nhân dân.
Nên các phong trào đấu tranh của nhân dân lúc đầu đều vấp phải thất bại.
Đứng trước thực tế trên triết gia Các Mác đã đưa ra lời giải, là xóa bỏ Chế Độ Tư Hữu (làm giàu cá nhân) để thay bằng Chế Độ Công Hữu, thì các mâu thuẩn xã hội sẽ bị tận diệt từ gốc rễ.

Nhưng quan điểm của Mác khi đem ứng dụng vào thực tiễn, nó chỉ thành công lớn trong đấu tranh lật đổ cướp chính quyền. Nhưng sau đó, trong xây dựng Chế Độ Công Hữu, nó đã bị thất bại.
Đặc biệt người dân trong thời kỳ ấy, bị cấm nhận xét công khai về chế độ mới nếu không đồng tình. Hậu quả là xã hội bị tuột dốc về kinh tế, đạo đức, giáo dục, văn hóa, xã hội, v.v… Các hiện tượng tham nhũng, quan liêu, lạm quyền, v.v… trở nên phổ biến.
Nếu trước xã hội tư bản áp bức người dân do tự phát, không chính thức, không hệ thống đồng bộ, không có chủ trương lớn, v.v… , thì nay sự áp bức như được hợp thức hóa … dưới hình thức các lời lẽ, những lý luận hoa mỹ (khó hiểu), đồng thời sẵn sàng trừng phạt cứng rắn nêu ai quyết chí tỏ thái độ khác biệt …
Giờ đây đảng, chính quyền, quân đội, bộ máy thông tin, v.v…. tất cả tạo thành một sức mạnh tổng hợp gần như chỉ với một mục đích … chống lại mọi sự khác biệt của nhân dân một cách triệt để, nhằm duy trì chế độ.
Xã hội đang tiến theo quan điểm “đây đã là chân lý”,“ai khác biệt là khó sống” trước  “bạo lực bao trùm”.

    Bởi người ta tin rằng chân lý là phải áp đặt (dù nhỏ hay lớn, dại hay khôn), lâu dần mọi người sẽ quen và chấp nhận. Nhưng quen và ngoan sau được, khi sự sống trái với qui luật tự nhiên, trái với bản chất con người.
Như thế là lấn quyền của tạo hóa- tự nhiên, là tội ác đối với con người.
Có tội là có vay, có vay phải có trả, không trước thì sau, không cách này thì cách khác …
Luật tự nhiên là như vậy, muôn đời vẫn không thay đổi.
Chỉ có điều hậu quả nhiều khi không đến ngay với người ra chủ trương sai lầm, trong khi nhân dân và xã hội phải gánh chịu những hậu quả trước mắt.
Nếu học thuyết M-L không phải là học thuyết chân lý, thì hậu quả nó gây ra là vô cùng khi người ta tin tưởng nó tuyệt đối trong vận dụng.
Xã hội M-L về sau tuy có chút “đổi mới, nhưng mới ta cũ người. Hơn nữa, “đổi mới” nhằm nội dung giá trị tích cực (về lý thuyết) của học thuyết Mác, trong khi phần nội dung tiêu cực và phi nghĩa nhất (chuyên chính, cơ chế độc quyền, … trong thực tế) vẫn được giữ nguyên.
 Thế là học thuyết Mác mất giá trị cơ bản, xã hội đang phiêu lưu với một chính thể “phong kiến độc tài lạc hậu mang tính tập thể” … . Nó thiếu cơ sở chứng minh, không một tác giả chịu trách nhiệm toàn diện và có uy tín, cứ thế a hèm nhau tiến lên …  để cùng hưởng cùng bạo lực với dân …

Kết luận, xã hội M-L là một ví dụ điển hình về sự sai lầm của ý thức, khi nó tạo nên một sự ngộ nhận lớn lao về khái niệm chân lý, để cuối cùng cái thiện và cái ác hoán đổi vị trí trong nhận thức một cách tài tình và ngoạn mục.
Càng làm thiện (phải, trung thành) thành ác, làm ác (trái, chống lại) lại hóa thiện.
Hậu quả là, nhân cách xã hội bị biến dạng, lý trí bị sa sút, cuộc sống trở nên kỳ lạ không bình thường.
Sai một li đi một dặm …

Tất cả là do bài toán ý thức chưa được lý giải minh bạch, bản chất con người chưa được minh chứng sáng tỏ.
khi đầu tàu ý thức bị qua mặt, thì lý trí vẫn tin rằng “đang đi đúng hướng”. Trong khi  mọi người không đồng thuận (trừ một thiểu số) … - nhưng phải im tiếng trước chính quyền.
Muốn kiểm tra sự đúng- sai, đơn giản chỉ cần cho đối thoại công khai giữa chính quyền với nhân dân (trí thức khác quan điểm làm đại diện).
Ai là nhân dân, trước mắt tất cả những trí thức có quan điểm khác biệt với chính quyền lúc này, là đại diện chân chính của nhân dân. Vì chỉ có họ mới hiểu ra những vấn đề phức tạp của xã hội và cuộc sống, trong khi nhân dân bình thường do hoàn cảnh xã hội bị nhiễu thông tin nên chỉ có thể cảm nhận sự bất động nhưng không thể minh chứng trước các áp đặt của quyền lực.
(Chú thích: đối thoại công khai, nếu kết hợp … HTNT càng thuận lợi.)

Thực tế đã minh chứng, con người dù tài năng và yêu nước, nhưng không đồng hành cùng qui luật tự nhiên (học thuyết sai), sẽ dẫn đến thất bại.
Trong khoa học, tất cả chỉ là tương đối khi tính hiệu quả không còn.
Học thuyết M-L dù đúng đắn thế nào nhưng hiệu quả đã giảm, cũng phải đưa lên mổ xẻ phân tích ...
Người ta không thể viện dẫn bất kỳ lý do gì, để né tránh việc xem xét một hiện tượng khi nó có vấn đề.
Nếu trước đây vì nhiều lý do chưa làm được, thì nay nên làm không nên để quá trể.
Trong lĩnh vực xã hội, sự phản biện của các trí thức, cộng với ý kiến toàn dân, sẽ là lời phán xét cuối cùng cho một giá trị mang tính xã hội.

Vấn đề xã hội tất yếu phải thuộc quyền toàn dân quyết định.
 Thế nhưng ngày nay, người ta có thói quen dùng phương thức bầu chọn, để tập trung quyền lực của nhân dân về cho những người được trúng cử.
Phương thức bầu chọn như trên thực chất mới đạt về hình thức, còn nội dung mục đích thì chưa.
Vì thế giới đến nay chưa có “ngôn ngữ” (học thuyết) của riêng nhân dân, nó chỉ có đối với thế giới quyền lực.
Nên mọi kết quả bầu chọn cuối cùng, ít nhiều không phản ánh hết quyền lợi của nhân dân.

Chỉ có học thuyết chân lý, mới là điểm tựa, là tiếng nói đại diện đúng nghĩa quyền lợi của nhân dân.
Từ học thuyết chân lý, xã hội bầu chọn đại diện theo hệ thống diễn đàn, như đã giới thiệu trong tác phẩm “Mở Cánh Cửa Tự Nhiên” (cùng tác giả). Nơi đây các ứng cử viên có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với nhân dân trong một quá trình lâu dài, nên việc nhận xét đề cử bầu chọn con người sẽ hợp lý hơn.
Từ những người được bầu chọn này, mới chọn ra những người đại diện chung nhất cho xã hội. Đến đây phương thức bầu chọn có thể áp dụng theo các hình thức đang có hiện nay trên thế giới.
Sự bầu chọn dù tích cực thế nào cũng mang tính tương đối, trọng tâm chính của bộ máy xã hội thuộc về cơ chế dân chủ trong xã hội ( bao gồm hệ thống diễn đàn, học thuyết chân lý, cách sống mới, v.v…) phải đạt hiệu quả.
Cơ chế dân chủ đạt hiệu quả sẽ là động lực, giúp bộ máy chính quyền (những người đắc cử) làm việc công tâm khách quan, không lạm quyền, xứng đáng là những người được thuê để phụng sự hết mình cho người chủ tối cao là nhân dân.

Như thế xã hội loài người dù có tổ chức bầu chọn tốt đến đâu nhưng không có học thuyết chân lý  dẫn đường, thì con đường dẫn đến bất ổn là khó tránh khỏi.
Muốn có học thuyết chân lý trước tiên phải xác định chân lý sống là gì.
Con đường khám phá chân lý sống … nó phụ thuộc chính vào sự tiến hóa của xã hội loài người, cùng với những tác động của thiên thời địa lợi nhân hòa, v.v…. Chứ nó không đơn thuần do công trình nghiên cứu chủ quan từ một cá nhân hay tập thể, khi điều kiện khách quan chưa hội đủ.
Để được gọi là chân lý sống, khi nó được mọi người công nhận. Nếu còn một người chưa công nhận thì chưa thể gọi là chân lý sống.
Nếu con người bị áp đặt phải công nhận một giá trị bất kỳ là chân lý (ví dụ do tác động của quyền lực), thì riêng phương thức truyền đạt chân lý đã mắc sai lầm, nói chi đến “kỹ năng giác ngộ chân lý”.
Vì thế phạm trù chân lý là một vấn đề phức tạp, nó không đơn giản bằng cách “áp đặt” là xem như đã thành công.


Một vài ví dụ về nhận thức khái niệm chân lý:
Ví dụ 1: máy móc, vi tính, điện thoại, xe hơi, máy bay, v.v…, nôm na là những thành quả chân lý thuộc thế giới lý thuyết vật chất. Mọi người đều công nhận giá trị lợi ích của các sản phẩm trên.
Ví dụ 2: chống giặc dốt, chống giặc ngoại xâm, v.v… là những khẩu hiểu chân lý vì ai cũng công nhận giá trị lợi ích của nó.
Ví dụ 3: “mọi người phải yêu quý học thuyết X”, nếu không sẽ bị trừng phạt. Kết quả  không ai công nhận học thuyết X là chân lý, mặc dù ngoài mặt ai cũng công nhận. Đơn giản vì người ta thấy nó không có lợi, nhưng vì sợ nên phải công nhận cho qua.

Như thế chân lý chỉ khi mọi người tự nguyện công nhận do lợi ích thiết thực của nó mang lại.
Tự nguyện công nhận theo nghĩa, mọi người được mở rộng tầm nhìn mọi hướng, so sánh, và cùng bàn luận để chọn ra điều mọi người cho là đúng nhất.
Điều đúng nhất được mọi người (xã hội, loài người) công nhận, phải có giá trị về không thời gian tuyệt đối, thì mới gọi là chân lý.
Để thỏa các điều kiện trên, sự sống cần có một học thuyết chân lý làm công cụ hỗ trợ  mọi người hiểu ra “thế nào là chân lý”, thay vì phải chờ đến không thời gian vô hạn mới có thể kết luận.

Trong khi chưa tìm thấy chân lý, thế giới hiện nay có thói quen dùng phương thức bầu chọn để thay thế. Người hay nhóm người được bầu chọn, vô hình trung, được xã hội công nhận là người đúng nhất (và đã được mọi người đồng tình), nên có khả năng đưa ra những quyết định mang tính chân lý.
Đây là phương thức giải quyết tình thế, nhưng nhiều người ngộ nhận nó là tuyệt đối. Thế là một số người đã nhanh chóng ngộ nhận mình là … “ông trời con”, tự cho mình có quyền tự do muốn làm gì tùy thích từ quyền lực và tài sản của xã hội.
Kết quả, nhiều xã hội rơi vào thất bại.
Nguyên nhân là do sự bầu bán chưa phải là phương thức tối ưu của những vấn đề nan giải của thời đại.
Mà vấn đề thuộc về sự nhận thức của con người về sự sống.

Nếu nhìn lại các chế độ trong xã hội văn minh, chúng ta không khó nhận ra, nơi ấy sức mạnh quyền lực chiếm vị trí trọng tâm trong điều hành (quan hệ) xã hội. Bởi họ thiếu chân lý làm kim chỉ nam.
Biết rằng chân lý sống luôn nằm về phía nhân dân hơn là phía chính quyền (tầm cao trí tuệ). Vì vậy khi xã hội còn dùng quyền lực làm công cụ chính trong quản lý xã hội, thì chân lý còn bị ức chế phát triển.
Tình hình trên sẽ còn kéo dài cho đến khi loài người tìm ra học thuyết chân lý làm lối thoát. Nơi ấy vai trò “lẽ phải tự giác” sẽ có môi trường phát huy thế chỗ của “quyền lực áp đặt” đã tung hoành trong suốt chiều dài lịch sử phát triển đến nay.

Mặc dù nhìn chung sự sống vẫn còn những bất bình thường, song loài người vẫn  tiến lên, quyền làm chủ của nhân dân đã được cải thiện.
Nhưng chưa đủ.
Nó chỉ đủ và đúng khi chính quyền “phải giao trả lại cho nhân dân quyền làm chủ xã hội đầy đủ” (về lý thuyết và thực tế).
Một khi yêu cầu trên chưa được đáp ứng, thì lãnh đạo nơi đâu dù có tài năng bao nhiêu cũng thành … “bất tài, không hoàn thành nhiệm vụ” ...
Vấn đề cho thấy, khi sự sống đang trong “thế cờ sai” thì con người dù tài năng thế nào, cũng phải “chào thua” - (con người thường thắng trong cứu chữa hậu quả, và thua trong xây dựng. Hoặc thắng trong phát triển vật chất, thua trong phát triển tinh thần (đạo đức, tội phạm)).
Để thoát khỏi thế bí trên, xã hội chỉ có cách … “bố trí lại thế cờ khác”.
Ví dụ: học thuyết này sai dùng học thuyết khác, chủ nghĩa này sai chuyển sang chủ nghĩa khác hợp lòng dân hơn.

Thế cờ sai lớn nhất của xã hội loài người ngày nay, đang thuộc về bài toán “ý thức”.
Chỉnh sửa “ý thức” là chỉnh sửa lại quan điểm sống (định hướng sống).
Ý thức, về hình thức nó là cái gốc của trí tuệ. Mà trí tuệ, đa phần do thói quen chủ quan hay do phản xạ có điều kiện mà thành.
Những phản xạ này truy ra, có nhiều phần mang tính truyền thống lâu đời tạo nên. Chứ nó không do cá nhân hay một thời đại nhất thời sáng tác ra.
Vì thế vấn đề vượt qua (rào cản) tổng số thói quen trầm tích trên, là cả một thách thức gian nan phức tạp. Nhưng nếu không hoàn thành nó, con người sẽ mãi bị dậm chân trong chủ quan sai lầm.
Đồng thời nó cũng là nguyên nhân cản trở con người tìm đến ý thức nguyên thủy.

Vượt qua thói quen thực chất là thay đổi nó.
Điều này đòi hỏi phải có thời gian. Phải có những minh chứng hợp tình hợp lý để thuyết phục vì sao phải thay đổi từ thói quen này sang thói quen kia, v.v...
Nếu thỏa được các điều kiện yêu cầu trên, ý thức có thể tìm về chính mình (nguyên thủy) sau một quá trình luyện tập hoàn thiện thói quen mới, nhận thức mới.

Như thế cuối cùng con người cũng tìm được ý thức nguyên thủy như mong muốn.
Và nó đã được ghi chép súc tích lại thành “HTNT”, như chúng ta đang được giới thiệu.
Nếu thành quả trên được xã hội công nhận, thì đây là một bước tiến trong lý luận và nhận thức về vấn đề “sự sống con người và xã hội”.



III – GIỚI THIỆU HỌC THUYẾT MỚI

 Học thuyết Mác-Lê có thể là học thuyết đầu tiên trên thế giới, đặt vấn đề lý giải xã hội loài người dưới góc độ khoa học toàn diện và triệt để.
Cho dù kết quả chưa đạt như mong muốn, nhưng nó đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận của loài người.
Mác muốn chứng tỏ, loài người hoàn toàn có đủ khả năng tự định đoạt sự sống đau khổ hay hạnh phúc, thông qua những minh chứng khoa học. Thay vì chỉ dựa trên các quan điểm  của tôn giáo, thiên về sự cầu nguyện từ sự cứu giúp từ ơn trên, v.v...
Sự tiên phong nào cũng cái gian nan khó khăn của nó.

Khó khăn của học thuyết Mác là chịu ảnh hưởng mạnh từ trào lưu vật chất hóa sự sống, khi KHOA HỌC VẬT CHẤT (KHVC) đã gặt hái những thành công phi thường.
Nó khiến cho nhận thức của mọi người nghĩ rằng, hiệu quả đồng nghĩa với “khoa học”, mà “khoa học” thì đồng nghĩa “vật chất hóa”.
Suy ra “học thuyết xã hội loài người” cũng bị “vật chất hóa”.
Tuy nhiên loài người khác với vật chất, vì nó có ý thức, có tâm hồn, có tình cảm, v.v…  Vì thế quan điểm vật chất hóa xã hội loài, sẽ đưa thế giới đến thảm họa …

Lời giải đơn giản nhất theo tác giả, là hãy “KHOA HỌC HÓA TINH THẦN” thì học thuyết về xã hội loài người sẽ đạt giá trị thành công.
Nói cách khác loài người đã có “KHVC”, thì nay nên bổ sung thêm “KHTT” cho đồng bộ. Nếu theo con đường này thì sự sống con người sẽ được khoa học hóa toàn diện.
Cũng có nghĩa sự sống loài người sẽ được chính xác và hiệu quả hóa như trong khoa học vậy.
Suy ra hòa bình, đoàn kết, thịnh vượng và hạnh phúc cho thế giới loài người, sẽ là những thành quả tất yếu của khoa học. Nếu như đề bài toán đặt ra là đúng đắn và lời giải cho ra kết quả hợp lý.

KHTT là gì ?
KHTT là HTNT. Hay ngược lại.
HTNT cho rằng sự sống con người được cấu tạo từ hai yếu tố cơ bản, “tinh thần và vật chất”.
Cả hai tác động biện chứng lên để hình thành nên CÁCH SỐNG của mỗi cá nhân.
Tùy thời kỳ hay tùy hoàn cảnh đối với cá nhân hay xã hội, mà có thể yếu tố này hay yêu tố kia đóng vai trò quyết định đối với yếu tố còn lại. Như thế không thể nói “ai tuyệt đối hơn ai, cái nào tuyệt đối hơn cái nào”.
Mỗi yếu tố giữ một thế giá trị đặc biệt của nó đối với sự sống con người, không thể có sự hoán đổi vị trí cho nhau khi điều kiện sống chưa cho phép.
Tuy nhiên nhìn chung trong điều kiện mức sống phát triển của thế giới ngày nay, thì vai trò của tinh thần đang chiếm vị trí quyết định hơn so với vật chất.
Lý do vì,
Một là do mức sống bình quân loài người đã cao, và đặc biệt cao đối với một thiểu số người rất ít nhưng lại đóng vai trò ảnh hưởng rất lớn đối với đa số còn lại.
Hai là sau thời gian dài khiếm khuyết kiến thức KHTT, nay nhu cầu trở nên cấp bách hơn bình thường.
Ba là do bản chất sự sống con người khi phát triển đến một giới hạn, tự động có nhu cầu giác ngộ đỉnh cao về mức sống tinh thần (chân lý “sống để làm gì?”).

Hiểu theo nghĩa thông thường, tinh thần là tất cả các vận động của não. Hiểu cao hơn một chút, là các vấn động não mang tầm “trí tuệ”.
Định nghĩa theo góc độ của HTNT trong “Cách Sống Mới”, tinh thần là khái niệm ám chỉ các vấn đề thuộc phạm trù quan hệ (giữa con người với con người, cá nhân với nội tâm).
Đối với loài người, có vận động (có chủ đích, có ý chí) nào mà không cần đến não, không cần đến ý thức. Mà ý thức thì đặc biệt chỉ “vật chất người” mới có, nên khái niệm tinh thần cũng chỉ dùng riêng cho LOÀI NGƯỜI là vì vậy.
Nên khi nghiên cứu phục vụ sự sống con người, xã hội không thể chỉ phát triển về  KHVC, mà không phát triển KHTT. Thiếu vế sau, giống như loài người mới xây dựng được cái vỏ (hình thức), nhưng chưa tạo được cái ruột (nội dung) của SỰ SỐNG.
Vì thế nên bị thất bại … đồng bộ đến nay.

Chúng ta lưu ý, khái niệm tinh thần nếu hiểu rộng ra có thể áp dụng trong mọi hiện tượng tồn tại.
Ví dụ: nếu xét một hiên tượng vật chất bất kỳ, thì vật chất là phần hình thức tồn tại, và tinh thần là phần nội dung vận động.
Chúng ta nêu một số luận điểm chung như sau:
- Một là, tinh thần không là một khái niệm chỉ dành riêng để ám chỉ các vấn đề, các nội dung thuộc lĩnh vực tôn giáo, thần linh, thượng đế, v.v…, hay các hoạt động về văn hóa văn nghệ, thể thao, văn chương, giải trí, v.v… (phi vật chất).
Mà nó còn có thể được hiểu và dùng trên phạm vi toàn diện hơn, nhưng không kém phần chính xác và khoa học.
Nó được dùng để phân biệt các hiện tượng mang tính đối lập trong cuộc sống (biện chứng), theo khuynh hướng tinh thần hướng về thuộc tính âm (-) và vật chất hướng về tính dương (+).
Tóm lại cả hai rất giống nhau ở dạng thuyết âm dương, nhưng một bên được dùng trong lý giải cuộc sống với những quan hệ phức tạp đa dạng.
Xét góc độ HTNT, tinh thần có nghĩa cơ bản là các “quan hệ con người”, vật chất có nghĩa cơ bản là các “quan hệ với vật chất” (ngoài con người).
Hai khái niệm này trong KHTT, được dùng chủ yếu làm phương tiện lý giải phân tích các nhân tố phản biện trong sự sống, đồng thời chia chúng ra thành các đơn vị nhỏ dần, để cuối cùng con người có thể tìm đến nguyên nhân gốc rễ giới hạn của vấn đề (sự sống). 

Ví dụ 1: ta nói dương (+) có tính vật chất, âm (-) có tính tinh thần. Tương tự, không gian là vật chất, thời gian là tinh thần. Cố định là vật chất, vận động là tinh thần. Nam có tính thiên về vật chất, nữ tính thiên về tinh thần. Lý trí thuộc vật chất, tình cảm thuộc tinh thần, v.v…                  
Ví dụ 2: ta nói trí tuệ (não) là “tinh thần”, thì thế giới ngoài trí tuệ là “vật chất”.
Ví dụ 3: quan hệ với vật chất là “vật chất”, quan hệ với con người là “tinh thần”. HTNT là học thuyết nghiên cứu về quan hệ con người, nên nó mang tính tinh thần (KHTT).
Ví dụ 4: lao động trí tuệ thuộc về “lao động tinh thần”, lao động chân tay  thuộc về “lao động vật chất”.
Con người sống bằng trí tuệ, nên con người thuộc bản chất “tinh thần”, chứ không thuộc bản chất “vật chất”.
Các loài động vật khác không có trí tuệ (ý thức), nên có bản chất là “vật chất”.
Ví dụ 5: nếu ý thức thuộc “vật chất”, thì vô thức (tiềm thức) thuộc “tinh thần”. Con người sống có tâm là mức sống tinh thần, sống vô tâm là mức sống vật chất.
Sự sống cần phấn đấu tiến từ “mức sống vật chất” lên “mức sống tinh thần”, thì tính ác sẽ chuyển sang tính thiện.

Nhìn chung, vật chất hay tinh thần có một số trường hợp có thể hoán đổi vị trí cho nhau, nhằm đưa phân tích lý luận tiến lên.
Ví dụ, ý thức đối với thế giới bên ngoài nó là tinh thần, nhưng đối với vô thức (tiềm thức) nó là vật chất.

- Hai là, “tinh thần” cũng là vật chất (tồn tại trên vật chất não- nơrôn), nên nó đủ điều kiện để trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học, như bao vật chất khác. Vấn đề là do sự tồn tại của nó chỉ diễn ra chủ yếu trong phạm vi não (qua cảm nhận), nên nó cần có phương thức tiếp cần thích hợp để nghiên cứu.

Tóm lại, KHTT được hình thành nhằm nghiên cứu các hiện tượng còn lại, ngoài các hiện tượng vật chất cụ thể. Trong đặc biệt các vấn đề về chính trị xã hội, về chính quyền với nhân dân, về lãnh đạo, về đạo đức, về qui luật xã hội, v.v…
Tất cả gọi chung là các vấn đề về “quan hệ” là thuộc phạm vi nghiên cứu của KHTT. Với các đề tài nghiên cứu cụ thể như “cách sống”, “ý thức hệ”, “cái tâm”, “ý chí”, “chân lý sống”, “hạnh phúc”, “đau khổ”, v.v… để cuối cùng cộng lại thành một đề tài nghiên cứu chung nhất “SỰ SỐNG CON NGƯỜI”.

Giữa học thuyết cũ (ML) và mới (NT) có sự khác biệt như sau:
·    Học thuyết Mác-Lê cho rằng, nguyên nhân chính thuộc về “BÓC LỘT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ”, nên chủ trương cướp chính quyền, xóa bỏ chế độ tư hữu, thành lập chế độ công hữu, xây dựng nền kinh tế phân phối bao cấp, v.v….
·    HTNT cho rằng, nguyên nhân chính thuộc về “Ý THỨC LỆCH TÂM”. Dẫn đến sự sống loài người phát sinh mâu thuẩn đối kháng, ngộ nhận nhau về quan điểm và mục đích sống. Tưởng rằng chúng khác nhau, nhưng kỳ thực mọi người đều có chung một mục đích sống và một kỹ năng sống cơ bản.
Vì thế HTNT chủ trương điều chỉnh lại ý thức sống thông qua giáo dục, thông qua tranh luận công khai, mọi người sẽ tìm thấy những sai sót cần chỉnh sửa lại, để cuối cùng gặp nhau ở sự đồng thuận, tiền đề cho sự đoàn kết sẵn sàng cùng hỗ trợ nhau xây dựng cuộc sống mới, vì một tương lai mới hòa bình hạnh phúc thịnh vượng chung cho tất cả mọi người trên thế giới.
(chú thích: từ sự khác biệt trên dẫn đến tính chất linh hoạt của mỗi học thuyết.
Một bên là mục đích mang tính cụ thể (vật chất) nên khi vận dụng bị gò bó, mọi sự thay đổi đều có nguy cơ “chống lại học thuyết hay thành ngụy học thuyết”.
Một bên có mục đích trừu tượng (tinh thần) nên rất linh hoạt trong vận dụng. Mọi người ai cũng có thể tham gia trở thành đồng tác giả của học thuyết, miễn là đánh sập “ý thức lệch tâm”.
Suy ra HTNT là học thuyết mở, HTML là học thuyết đóng. Người tham gia vào học thuyết mở sẽ cảm thấy tự do thoái mái, trong khi người tham gia học thuyết đóng luôn cảm thấy gò bó mất tự do.)


Vấn đề chính là cần phải chỉnh sửa lại ý thức, bằng cách thay đổi quan điểm sống, trên nguyên tắc rèn tâm. Bởi tâm là nơi thể hiện bản chất cơ bản của con người (sau yếu tố “gien di truyền”). Tâm có thay đổi thì quan điểm sống mới thay đổi bền vững.
Biết rằng tâm là trung tâm điều hành ý thức. Vì thế khi tâm đổi, quan điểm đổi, ý thức sẽ thay đổi.
Vì “tâm” là một khái niệm bao trùm sự sống, nên quá trình lý giải “tâm” cũng là quá trình kiến tạo nên một học thuyết mới, nhằm lý giải “sự sống con người và xã hội” nói chung. Cũng vì lý do này mà “KHTT” được đề xuất hình thành.

Như vậy HTNT chủ trương vấn đề “CON NGƯỜI” là nguyên nhân trung tâm của mọi hiện tượng bất ổn của mọi thời đại. Do thiếu hiểu biết về bản chất sự sống của giống loài mình, mà loài người gây thành chiến tranh, thành những kẻ thù của nhau, v.v…
Xây dựng “con người mới”, đào tạo “con người mới”, giáo dục “con người mới”, chính là chìa khóa, là khâu quyết định cho sự thành công trong mục đích xây dựng một tương lai, một cuộc sống mới trong một xã hội mới, thật sự tốt đẹp hơn hạnh phúc hơn, và mọi người yêu thương nhau hơn.
Không có “con người mới”, thì dù có thay bao nhiêu cơ chế chính quyền, thay bao nhiêu cơ chế xã hội, xây dựng bao nhiêu tổ chức đảng, tổ chức bao nhiêu cuộc bỏ phiếu trưng cầu dân ý hay bầu chọn người tài năng, v.v… nhưng mâu thuẩn, tội ác, bất công, đau khổ, quyền lực áp đặt, bất ổn, v.v…  vẫn mãi tái sinh và thống trị trong thế giới loài người.

Loài người thực chất chưa hiểu hết về mình, nếu xét góc độ khoa học, nên mới ra nông nỗi.
Để hiểu rõ về mình, làm chủ được mình, con người cần trải qua quá trình tự rèn luyện một cách hợp lý và khoa học. Từ bộ máy chính quyền, đến bộ máy giáo dục, đến gia đình, đến cơ chế xã hội, đến mỗi cá nhân, v.v… tất tất đều hợp sức nhau hoàn thành một nhiệm vụ chung “xây dựng một  cuộc sống mới tốt đẹp hơn”.
Chứ không phải “mạnh ai nấy làm giàu, có gắng mau thăng quan tiến chức, phấn đấu  tìm hạnh phúc riêng, thờ ơ quay lưng với hậu quả để lại v.v… mặc cho những vấn đề xã hội đi về đâu”.
Sự nghiệp giáo dục sẽ thành công khi con người làm chủ được qui luật sống tự nhiên, đồng thời tự giác hòa nhập lối sống với nó.
Trong hiện tại, không ai đúng tất cả, không ai sai tất cả. Nhưng khi con người biết hợp sức lại thì những sai trái sẽ dần bị đẩy lùi, những điều đúng đắn sẽ dần tăng lên.
Nguyên lý sự sống không khó, nhưng do nhận thức chưa đúng nên hình thành thói quen “quyết gây khó cho nhau” … , nên sự sống thành rất phức tạp và khó khăn, nhất là đối với những người đang chiếm ưu thế rất lớn trong xã hội.

HTNT được hình thành, nhằm giúp con người có công cụ khám phá sự sống và tìm hiểu lẫn nhau, từ những hiện tượng bất bình thường đến những hiện tượng phức tạp nhất. Tất cả chúng là gì, và bằng cách nào để điều chỉnh sửa chữa khắc phục.
Theo HTNT, chân lý sống nằm tại tâm, và là cứu cánh của đời người. Còn lại tất cả chỉ là phương tiện phục vụ cho mục đính chính ấy. Phương tiện có thể thay thế hay hủy bỏ, nhưng mục đích chính không bao giời thay đổi.
Song trong thực tế cuộc sống “có thực mới vực được đạo”, phương tiện (“thực”- vật chất) cần phải được chuẩn bị trước một bước, sau mới tính đến mục đích (“đạo” - tinh thần). Song trong suốt quá trình vận động sinh tồn như trên, con người không được quên đâu là mục đích chính và đâu là mục đích phụ.
Nay phương tiện (thực) xem như thời đại đã đảm bảo, vấn đề đang thiếu là mục đích chính (đạo).

Muốn có “đạo” xã hội cần có học thuyết để minh chứng, giúp mọi người ngộ ra đâu là con đường hạnh phúc thật sự để đi. Thay vì để mỗi cá nhân phải tự lý giải sự sống theo sự chủ quan tự phát, điều kiện tư duy khó có thể thấu đáo toàn diện, cuối cùng thành phí thời gian, công sức, của cải, đời người, v.v… mà kết quả hiếm khi được như ý.
Vì thế cần có một học thuyết hỗ trợ.
Để học thuyết có sức thuyết phục, nó cần phải có điểm tựa chân lý.
Từ chân lý, mọi vấn đề sẽ thành đơn giản dễ hiểu, ai cũng có thể tiếp thu hay giác ngộ.
Có chân lý tức là có các LPCL để sử dụng trong các sinh hoạt đời thường.
 LPCL theo tự nhiên, nó phù hợp với đời sống mọi người. Vấn đề là tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội (diễn đàn phổ thông) cùng nhau hợp sức xây dựng các LPCL cho mình,  trên nền của HTNT.
Có LPCL, xã hội sẽ không cần đến “vũ khí” để điều hành xã hội, vì mọi người đã tự giác tuân thủ những định hướng phát triển xã hội mà họ là những đồng tác giả tạo ra.

Bằng cách nào để “quyền lực vũ khí” không còn tồn tại trong quan hệ con người.
Lời giải thuộc về lương tâm (A1), vì đây là nơi đang nắm giữ quyền lực của tự nhiên. Khi mọi người ý thức được vai trò của lương tâm (A1) trong sự sống, thì nó sẽ nhanh chóng trở thành sức mạnh quyết định trong xã hội.
Ta gọi lương tâm (A1) là “trung tâm quyền lực sạch”. Quyền lực của nó là các LPCL do mọi người chung sức tạo nên.

Có người phủ nhận quyền lực của lương tâm (A1), vì cho rằng nó không thật trong cuộc sống đời thường. Nó chẳng qua là sở thích của một số người.
Nhận thức như trên không đúng.
Bởi nó là bản chất tự nhiên của mọi con người. Thiếu nó ý thức sẽ mất đi “động lực” đạt mục tiêu sống bất kỳ (dù đúng hay sai). Vấn đề là tùy mỗi người biết cách vận dụng thì nó biểu đạt phong phú tích cực, còn ngược lại nó sẽ nghèo nàn biến dạng thành nghịch chiều.
Vì lý do trên mà nhân cách con người phát triển không đồng đều (lương thiện và tích cực) trong xã hội.
Như thế lịch sử bất ổn là do “động lực” A1 chưa được phát huy hiệu quả, vấn đề là cần sớm chỉnh sửa lại  ...

Lương tâm (A1) là sức mạnh quyền lực của tự nhiên dành cho loài người. Song con người phải dành sự chú ý để rèn luyện và phát huy nó, thì nó mới trở thành sức mạnh phục vụ tích cực trở lại. Bằng không nó sẽ tự phát thành … những “đòn roi” phản chủ.
Để nhận thức đầy đủ về quyền lực này, con người cần xây dựng nhân cách theo chuẩn mực tự nhiên. Tức là hình thành thói quen xem lương tâm (A1) là lẽ sống (định hướng) chính trong suốt đời mình, thay vì đối xử với nó theo cách tùy thích.
Chỉ có theo con đường tôn trọng và phát huy nó, thì con người mới “ngộ” ra giá trị (lợi ích) to lớn của quyền lực tự nhiên. Đây là tiền đề phát triển tốt nhất cho mọi giá trị vật chất và tinh thần con người đang có.
Nếu không các quyền lợi trên sẽ bị hao mòn do biến dạng.
Ví dụ tinh thần bị thoái hóa, tâm không bình an, niềm tin bị xói mòn, hạnh phúc không trọn vẹn, v.v… Về vật chất, hàng hóa sản xuất bị gian dối độc hại, môi trường sống bị ô nhiễm, chi phí trang bị vũ khí tăng cao, chiến tranh gây tổn thất nặng nề mọi mặt, kinh tế thế giới bị khủng hoảng, đời sống nhân dân bị đe dọa, mọi người xuống đường  chống đối, v.v...

Suy cho cùng, loài người còn tồn tại đến nay chính là nhờ vai trò của lương tâm (A1) đã âm thầm phát huy nâng đỡ. Những bất ổn chính là những lời cảnh bảo để mọi người tìm về quỹ đạo của chân lý sống phù hợp với qui luật tự nhiên.
Song tiếc rằng loài người đến nay vẫn chưa kịp nhận ra những tín hiệu ấy. Nên thất bại tiếp nối thất bại …
Bởi một phần cũng do quyền lực lương tâm (A1) đến nay, vẫn chưa được khoa học công nhận và khai thác chính thức.
Trong khi nó là con đường sống huyết mạch, là người bạn quý luôn chung thủy với loài người.

Con đường khai thác hiệu quả nguồn “tài nguyên” đặc biệt này, là xây dựng một học thuyết mới phù hợp với đặc điểm tính chất của tâm, để mọi người tiện lợi trong nhận thức và vận dụng.
Nếu không sự sống sẽ là cạm bẫy, cho những ai vô tình rơi vào hoàn cảnh điều kiện nhận thức kém.
Nó khiến họ không thoát được sự lôi kéo của những lợi ích trước mắt (vật chất, quyền lực, v.v…), trí óc họ không còn khả năng lắng nghe dư luận rộng rãi, không còn khả năng phân biệt điều phải với điều trái (khi nó phức tạp), v.v …
Phải đợi đến lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, thì mới... bài học lớn đời người được rút ra … gian dở …
Vì gian dở nên các thế hệ sau bị … thất truyền, thế là họ cũng lại tiếp tục bị cuốn theo những thất bại như các bậc tiền bối …
Cứ như thế, căn bệnh chủ quan trái tự nhiên không sao khắc phục. Câu chuyện về “đời cha ăn mặn, đời con uống nước”, “kẻ ăn óc, người đổ vỏ”, v.v… vẫn tiếp tục được truyền tụng …
Đến khi có một học thuyết mới, lý giải nguyên nhân ngọn nguồn của tất cả những hiện tượng trên ...



IV – ĐƯỜNG ĐẾN CHÂN LÝ

Sự sống có hay không chân lý ?
Theo quan điểm tín ngưỡng, chân lý thuộc về thế giới quyền lực siêu nhiên, người trần gian khó mấy ai đạt đến.
Có lẽ đấy là loại chân lý giải đáp nguyên lý vận hành chung của thế giới vũ trụ vô hạn chăng. Nên tất nằm ngoài khả năng nhận thức của người phàm mắt thịt.

Theo HTNT, trần gian có rất nhiều chân lý phổ thông (LPCL). Mỗi chân lý nhằm lý giải một hay nhiều vấn đề đặt ra của cuộc sống.
Tâm (A1) là nơi để con người tham khảo và cảm nhận ra các chân lý ấy.
Khi xã hội phát triển, nhu cầu về chân lý càng phong phú đa dạng.
Trong cuộc sống, qui luật cạnh tranh là một trong các điều kiện không thể thiếu nhằm thúc đẫy xã hội phát triển.
Tuy nhiên nếu chỉ cạnh tranh nhau về lợi ích vật chất, con người sẽ khó tìm thấy sự đoàn kết trong quan hệ. Vì thế xã hội rất cần có thêm sự cạnh tranh về lợi ích tinh thần (giác ngộ chân lý sống), thì môi trường sống mới thật sự trở nên tốt đẹp.
Cạnh tranh về lợi ích tinh thần (mức sống tinh thần), là sự thi đua về khả năng đóng góp của mọi người vào mục đích phát triển chung của xã hội, sao cho cân đối hài hòa và hiệu quả.
Để quan điểm trên trở thành hiện thực, sự sống đòi hỏi phải có chân lý để minh chứng cho vấn đề.


1.    SỰ SỐNG VÀ CHÂN LÝ.

Chân lý là gì ?

Chân lý bao gồm hai loại, “chân lý cảm nhận” và “chân lý ngôn từ”.
Về thành phần gồm có, “chân lý gốc” (CLG) và “lẽ phải- chân lý” (LPCL).

        * Chân lý cảm nhận
Sau thời gian tiếp thu một chuỗi các nhận thức từ lúc tuổi thơ cho đến khi tuổi trưởng thành, mỗi cá nhân đã định hình ngẫu nhiên cho mình một “kỹ năng cảm nhận chân lý sống”. Đây cũng là biểu trưng cho vốn sống của từng người.
Tùy theo số lượng và chất lượng của vốn sống, mà kết quả cảm nhận chân lý đạt giá trị đúng hay sai, tốt hay xấu, hiệu quả cao hay thấp, v.v...
Muốn xây dựng vốn sống tốt, cá nhân trong quá trình trưởng thành cần xác định một điểm tựa trí tuệ , có giá trị ổn định tuyệt đối để triển khai mở rộng chuỗi nhận thức vốn sống.
Nếu chọn điểm tựa chính xác, thì khả năng phát triển mức sống tinh thần sẽ cao, vốn sống đạt chất lượng tốt. Khi ấy điểm tựa trí tuệ sẽ là điểm qui chiếu đồng tâm của mọi nhận thức phát triển.
Điểm tựa trí tuệ như trên, trong HTNT gọi là “Chân Lý Gốc” (CLG).

CLG chỉ có một.
Vì vậy, theo nguyên lý sống, nó phải là sự lựa chọn duy nhất của con người khi tham gia vào “thế giới sự sống”.
Từ CLG trí não sẽ suy ra các LPCL thông dụng (theo quan điểm của HTNT), để LÝ GIẢI SỰ SỐNG.
Các kết quả lý giải sự sống (bằng các LPCL), do còn trong phạm vi của não, nên được gọi là các “chân lý cảm nhận”.
Từ chân lý cảm nhận đến khi phát ngôn thành lời, thành hành động (“chân lý ngôn từ”), còn phải trải qua nhiều rào cản (bị tác động tâm lý, v.v…) phức tạp khác. Nên kết quả cuối cùng nó có thể sẽ không còn giống như ban đầu (như người ta thường nói “nghĩ một đàng làm (nói) một nẽo”). Vì lúc làm bao giờ cũng khó nhiều lần hơn lúc nghĩ.

        * Chân lý ngôn từ
Từ chân lý cảm nhận, cá nhân mới phát ra thành lời (chữ viết, hành động) để mọi người cùng nhận thức và đánh giá. Ta gọi nội dung phát ra thành lời trên là “chân lý ngôn từ”.
(Chú thích:
1- Chân lý có thể được hiểu nôm na, là các lẽ phải đời thường nhưng được suy ra từ CLG theo quan điểm HTNT.
2 – Về cách gọi, có khi gọi LPCL là “chân lý sống” hay “chân lý”. Gọi như thế là không sát với định nghĩa (vì thiếu CLG). Nhưng vì CLG cố định, nên có thể gọi như trên cho đơn giản, hợp với thực tế.)

Chân lý ngôn từ, nói đơn giản là các lẽ phải mà mọi người hay dùng trong quan hệ.
Tuy nhiên không phải mọi lẽ phải như hiện nay đều có thể gọi là chân lý hay LPCL.
Vì mọi người ai cũng có thể nói lẽ phải của mình là đúng nhất, nên xã hội văn minh mới trở thành phức tạp rối loạn, để cuối cùng bạo lực và cái ác có cơ hội tìm thấy đất … dụng võ.
Chung qui là do chưa có định chuẩn cho “chân lý ngôn từ”, nên mới sinh loạn.

Nguyên tắc để được gọi là “chân lý” (LPCL), khi “lẽ phải” được tất cả mọi người công nhận (tuyệt đối), trên cơ sở các minh chứng theo quan điểm HTNT (sau khi đã được mọi người đồng thuận).
Khi đã có điều kiện, tất yếu mọi người nên dùng chân lý trong quan hệ là tốt nhất. Còn những lẽ phải giả hiệu không nên tiếp tục dùng, vì không có lợi cho “sức khỏe” xã hội.

Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, muốn xây dựng lẽ phải thành chân lý, là một nhiệm vụ bất khả thi.
Vì quan điểm sống của mọi người hiện nay rất đa dạng, nên trước một chân lý chưa chắc mọi người thông hiểu và đồng thuận ngay -  loại trừ trường hợp do bị tác động áp đặt.
Bù lại xã hội hiện nay có thể phong cho một vài “lẽ phải” (lẽ trái) là “chân lý” theo các qui ước chung chung (tùy mỗi người nghĩ). Như thế cũng chưa được gọi là chân lý đúng nghĩa.

Thông thường một lẽ phải có ý nghĩa càng rộng (không thời gian), thì mọi người càng khó để nhận thức.
Nhưng nếu nó đúng nghĩa là chân lý, thì tự động sẽ gây ảnh hưởng tích cực đối với cuộc sống. Nhờ vậy thế giới loài người luôn phát triển tiến lên, cho dù khái niệm chân lý chưa một lần được xác định.
Tuy có tiến lên, nhưng phát triển ấy phải trả một giá đắt do các mâu thuẩn trong nhận thức.
Nếu chân lý được đồng thuận ngay từ sớm, thì phải chăng sự sống thế gian sẽ tốt đẹp biết bao ...

(Chú thích: khái niệm “chân lý” (khoa học) chỉ có ý nghĩa khi nó vận dụng trong môi trường HTNT, nơi CLG và quan điểm triển khai đã được xác định, mọi người đồng thuận. Trong phần trên, khái niệm chân lý được dùng như một gợi ý tương đối. )

Một vài tóm tắt về tình hình xã hội hiện nay khi chân lý sống chưa được xác định (HT NT chưa được giới thiệu).
Sự sống nhìn chung là tự phát, quyền lực là trung tâm điều hành xã hội, bên cạnh các lẽ phải tương đối (lẽ trái). Kết quả, xã hội tiến dần về bất ổn theo chu kỳ. Đạo đức, niềm tin, giáo dục, v.v… phát triển không thuận lợi. Mức sống vật chất trở thành lẽ sống quyết định, mức sống tinh thần bị thu hẹp thiếu được tôn trọng.

Nếu chân lý sống được giới thiệu, thì vấn đề có thể sẽ là :
Mọi người được tổ chức tham khảo quan điểm sống mới, đồng thời một số cơ chế xã hội sẽ được xem xét chỉnh đốn lại.
Khi xã hội thay đổi, con người sẽ thay đổi. Ngược lại khi nhận thức thay đổi, xã hội sẽ thay đổi. Hay tất cả cùng thay đổi biện chứng khi có một kích hoạt ban đầu.
Thay đổi nhằm tạo điều kiện cho chân lý sống có điều kiện phát huy, “có đất dụng võ”.
Sự thay đổi sẽ xảy ra trong bình yên, khi mọi người ý thức được lợi ích của nó, qua các minh chứng phù hợp với mọi đối tượng. Nhờ vậy sự giác ngộ theo dự kiến sẽ đến chung với mọi người. Ai giác ngộ trước thay đổi trước, ai giác ngộ sau thay đổi sau.
Giác ngộ là con đường độc đạo để xây dựng con người mới, xã hội mới, cuộc sống mới, tương lai mới.
Mọi sự áp đặt về nhận thức không phải là sự lựa chọn tối ưu, khi con người nhắm đến mục đích lâu dài.

Con người sẽ giác ngộ khi được tiếp cận với chân lý cảm nhận, hay lẽ phải đúng đắn.

 Chân lý cảm nhận được hình thành từ chuỗi các nhận thức, có tính hợp lý hợp lô-gíc mang tính hệ thống hóa. Từ chân lý cảm nhận, sẽ hỗ trợ cá nhân nâng cao các cảm giác chân thiện mỹ, cũng như nâng cao ý thức trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội, hay trong quan hệ, v.v …
Để đạt được chuỗi nhận thức cho ra chân lý cảm nhận như trên, cá nhân có thể nghiên cứu học tập rèn luyện bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường lựa chọn khác nhau, v.v… tùy theo ý thích chủ quan mỗi người.
Tuy nhiên, mỗi người có thể quan sát và suy nghĩ theo đa chiều để lựa chọn, nhưng sau cùng cũng phải trung thành với một con đường (quan điểm sống) duy nhất mà mình đã quyết định. Tất yếu nó phải là tốt nhất theo cách nghĩ của cá nhân.

Tuy nhiên có con đường nào hiệu quả bằng con đường KHOA HỌC, có hiệu quả nào bằng khi luôn có tinh thần lắng nghe đa chiều và sẵn sàng TRANH LUẬN CÔNG KHAI với mọi người trước mọi mâu thuẩn đa dạng (trên thế giới nói chung), để thu lượm ra kiến thức tốt nhất của LOÀI NGƯỜI tính đến thời điểm, có hiệu quả nào bằng khi không bao giờ tự cho mình là đúng nhất (giới hạn) để sẵn sàng thay đổi quan điểm khi xuất hiện một quan điểm khác đúng hơn chân lý hơn.
Con đường lựa chọn như trên, theo quan điểm tác giả, đã được đúc kết thành HTNT.

Bản chất con người (bẩm sinh) cũng có thể không muốn đi theo một con đường (định hướng) cố định nào, vì cho rằng như thế sẽ “mất tự do”. Tuy nhiên mọi con người khi đã sống là đã chọn cho mình một hướng sống (một con đường, một nhân cách, một tương lai, một quan điểm sống, …) dù muốn hay không muốn.
Con đường ấy tự hình thành trong tâm, nó nằm ngoài sự định đoạt của ý chí chủ quan  cá nhân.
Vì thế mọi suy nghĩ tích cực nhưng nếu chủ quan do thiếu kiến thức về tâm, đều rơi vào thất bại (dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế) khi trưởng thành. Nhất là trong khoảng thời gian tuổi đời còn trẻ, kiến thức còn cạn, ý thức tự chủ còn kém, … thì tính chủ quan nông nổi bồng bột sai lầm càng cao.

Cách khắc phục tốt nhất là sự sống nên được chủ động chọn thay cho tâm (tự phát hình thành), con đường phát triển nhân cách thì kết quả sẽ an toàn hơn. Một chút “mất tự do” lúc đầu, để “có tự do” tương lai lâu dài.
Và HTNT là một hướng lựa chọn được nghị như một sự tối ưu.

Khi cá nhân được tiếp cận HTNT một cách hệ thống, đồng thời sau thời gian kết hợp những trải nghiệm thực tế cuộc sống, tham khảo kinh nghiệm nhiều người v.v… , để cuối cùng ngộ ra chân lý sống.
Cá nhân bước đầu là học viên, nhưng sau thời gian họ sẽ là người thầy của chính mình. Vì đường đời mỗi người mỗi khác, nên mỗi cá nhân bắt buộc phải trở thành người thầy của cuộc đời mình. Để đủ khả năng lý giải những vấn đề thuộc phạm vi nhu cầu sống riêng tư (từ tiểu tiết đến đại sự), mà ngoài họ ra không ai có thể thay thế.
Cuối cùng kết quả sẽ được tính trên cơ sở năng lực và sự cố gắng của mỗi cá nhân. Nếu tất cả đều tốt, thì năng lực sống của cá nhân sẽ cao. - Các yếu tố có thể gây ảnh hưởng đến kết quả bao gồm, năng khiếu bẩm sinh, sức khỏe nói chung, truyền thống gia đình, dòng họ, môi trường xã hội, bạn bè, v.v…
Học tập, làm việc, giao tiếp, sinh hoạt cộng đồng, mưu sinh, xây dựng gia đình, thành công, thất bại, niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc, đau khổ, v.v… là những trải nghiệm cần thiết để mỗi cá nhân trưởng thành về nhân cách, quan điểm sống, kỹ năng tư duy, kỹ năng cảm nhân chân lý.

Từ sự trưởng thành trên, mỗi cá nhân có thể tự mình chiêm nghiệm ra chân lý sống (LPCL). Những chiêm nghiệm như thế đúng với mọi người không, vấn đề cần được công khai hóa để mọi người kiểm tra (trong môi trường HTNT).
Trong trường hợp nó không giống với số đông, vấn đề cần rà soát lại quá trình tạo chuỗi nhạn thức của cá nhân xem có nhầm lẫn chỗ nào. Nếu có cá nhân sẽ chỉnh sửa lại ngay từ gốc (tâm và ý thức).
Nhưng nếu kết quả tìm kiếm không tìm thấy sự sai sót nào, khi ấy cần phải đưa ra diễn đàn kiểm chứng lại với những người cấp trình độ cao hơn (lãnh đạo đảng, “trung tâm điều hành KHTT”).
Nếu kết quả vẫn không như ý, thì phần sai có thể thuộc về phía số đông xã hội chịu trách nhiệm, lãnh đạo đảng chịu trách nhiệm, hay HTNT phải chịu trách nhiệm.

Số đông xã hội cũng có thể phạm sai lầm, vì họ đã quen với cách nghĩ truyền thống, cho rằng cái gì đã thuộc về nề nếp lâu đời cha ông … (hay từ các nhà nghiên cứu thời trước, các thói quen tập tục, v.v…) là đương nhiên đúng miễn bàn cãi. Thế là họ … sinh lười,   không thích, không muốn, không quen, không khả năng, hay không chấp nhận bất kỳ sự rà soát nào lại từ đầu (từ tâm, …) toàn bộ vấn đề …
Cũng có thể do một số người  … sợ sai, như thế sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin, đến các lợi ích thiết thân, đến nếp sống đã quen ăn sâu, v.v …
Thực tế cho thấy, mọi giá trị truyền thống dù lâu đời kể cả được nhiều người (không tất cả) đồng thuận, nhưng nếu chưa qua kiểm tra xác minh, đều có thể phạm sai trái như bao hiện tượng khác.
Nếu có điều kiện, mọi hiện tượng đời sống cần được kiểm chứng lại một cách công khai toàn diện khách quan và khoa học, nếu xét thấy có sự phản hồi bất kỳ. Được như thế sự sống sẽ thuận lợi hơn.

Như thế một vấn đề hay một quan điểm lý giải, cần có số đông đồng thuận cộng với một minh chứng khoa học đúng đắn, là đủ để tạo một LPCL.
Tuy nhiên mọi LPCL đều cần có thời gian kiểm chứng trong thực tế, và nó sẽ được điều chỉnh lại khi có biểu hiện kém hiệu quả.

Đến đây chúng ta có thể rút ra kết luận, theo HTNT chân lý cuộc sống không phải là một từ ngữ, một đoạn văn, một câu danh ngôn, v.v…. Đành rằng những đúc kết ấy rất cần để mọi người tham khảo.
Nhưng vấn đề chính thuộc về kỹ năng cảm nhận chân lý (tâm giác) của mỗi người. Đây mới là yếu tố quyết định.
Đôi khi chân lý chỉ là những nhận thức rất đơn giản, nhưng kỹ năng cảm nhận không có (giác ngộ), thì tất cả thành vô nghĩa.

Tóm lại chân lý đối với mỗi đời người, trước hết là một chuỗi các nhận thức mà từ đây cá nhân có thể hình thành nên kỹ năng nghiệm ra chân lý cảm nhận trước các vấn đề của cuộc sống.
Từ cá nhân nhơn lên kỹ năng nhận thức chung xã hội. Khi mọi người có trình độ tương đương “chân lý cảm nhận”, thì “chân lý ngôn từ” mới có điều kiện phát huy tính hiện thực.

Ngày nay khi khái niệm chân lý còn “tự do” nhận thức, song vẫn có nhiều người giác ngộ chân lý đúng đắn theo cách của mình. Chân lý như thế có giá trị đến đâu có thể khó kết luận, nhưng thực tế nó đang góp phần tích cực vào sự phát triển chung của xã hội.
Vì vậy khi có một vấn đề chưa có lời giải tốt trong một tập thể nhỏ, người ta có thể đi tham khảo ở một tập thể lớn hoặc lớn hơn nữa (thế giới), để xác suất tìm thấy lời giải chân lý sẽ cao hơn.
Hoặc nếu biết góp nhặt mỗi nơi một ý kiến, rồi tự mình tổng hợp lại và suy nghiệm ra chân lý theo khả năng. Cái khó của cách này là đòi hỏi cá nhân phải có vốn sống phong phú và tích cực, thì kết quả mới khả thi.
Nhìn chung các chân lý được hình thành theo các phương thức ngẫu nhiên như trên, một là gặp nhiều khó khăn trở ngại (địa lý, khả năng, v.v…), hai là tính hiệu quả thất thường, ba là thiếu một hệ thống chuẩn mực để xác định giá trị chân lý, v.v…
Do vậy xã hội cần có một trung tâm chuyên về KHTT (tạm gọi là “TRUNG TÂM KHTT”), có nhiệm vụ tập hợp mọi kinh nghiệm sống của loài người, đồng thời nghiên cứu ra một hệ thống chuẩn mực định giá trị chân lý, để từ đây mọi người ở mọi tầng lớp xã hội đều có thể tham khảo và tìm thấy những lời giải chuẩn mực (LPCL) cho cuộc sống cá nhân hay những vấn đề xã hội.
Có những vấn đề Trung Tâm KHTT cho lời giải đáp ngay, có những vấn đề trung tập không thể nhưng biết cách vạch ra qui trình để tất cả cùng tìm đến đáp án cuối cùng (cơ chế diễn đàn phổ thông v.v…).
Đơn vị phụ trách Trung Tâm KHKT, chính là tổ chức ĐẢNG như đang có. Có thể nó rất giống về hình thức đối với các tổ chức đảng hiện tại, nhưng khác cơ bản về nội dung như phần trên đã giới thiệu (so sánh học thuyết).

Để “ngộ ra” chân lý có thể nhờ may mắn, nhờ thiên thời địa lợi nhân hòa, v.v… nhưng trên hết vẫn là sự tích cực phấn đấu của cá nhân.
Nếu sự phấn đấu qua trải nghiệm thực tế đa dạng, sẽ cho kết quả giác ngộ chân lý có giá trị sâu và rộng. Ngược lại trình độ giá trị chân lý sẽ cạn và hẹp, hay nó chỉ bó hẹp trong  giới hạn những thói quen nếp sống va chạm thường ngày.
Nhìn chung để có sự một giác ngộ chân lý mang tính toàn diện về bề sâu và bề rộng, nó đòi hỏi nhiều yếu tố thuận lợi cùng lúc phối hợp hỗ trợ khách quan, từ vấn đề môi trường xã hội, thời thế lịch sử, năng khiếu năng lực cá nhân, ý chí, sức khỏe, v.v… và sự may mắn của … phép màu.

HTNT là chuỗi nhận thức của một cá nhân sau hành trình phấn đấu, với hy vọng đạt giá trị chân lý sống ở cấp độ chuẩn mực toàn diện và cơ bản. Nó có thể đảm nhiệm vai trò kim chỉ nam cho sự sống con người và xã hội nói chung.
Xét góc độ khoa học, HTNT là thành quả mang tính tiên phong trong mục tiêu đi tìm chân lý sống theo hướng này. Vấn đề còn lại là sự kiểm nghiệm thực tế ở diện rộng xã hội, và sự phán xét của mọi người.
HTNT còn có ý nghĩa như một sự gợi ý mở đường, qua đây mọi người có thể nãy sinh những ý tưởng khác, những quan điềm chân lý khác đúng đắn hơn, v.v... Tuy nhiên theo sự ước tính từ góc độ HTNT, mọi SỰ ĐA DẠNG Ý TƯỞNG cuối cùng sẽ gặp nhau tại một  “chân lý sống thống nhất” không thể khác.

Nếu dự đoán trên đúng với thực tế, điều đó chứng tỏ học HTNT đã hoàn thành được mục tiêu. Còn ngược lại là thất bại.
Tuy nhiên, bằng những kiểm nghiệm từ nhiều góc độ khác nhau, tác giả tin rằng mọi sự vận động cuối cùng rồi cũng sẽ quay về  đúng với các giá trị chuẩn mực tự nhiên của nó.



2.    CHÂN LÝ GỐC

Làm người ai cũng muốn sống MỘT ĐỜI TỐT ĐẸP VÀ HẠNH PHÚC.
Đây là chân lý gốc (CLG).
CLG có giá trị tuyệt đối về không thời gian.
Con người dù có đi đâu về đâu, vẫn luôn trung thành với CLG của mình.
Vì vậy tất cả loài người đều có chung một mục đích sống và kỹ năng sống cơ bản.
Dựa trên nguyên lý cơ bản này, HTNT vạch ra các nguyên lý cơ bản tiếp theo để đưa xã hội loài người tiến đến quĩ đạo, “hòa bình hạnh phúc thịnh vượng vĩnh cữu”.


a-    Sự lệch tâm của tư duy ý chí.

Cảm nhận CLG là đặc tính tự nhiên của mỗi con người.
CLG là kim chỉ nam cơ bản của sự sống. Nó có nhiệm vụ định ra phương hướng, để mỗi cá nhân có thể tìm ra con đường tiến đến mục đích hạnh phúc của đời mình.

Tuy nhiên nếu cá nhân vận dụng CLG không hợp lý, thì kết quả hạnh phúc đời người sẽ thất bại.
Lý do là sự sống trong thời đại văn minh là một tổng thể phức tạp, con người nếu thiếu cảnh giác đều sẽ bị rơi vào bẫy sai lầm trước những tác động của môi trường xã hội.
Sự SAI LẦM bắt nguồn từ những thay đổi lớn của hoàn cảnh xã hội, trong khi nhận thức của con người về CLG vẫn không thay đổi … từ thời thủy tổ loài người đến nay.
Tức là vẫn HAM THÍCH những LỢI ÍCH TRƯỚC MẮT (gần, cụ thể, tức thời, …)   theo cách nghĩ đơn giản với tỉ lệ hàm lượng chất xác đầu tư vào còn thấp. Nó cần phải tiến lên mức đầu tư tỉ lệ hàm lượng chất xám cao nhiều hơn nữa, thì mới bắt kịp đà tiến của môi trường xã hội.
Nói cách khác con người đã nhận thức sai về CLG khi ứng dụng vào cuộc sống thực tế, nên đã cảm thấy mất phương hướng trong sự lạc lối ấy. Chất lượng sống vì thế không cao, không đồng đều, không ổn định.

Sự sai lầm bắt đầu xảy ra khi con người còn trẻ hay rất trẻ. Khi trẻ đã phạm sai lầm, thì sau thời gian tất cả họ trở thành những người lớn sai lầm trầm trọng.
Khi sự sai lầm chưa được chỉ ra, mọi người càng cố gắng phát huy nó tích cực vì tin rằng tất cả đang đúng hướng. Nhưng kết quả là càng lún sâu vào sai lầm và bế tắc, cũng như phải trả giá cho sự bất cập trong nhận thức.
Người ta có thể đổ lỗi do tiến hóa, nên nhận thức trên một số mặt còn trì trệ. Tuy nhiên trong có sự lợi dụng của một số người kém chất kém tài kém đức, nhưng khéo ngụy trang đổ thừa tiến hóa hòng trục lợi, thì đây là vấn đề khác. Tội họ vẫn đáng được qui ra phân minh, không nên đổ đồng thành “nuôi ong tay áo”, gây cản bước tiến xã hội.
Tuy cùng sai lầm, nhưng mỗi sai lầm có ý nghĩa xứng đáng của nó.

Sự ngộ nhận về kỹ năng sống như trên, bao giờ cũng xảy ra tự nhiên âm thầm (trong tiềm thức) nên nằm ngoài tầm kiểm soát của ý thức (dù trẻ hay lớn tuổi).
Vì vậy nhìn vẻ ngoài năng động tích cực thông minh v.v… , người ta không thể đoán ra sự sai lầm bên trong. Nhưng khi phải đối diện trước những mâu thuẩn của cuộc sống, con người mới bộc lộ ra sự yếu kém của mình trước những vấn đề chung của xã hội (quan hệ và chính trị).
Hiện tượng trên xảy ra phổ biến với nhiều thành phần xã hội. Nhưng một số khác (thiểu số), cũng do ngẫu nhiên tiến hóa, họ lại đạt đến một sự thông thạo khác thường.
Để sự vượt trội trên phát huy tính hiệu quả cũng như tạo điều kiện nhơn rộng đến mọi người, tạo tiền đề cho xã hội thoát khỏi sự thụ động bảo thủ kéo dài như trước nay (trong nhiều thời kỳ), thì vấn đề CLG cần được diễn giải lại một cách công khai chuẩn mực và có hệ thống, sao cho mọi người dễ tham khảo dễ tiếp thu cũng như dễ chủ động trong quá trình tự hình thành nhân cách bản thân.

Có rất nhiều xu hướng định nghĩa về CLG.
Nhưng nếu xét góc độ tự nhiên, sự sống chỉ có một nguyên tắc, một chân lý, một học thuyết có thể tạo sức bật tối ưu.
Cái một duy nhất ấy là “xây dựng cuộc sống tại tâm”. Từ căn bản tâm, con người sẽ cảm nhận CLG khá đơn giản.
Nhiệm vụ của CLG là chỉ ra con đường hạnh phúc cho sự sống. Tuy nhiên đây là con đường chịu ảnh hưởng nhiều đến THÓI QUEN tư duy nhận thức, làm việc, sinh hoạt, v.v … cộng chung lại thành thói quen nhân cách.
Vấn đề là làm sao các thói quen “cố định” ấy phải luôn trong tư thế sẵn sàng linh hoạt, để dễ dàng ứng biến thích nghi ngay với những đổi thay phong phú của cuộc sống.
Muốn như thế, con người phải chọn tâm A1 làm mục đích sống thực tế của CLG. Vì nơi đây hội đủ những kỹ năng ứng phó chuẩn mực trước mọi hiện tượng của cuộc sống, nên nó cho phép mọi thói quen “cố định”, trong quá trình trưởng thành, đều có thể nhanh chóng trở thành “linh hoạt” trước mọi bất thường (sai lầm) trong cuộc sống.
Ngược lại nếu không chọn tâm A1 làm mục đích sống thực tế của CLG, thì cơ chế trí tuệ sẽ sớm muộn cũng bị đúc khuôn mãi mãi vào một khung giá trị bất kỳ (ngoài giá trị của mục đích tâm A1) không dễ để thoát ra.
Người ta gọi như thế là “sự sơ cứng trong tư duy”, “sự bảo thủ”, “sự mù quáng”, “sự cố chấp”, “sự độc tài”, v.v...
Loài người hiện nay không nhiều thì ít, tùy nơi tùy người, đều rơi vào cơ chế trí tuệ “cố định và bảo thủ …” trên. Nếu “nhẹ” thì có khả năng “ngộ” ra những giá trị đúng đắn khi đối diện, “nặng” thì dù có được nghe và thấy bao nhiêu điều hay lẽ phải nhưng vẫn sống chết trung thành với một khung giá trị … “điếc và mù” …

Ai chọn sai nguyên lý sinh tồn trên, gọi là “SỐNG LỆCH TÂM”.
Một cách tự nhiên, mọi con người sinh ra lớn lên đều có khuynh hướng “rơi vào thế” sống lệch tâm.
Nó xảy ra trước khi tư duy ý thức của cá nhân kịp trưởng thành. Tức là trước khi con người có đủ kỹ năng tư duy ý chí làm chủ sự sống bản thân, làm chủ những lựa chọn hướng đi cho đời mình, thì kỹ năng gây mất tự chủ (trong nhận thức chân lý sống) đã chiếm lĩnh cơ bản trung tâm trí tuệ của cá nhân (tiềm thức A2).
Hậu quả là ý thức đã bị mắc sai lầm từ đây, đồng nghĩa trí tuệ luôn bị nhiễu thông tin trong xử lý quan hệ (mất phương hướng lẽ phải, sự thân thiện đoàn kết, v.v…).
Tức là bị ngộ nhận về chân lý sống, về quan hệ, về lẽ phải lẽ trái, về đúng- sai, về thiện- ác, v.v…. Và theo thời gian nó in sâu vào trí não, tạo thành quan điểm sống bất di bất dịch của mỗi cá nhân.
Sau này cho dù cá nhân có nhận thức ra muốn chỉnh sửa lại, nhưng tất cả sẽ rất khó khăn gian khổ nếu muốn chiến thắng. Song nó cũng tùy vào mức độ sai lầm của quan điểm  hình thành.

Nói cách khác từ khi cá nhân có thể tự ý thức về bản thân, có thể tự chọn cho mình một tương lai theo ý thích, thì cũng là lúc sự sai lầm cơ bản đã kịp ẩn mình hoàn hão vào trong tiềm thức (tâm A2). Nên mọi sự chọn lựa giờ đây ít nhiều đã bị lệch lạc, kém giá trị chân lý.
Với những gì đã được xếp đặt, nó buộc cá nhân phải vận hành theo quĩ đạo sai lầm đã được lập trình từ trước.
Ai cài sẵn chương trình cho nó. Chính quá khứ của mỗi cá nhân đã tự cài sẵn “vết xe đổ” cho cuộc đời mình, chứ không ai khác.

Bởi lý do trên, ý thức khi bị rơi vào mẫu số sai lầm lớn, thì trí tuệ cá nhân sẽ khó có cơ hội thoát ra. Nó sẽ thoát ra nếu có sự trợ giúp từ bên ngoài, cộng với nguyện vọng tích cực của cá nhân.
Một biến cố thất bại lớn (do ngẫu nhiên) cũng có thể là một tác động hữu ích, giúp trí tuệ thức tỉnh trước con đường sai lầm.
Sự nghiệp hoàn thiện bản thân bao giờ cũng khó khăn phức tạp, dù ở hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi.
Vì thế số đông thích chọn con đường dễ dãi … của sai lầm, hơn là tự mình phải nghiêm minh với nó.
Đây là thế cờ khó mà tạo hóa- tự nhiên đã mặc nhiên an bày cho loài người, đặc biệt đối với thời đoạn văn minh.
Nhưng mọi sự sẽ nhiều lần đơn giản hơn nếu bài toán “lệch tâm” được giải kịp thời khi mới chớm, và duy trì nó đến suốt đời người.


HTNT minh chứng, sự sống bắt đầu từ tâm (A1) là an toàn và đúng trọng tâm.
Vấn đề chỉ là điều chỉnh lại mục đích sống, khi nhân thế còn phụ thuộc vào ý thức. (xem “Cách Sống Mới”)


b-    Thuở thiếu thời.
Mọi đứa trẻ lớn lên đều ngộ nhận một cách tự nhiên về chân lý sống.
Ngộ nhận phổ biến nhất là ước mơ làm giàu (vật chất). đồng nghĩa với mục đích lớn nhất đời người.

Vấn đề do quá trình từ khi sinh ra lớn lên và trưởng thành, trẻ đã bị tác động mạnh bởi môi trường vật chất xung quanh, từ đây nó gây thành dấu ấn không hề phai trong tâm thức trẻ đến suốt đời. - Nó chỉ có thể được “trung hòa” bằng cách nâng cao “nội lực tinh thần” cho trẻ (ví dụ, theo phương thức của HTNT).
Ngoài yếu tố hấp lực vật chất như trên, trẻ còn chịu tác động bởi các quyền lực của người lớn, và những lôi kéo đa chiều khác từ môi trường quan hệ như,
-    sinh hoạt vui chơi giải trí, học tập rèn luyện, bệnh tật sức khỏe, những vui buồn, những âu lo trước khó khăn thử thách, v.v….
Tất cả cộng với đặc điểm gien di truyền của trẻ, ngẫu nhiên tổng hợp thành một nhân cách đặc thù. Quá trình trên tất yếu nằm ngoài khả năng tự chủ của trẻ, trong khi xã hội lại thiếu một hệ thống giáo dục hiệu quả hỗ trợ.
Khi mọi lời giải cơ bản về cuộc sống xã hội còn chưa có sẵn, thì trẻ bắt buộc phải tự mò mẫm, tự chịu trách nhiệm về tương lai, tùy theo hoàn cảnh cho phép, v.v...

Vì thế trẻ nhìn chung phát triển thất thường, không đồng đều, thất bại là điều không tránh khỏi.
Và xã hội là đối tượng cuối cùng đón nhận mọi hậu quả.
Một thế hệ người lớn như thế được hình thành.

Nhân cách sai cá nhân khó có thể tự nhận biết, nhưng hậu quả xã hội nó gây ra, thì mọi người ai cũng thấy rõ.
Có nhiều người nhờ được góp ý nên cố gắng tự hoàn thiện để nên người. Tuy nhiên cũng có cái sửa được có cái không, vì nếu nhằm cái thuộc bức tường “ý thức lệch tâm” cản trở ... đành thua.
Thua … tức là chân lý sống mãi còn là bài toán ngộ nhận đối với xã hội loài người.

Nay bức tường “ý thức lệch tâm” đã được HTNT minh bạch hóa, với tiềm thức A2 là thủ phạm.
Nếu những minh chứng trên là không sai, điều đó cho phép chúng ta có quyền hi vọng, trong một tương lai không xa mọi người sẽ gỡ bỏ thành công bức tường cản trở kia, để nhìn ra CLG mới thật sự là kim chỉ nam đúng nghĩa của đời người.
Tất cả còn lại chỉ là phương tiện.
Nếu cái nào (chủ nghĩa) ta thấy không còn phù hợp, nên mạnh dạng vứt bỏ để thay bằng cái mới, tốt hơn hiệu quả hơn … để dân nhờ.


3.    NHÂN CHỨNG PHI CHÂN LÝ

Sự sống cần ý thức, ý thức cần các giác quan để nhận thông tin.

Trong các giác quan, giác quan cảm nhận tình người mang ý nghĩa đặc biệt.
Tình người là một trong các nhân tố cơ bản tạo ý nghĩa cho sự sống, tạo động lực trong phát triển. Vì thế nó được xếp vào nhóm giá trị ưu tiên.
Tuy nhiên, trong thực tế vì nhiều nguyên nhân, cảm nhận tình người thường phát triển chậm và yếu hơn so với sự cảm nhận về lợi ích vật chất (tình vật chất).

(Chú thích:
Một chút thư giản về vấn đề “tình và lý”.
1- Người ta nói làm gì cũng phải “có tình có lý”, thiếu một trong hai là không ổn, phải đủ cập thì hiệu quả mới cao.
Nếu “tình” không khó biết đúng hay sai, phải thêm “lý” để chứng minh.
Khi ấy, nếu “lý” sai thì “tình” cũng sai.
Nhưng có trường hợp, “lý” sai nhưng “tình” không chịu sai (vẫn duy trì). “Tình” như thế lâu ngày sẽ làm hỏng nhân cách, hoặc gây mâu thuẩn.
Gọi “tình” như trên là mù quáng (thiếu “lý”).

2- Người ta cũng nói, “tình cảm” là chuyện của con tim, “lý sự” là việc của trí óc. Tim và óc không thể chung vào một chỗ.
Đúng là trái tim có cái “lý” riêng của nó, nhưng là “lý” chưa qua kiểm chứng. Vì thế cần có thêm “lý” độc lập soi xét, thì mới tránh được sai lầm.
Nên sự sống rất cần được luyện tập, để tim và óc quen phối hợp biện chứng với nhau.
Cảm xúc của tim suy cho cùng có thể rèn luyện được, miễn là biết xây dựng lý trí hợp với tự nhiên.
Sự sống cần có lý như xe cần có tay lái,
Lý cần có tình như con người cần có trái tim để bơm máu.)


Cảm nhận “lợi ích vật chất”, thực tế có nghĩa là “ý chí làm giàu”, ngày nay đã trở thành tiêu chí phát triển của xã hội.
Trong khi sự cảm nhận về “tình người” chưa phải là tiêu chí phát triển xã hội, nó còn ở cấp độ hiện tượng thông thường như những hiện tượng khác, mặc dù nó luôn được mọi người nhắc đến.

Vào thời của thủy tổ loài người, con người  tập trung ưu tiên phát triển lợi ích vật chất vì mục đích sống còn, là điều hợp lý hiển nhiên.
Tuy nhiên khi xã hội đã tiến lên văn minh, mức sống vật chất xã hội loài người nhìn chung đã vượt mức cơ bản đáng kể.
Lúc này vấn đề nhu cầu vật chất không còn là một thách thức đối với thời đại, đặc biệt  đối với một số xã hội phát triển cũng như một thiểu số người đạt mức giàu có phi thường.
Vì thế ưu tiên“tiêu chí làm giàu” trong thời đại ngay nay là không còn phù hợp nữa. Mà nó phải thuộc về “tiêu chí tình người”. Tức là ưu tiên phát triển mức sống tinh thần bên cạnh sự đẫy mạnh tiếp tục mức sống vật chất đang có, mới là sự lựa chọn đúng đắn của thời đại.

Thế nhưng đa số con người ngày nay không nghĩ như vậy, họ vẫn quen chọn tiêu chí sống theo thói lối mòn của quá khứ. Cho dù thời thế đã đổi thay, nhưng lòng người vẫn còn e ngại.
Song vẫn có một thiểu số khác họ cảm nhận được sự vô nghĩa của lối mòn cũ, mạnh dạng chọn tiêu chí sống mới, “lấy sự hợp lý trong quan hệ làm chính, mục đích làm giàu là phương tiện”.
Kết quả họ trở thành những con người chủ trương sống thân thiện hòa đồng không bao lực, lấy lợi ích xã hội làm cứu cánh của đời mình, mọi mâu thuẩn đều dựa trên các quan hệ tình lý phải trái công bằng mà giải quyết ổn thỏa với nhau, v.v...
Đây là mẫu điển hình của con người mới cho một xã hội mới trong tương lai.
Tuy nhiên mức sống tinh thần như trên, do còn thiếu các cơ sở luận để minh chứng, nên sức lan truyền chưa cao, tính chính danh chưa cụ thể. Một phần tính hiệu quả thực tế của nó đối với nhiều người như thế là chưa đủ thuyết phục, v.v...

 Nhìn về quá khứ, mỗi thời kỳ xã hội đều có những tiêu chí sống phù hợp. Khi thời thế thay đổi, xã hội thay đổi, các tiêu chí sống ấy cũng phải thay đổi.
Ví dụ: xưa áo dài khăn đóng tóc búi cao, nay xã hội đã khác thì áo sơ-mi quần tây tóc  ngắn gọn. Xưa đi bộ xe ngựa, nay đi xe máy xe hơi tàu bay v.v…
Qui luật đào thải không chấp nhận kéo dài bất kỳ một tiêu chí bất hợp lý nào.
Trong xã hội loài người cũng vậy, qui luật tự nhiên là thế lực cuối cùng, giữ quyền đào thải mọi bất hợp lý trong quan hệ xã hội.
Hiện nay đối tượng nó đang đào thải là … trào lưu thần tượng hóa sức mạnh vật chất để thay bằng trào lưu lương tâm hóa quan hệ con người. Vì sự tiến hóa đang chuyển từ thời đại của số lượng sang thời đại của chất lượng.

Loài người nhìn chung đang quen sống với tiêu chí “hình thức vật chất cụ thể”.
Thời đại đòi hỏi tiến lên tiêu chí “hình thức nội dung, vật chất tinh thần phát triển toàn diện hợp lý, lấy trí tuệ (tinh thần) làm chủ đạo, trên nguyên tắc phù hợp qui luật tự nhiên”.
Điều này là một thách thức đối với những ai còn nặng tình với lối sống cũ, mức sống cũ, thói quen cũ.

Khi nhận thức không tiến kịp thời đại, con người buộc phải ứng phó tiêu cực nhằm hạn chế những hậu quả do bất cập gây ra.
Ứng phó tiêu cực đồng nghĩa với sự sai lầm trong hành động, trong quan hệ, trong quản lý điều hành từ đơn vị nhỏ đến qui mô xã hội … . Hệ quả tất yếu của các hành động trên là sự xuống cấp về nhân cách, đạo đức, cùng những bất ổn xã hội, v.v...
Khi những sai trái tích tụ đủ nhiều, đủ nặng từ hậu quả đến tâm lý, nó sẽ chuyển thành sự nổi dậy của quần chúng, nhằm lật đổ cái cơ chế “chậm tiến” đang cản trở mọi người.
Cơ chế lạc hậu bị đánh đỗ thì cơ chế mới được thay lên. Tuy nhiên do bài học kinh nghiệm rút ra chỉ trong phạm vi trước “bức tường ý thức”, còn phần sai lầm phía sau bức tường vẫn giữ nguyên không thay đổi …
Do vậy, chỉ sau một thời gian yên ắng phát triển, mầm “bất ổn” lại hồi sinh … . Thế là một chu kỳ bất ổn mới bắt đầu …. Chu kỳ bất ổn có thể ngắn hay dài, tùy theo mô hình cơ chế mới có giá trị thực tế đến đâu.
Nếu ngẫu nhiên có một chu kỳ bất ổn xảy ra chỉ sau thời gian ngắn, khi ấy nhiều người mới hôm qua còn là “anh hùng giải phóng”, thì nay đã thành “tội đồ dân tộc”. Chỉ vì những nhận thức tiên tiến (tiến bộ) của họ thích nghi kém với qui luật tự nhiên.
Nhiều người lấy thế làm ngỡ ngàn khó hiểu, vì không tin rằng mình là tội phạm “chống nhân dân” trong khi … hôm qua mình đạt danh nghĩa “vì nhân dân”.
Vì khó tin nên họ càng chống …  nhân dân tới cùng …
Thay vì tập trung đi tìm sự tiến hóa theo chuẩn của qui luật tự nhiên, để tạo sự đồng thuận nơi mọi người mà không cần phải dùng đến quyền lực súng đạn, hay bằng những hành động phi đạo lý …

Tất cả là do qui luật tự nhiên chi phối xã hội loài người.
Con người nếu không ý thức được điều này, thì mọi sự trở nên nan giải khó hiểu.
Khi  cái đúng hôm qua, hôm nay đã biến thành cái sai đáng trách, nhưng không hiểu tại sao. Hay hôm qua anh tiên tiến vì có công đánh đổ sự chủ quan, nay đến phiên anh xây dựng một sự chủ quan khác thì án “tội đồ” đến phiên anh phải tự treo lên.
Một phần lỗi gần là do cơ chế xã hội, vẫn tiếp tục để lọt những cá nhận còn nặng “cái tôi chủ quan” lên nắm quyền lực xã hội, để rồi phải trả giá đắt. Sau đó phải ghi công ơn những ai đã dũng cảm đứng lên đấu tranh giành lại niềm tin nghiệp chính nghĩa.
Phần lỗi xa là do sự tiến hóa của xã hội loài người, tất yếu phải trãi qua những thời kỳ chậm tiến chủ quan khó tránh khỏi.



4. GIẢI CỨU CHÂN LÝ


Trong năm giác quan ( thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác), phải chăng khoa học còn để thiếu một giác quan rất quan trong không thể không nhắc đến.
Nó là “TÂM GIÁC”.
Vì nó là giác quan thể hiện thành quả tổng hợp từ năm giác quan kia mang lại.
Nó là giác quan thể thiện thành quả sống mà con người cảm nhận được từ cuộc sống.
Nếu thiếu khoa học thiếu nghiên cứu về nó, là xem như mọi công sức ta bỏ ra của thế giới văn minh gần như “công cốc” … Vì không xác định được chính xác mục tiêu phấn đấu.
Bởi có thể nói không sai, mục đích lớn nhất của loài người- cá nhân không gì lớn hơn là CẢM GIÁC SỐNG.
MÀ “CẢM GIÁC SỐNG” LÀ DO “TÂM GIÁC” QUYẾT ĐỊNH.
Không “tâm giác” sự sống xem như không có.
Sự sống còn như ngày nay là nhờ “tâm giác” đã được nuôi dưỡng tự phát trong dân gian (một phần qua tôn giáo), trong khi khoa học còn thờ ơ … chưa nhận ra.

Tâm giác có nhiệm vụ tổng kết mọi giác quan (kể cả của chính nó) để hình thành cái gọi là “GIÁC QUAN TỔNG HỢP”. Đây là giác quan giúp con người cảm nhận tổng kết sự hiện hữu của bản thân trên thế gian này như thế nào.
Người ta gọi nó là “tâm trạng” hay “cảm giác sống”.
Vậy “cảm giác sống” của mỗi con người là do tâm giác tạo nên.

Để sống cá nhân phải sinh hoạt, quan hệ, làm việc, giải trí, v.v…  gọi chung là “lao động”.
Trong mỗi lao động, cá nhân phải hoàn thành hai giá trị cơ bản “giá trị vật chất” và “giá trị tinh thần”. Nó tương ứng với hai hình thức lao động cơ bản, lao động vật chất và lao động tinh thần.
Suy ra trong bất kỳ hình thức lao động nào, bao giờ cũng do hai hình thức lao động cơ bản trên kết hợp lại.
Ví dụ 1: khi lao động tư duy (lao động tinh thần), máu trên não phải tăng vận động để cung câp ô-xy cho các nơ-rôn (lao động vật chất).
Ví dụ 2: khi lao động cuốc đất (lao động vật chất), nhà nông phải tìm hiểu kỹ năng trồng trọt, giá cả thị trường, v.v … (lao động tinh thần).
Tuy nhiên trong lao động, có cái thiên về giá trị tinh thần nhiều vì lấy nó làm mục đích chính, nên gọi là “lao động tinh thần”. Có cái thiên về giá trị vật chất nhiều vì xem nó là chính, nên gọi là “lao động vật chất”.

Đối với lao động vật chất, con người có nhiều cách để xét giá trị của nó.
Ví dụ: giá trị thành phẩm, giá trị thương trường, giá trị sử dụng, v.v… và chủ yếu thông qua năm giác quan để xét giá trị.
Nhưng với lao động tinh thần, để xét giá trị về tính thiện hay ác, đúng hay sai, chân thật hay gian, thẩm mỹ hay không thẩm mỹ, v.v… trong sản phẩm của nó, thì chỉ có một cách duy nhất là dùng … TÂM GIÁC để đánh giá. Vì đây là cách đánh giá đạt hiệu quả nhất và nhanh nhất.
Ví dụ: “hội đồng giám khảo” thông qua cảm nhận chủ quan (tâm giác) để đánh giá một tác phẩm nghệ thuật.

Trong lao động tinh thần có một loại sản phẩm mà đến nay xã hội chưa có một phương thức đánh giá hiệu quả, nó là “nhân cách đạo đức”.
Đánh rằng xét phương diện chủ quan, mỗi người có thể tùy theo tâm giác riêng để xét đoán nhân cách đạo đức của một đối tượng.
Tuy nhiên sự xét đoán như trên còn thiếu cơ sở chuẩn mực giá trị (chính thức được xã hội loài người công nhận) để qui ra giá trị đồng nhất, nên khi dùng vào việc chung dễ gặp thất bại, hoặc cho kết quả thất thường, có khi gây ngộ nhận sinh hậu quả nặng nề … (hiện tượng bầu chọn).

Do yêu cầu khách quan trên, từ công trình nghiên cứu này KHTT được đề xuất hình thành, nhằm giúp loài người tìm ra khung giá trị chuẩn mực về Nhân Cách Đạo Đức của một con người.
Ví dụ: sự chuẩn mực trong quan điểm sống, trong kỹ năng quan hệ (đạo đức), trong cảm nhận giá trị hạnh phúc, v.v…

Biết rằng tâm giác là giác quan dùng để cảm nhận giá trị tổng hợp về sự sống của một cá nhân, chứ không dành riêng cho lao động tinh thần.
Tuy nhiên, vì các lao động vật chất đã có năm giác quan đảm nhận tốt vai trò định giá trị, trong khi nó thất bại trước các sản phẩm của lao động tinh thần.
Cuối cùng phần thừa trên phải giao về cho tâm giác đảm nhận chuyên trách, ngoài phần tổng hợp chung đã nêu trên.
Song trong thực tế, các giác quan luôn có sự hỗ trợ hay bổ sung hợp lý cho nhau. No như một sự phân công tự nhiên, khi nào trường hợp nào thuộc giác quan nào chịu trách nhiệm chính, thì những giác quan còn lại đóng vai phụ hỗ trợ cho giác quan chính hoàn thành nhiệm vụ.

Ví dụ 1: Trong KHVC, mắt nhìn tai nghe v.v… là phương tiện chính để đánh giá sản phẩm, nhưng tâm giác sẽ giúp phán đoán về tính cạnh tranh của nó ngoài thường trường v.v…
Ví dụ 2: Trong KHTT, tâm giác là phương tiện chính để cảm nhận nhân cách đạo đức của cá nhân, nhưng cũng phải thông qua mắt quan sát, tai lắng nghe, v.v… nhằm nhận diện thái độ, phong cách, lời lẽ ứng xử của đối tượng qua đó có cơ sở xét đoán.

(Chú thích: chúng ta lưu ý, trong KHVC cũng cần đến tâm giác chứ không chỉ riêng trong KHTT.
Ví dụ: Toán học là sản phẩm của lao động tinh thần, nhưng nó là bệ phóng của KHVC.
Thế mà có người nói … mê … “vật chất quyết định tinh thần”, “văn minh chỉ áp dụng trong thế giới vật chất”, v.v...
Sự thật tinh thần (trí tuệ) là cha đẻ của mọi thành quả văn minh tiến bộ của loài người.)

Do HTNT là học thuyết về phạm trù tinh thần hay tâm, nên “tâm giác” vô hình trung được tạm định nghĩa như sau:
-    Là những cảm giác thuộc phạm trù quan hệ con người, và cảm giác khi đối diện với lương tâm A1 của mình.
-    Là phương tiện xét đoán Nhân Cách Đạo Đức (kỹ năng sống nói chung) của đối phương.
-    Tâm giác có hai loại, “tâm giác A1” và “tâm giác A2”. Tùy theo cá nhân đứng trên tâm giác nào thì nhân sinh quan và thế giới quan sẽ cho kết quả tương ứng.

Mục đích của HTNT, là đặt vấn đề nâng cấp tâm giác con người lên mức A1 thay vì  A2 phổ biến như hiện nay.
Tâm giác A1 là tâm giác chuẩn phù hợp với qui luật tự nhiên trong mục đích xây dựng  nhân cách đạo đức con người.

(Chú thích: Trong sự sống con người luôn có sự pha trộn giữa “tâm giác A1” và “tâm giác A2” trong lối sống hay trong đạo đức. Tuy nhiên “tâm giác A2” nhìn chung đang nắm thế chủ động hơn, do nó tự phát nên rất phổ biến.
Nhiệm vụ là trả lại cho “tâm giác A1” vị thế mà “tâm giác A2” đang chiếm. Do vậy trong tác phẩm chỉ chú trọng đào sâu tìm hiểu tâm giác A1, cái đang thiếu trong cuộc sống hiện nay.)

Như đã minh chứng, tâm A1 là nơi để con người cảm nhận giá trị đúng đắn của đạo đức nhân cách và kể cả tài năng nếu mở rộng ra. Trong khi tâm A2 cũng như thế nhưng cho kết quả lệch lạc tùy tiện, tùy theo sở thích chủ quan của cá nhân.
Theo nguyên lý tự nhiên, sự sống cần dựa trên tâm A1 để phát triển chứ không phải tâm A2.
Nhưng do thực tế tự nhiên, tâm A2 là cái có trước khi xã hội tiến lên văn minh (vật chất), trong khi tâm A1 phát triển rất hạn chế do chưa được minh chứng hiệu quả.
Cuối cùng vì sự phổ biến rộng rãi của tâm A2, đã làm cho nhiều người ngộ nhận đây  là tâm A1. Nên đa số mọi người mạnh dạng phát huy nó không một chút nghi ngờ.
Vì sự ngộ nhận này mà quan hệ con người đã thành phức tạp, kết quả không đạt như ý, quan hệ xã hội trở nên tiêu cực, các bất ổn lớn nổ ra theo chu kỳ, v.v…

Tâm giác A1 là trung tâm nuôi dưỡng CLG, kim chỉ nam đúng đắn cho giá trị hạnh phúc đời người.
Nhờ có tâm giác A1, con người mới có cảm giác về sự hối hận, sự ăn năn nuối tiếc, sự ray rứt lương tâm, sự sám hối chuộc lỗi, … mỗi khi phạm sai lầm.
Bù lại nếu hoàn thành tốt trách nhiệm quan hệ, tâm giác (A1) sẽ là tâm điểm đem lại  cảm giác bình an hạnh phúc và sự phấn chấn vô giá cho cá nhân sống.

Tâm giác A1 nếu thiếu được rèn luyện đúng mức, nó sẽ bị kém phát triển, đồng nghĩa với những cảm giác lương tâm cắn rứt, hối hận tội lỗi, v.v… sẽ bị suy yếu chai dần đi. Cũng như các cảm xúc hạnh phúc tích cực tốt đẹp không còn mạnh mẽ và hữu ích như trước nữa.
Thế là nhân cách đang phát triển theo hướng ác, hướng vô tâm, gian dối, v.v ….
Nguyên lý phản xạ sinh tồn như trên, đúng và giống nhau với bất kỳ ai, ở tất cả mọi dân tộc. Nó có khác thì chỉ khác về cường độ cảm nhận và biểu hiện.

Trong tâm giác A1, cảm giác “tình cảm” có một giá trị đặc biệt quan trọng. Vì nó là một trong các yếu tố giúp chất lượng sống con người thăng hoa, là điều kiện hỗ trợ cho kỹ năng lý tính của con người không bị phát triển lạc mục tiêu cuộc sống quá xa.
Nếu tình cảm được nuôi dưỡng phong phú tốt đẹp, thì tâm giác A1 càng có cơ hội phát triển mở rộng và bền vững (nên kết hợp với kỹ năng lý tính đúng đắn – tình và lý phải đi đôi).
Như trên … kết hợp thêm với mức sống vật chất tiện nghi hợp lý, môi trường gia đình, xã hội và thiên nhiên đạt kết quả tốt đẹp … thì sự sống con người sẽ thăng hóa lý tưởng, như được sống giữa thiên đường hạ giới.

Tâm giác A1 của mỗi người mỗi khác, nó có thể do bẩm sinh, do gien di truyền, do hoàn cảnh, do giáo dục, do môi trường, do ý chí, do sức khỏe, v.v…. Nhưng về bản chất nó luôn giống nhau giữa mọi người dù đã hay chưa trải qua rèn luyện.
Do tâm giác A1 của mỗi người có cách biểu hiện khác nhau về cường độ, về kỹ năng cảm nhận và diễn đạt, v.v…, nên tiêu chí sống đặt ra cũng khác nhau, dẫn đến kỹ năng hiểu sự sống cũng có thể khác nhau.
Vì vậy tốt nhất mọi người sinh ra lớn lên, nên trải qua giai đoạn học tập rèn luyện tối thiểu, để hạn chế mức thấp nhất (hoặc hoàn toàn triệt tiêu) sự khác biệt về quan điểm sống cơ bản.
Khi nhận thức sự sống đã giống nhau cơ bản, mọi người mới có điều kiện đối thoại và cảm thông nhau về tính hợp lý trong khái niệm “lợi ích riêng và lợi ích chung”.
Đây là mục tiêu và phương hướng phấn đấu trước mắt và lâu dài của HTNT.

Tóm lại tâm giác là một giác quan vô cùng quan trọng đối với sự sống. Nó vừa mang tính quyết định đối với khái niệm đúng (thiện, phải) hay sai (ác, trái), mà còn là cơ sở minh chứng cho chất lượng hay ý nghĩa sự sống của mỗi đời người.
Tâm giác cũng là giác quan chịu trách nhiệm tổng kết mọi họat động sinh tồn của cá nhân sau một thời gian tồn tại, để từ đó định hình ra thành quả sống của mỗi nhân cách (tâm trạng và cách sống - vui tươi hay sầu bi, hồn nhiên hay căng thẳng, v.v…).
Nó cũng là tang chứng vật chứng đúc kết về quá trình hoạt động của cá nhân từ khi sinh ra cho đến hiện tại. Nó có thể giúp lý giải vì sao con người trở nên tốt hay xấu, khách quan hay chủ quan, v.v...

Tâm giác có tính độc lập với ý chí cá nhân, sau quá trình nó được cấu thành.
Con người có thể chủ động rèn luyện tâm giác cho tương lai, tính từ thời điểm hiện tại. Nhưng sau thời gian tâm giác đã hình thành kết quả, thì nó nằm ngoài tầm chủ động của ý chí cá nhân.
Nó sẽ là “ân nhân” hay là “kẻ thù” của cá nhân, tùy thuộc vào chất lượng nội dung mà cá nhân đã bỏ công sức tạo ra nó - (thường quá khứ và hiện nay con người không quản lý được hết các nội dung này).
Như thế nếu con người rèn luyện không khéo sẽ bị “gậy ông đập lưng ông”. Và thực tế điều này đã và đang xảy ra.
Theo HTNT, chỉ có chọn rèn luyện theo hướng của tâm giác (A1), theo qui ước của tự nhiên, là kết quả đạt mới như mong muốn. Tâm giác sẽ mãi mãi là người bạn trung thành tuyệt đối của con người.

Nhiệm vụ của KHTT là giúp con người nhận thức con đường rèn luyện theo hướng tâm giác A1 , để sau đó cùng nhau hợp tác khai thác nó.
Khai thác tốt tâm giác A1, sự sống sẽ tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc đới người. Thay vì trước nay phải mất nhiều tiền của công sức và tính mạng mà vẫn không đạt.
Để khai thác tốt tâm giác A1, vai trò của giáo dục trong HTNT sẽ có cơ hội phát huy cao tính ưu việt của mình.
Chỉ cần có một hệ thống giáo dục hợp lý đơn giản và tiết kiệm, xã hội loài người sẽ tìm thấy một tương lai sáng lạn, cái mà bao nhiêu thế hệ bao nhiêu cuộc chiến xương máu vẫn chưa làm được.
Bởi theo nguyên lý, lương tâm (A1) chỉ có một chiều.
Nếu giáo dục biết phát huy đúng chiều qui ước trên của tự nhiên, thì nhân cách đào tạo sẽ rập khuôn theo đó mà trưởng thành.
Vì tạo hóa- tự nhiên chỉ qui định một khuôn hình chuẩn của nhân cách, nên nhân cách khi được đào tạo đúng hướng với bản năng chuẩn của nó, thì tự khắc tất cả con người sẽ trưởng thành đồng bộ theo một khuôn chuẩn thống nhất. Và không ai có nguyện vọng thoát ra cái khuôn chuẩn ấy.
Trật tự xã hội vì thế mà tự động hình thành, xã hội không còn phải tốn một xu để sản xuất “súng ống” …
    Chìa khóa cho cánh cửa tương lai như thế đã rõ. Nó vừa ít tốn kém vừa mang lại hiệu quả cao.
Phải chăng con đường chân lý như thế đã rõ, mọi sự như thể đã được tạo hóa ấn định từ trước, và loài người không còn một sự lựa chọn nào khác ...




V – CHÂN LÝ VĨNH CỮU

1.    CÁI TÂM

Sự sống đúng đắn “không do kẻ mạnh quyết định”, từ lâu nó đã do lương tâm (A1) âm thầm vạch hướng đi.
Sự sống nếu không có lương tâm (A1) làm giá đỡ, thì lịch sử đã không có chân thiện mỹ, không có niềm tin, không có ý chí cầu tiến, không có tiến bộ, không có ước nguyện được sống sung sướng và hạnh phúc, v.v…
Lương tâm (A1) đã làm nhiệm vụ định hướng đấu tranh cho tiêu chí, “tất cả vì sự đúng đắn, sự hợp lý, tính lô-gíc, tính thiện tâm, vì các giá trị,  v.v…  cho cuộc sống loài người”.
Nếu mắt có thị giác, tai có thính giác, … thì tâm A1 có tâm giác A1 chỉ đường cho nhân thế tìm đến sự hoàn thiện.

(Chú thích: “Lương tâm” hay “cái tâm” theo nghĩa dân gian là như nhau. Song trong HTNT, “tâm” có nghĩa “trung tâm tiềm thức” bao gồm tâm (nhỏ)  A1 và tâm (nhỏ) A2 .
Trong tâm A1 có lương tâm hay cái tâm, cộng thêm các tính lô- gíc, tính chân thiện mỹ, tính trung thực, tính khoa học, tính hợp lý, v.v…., nói chung bao gồm tất cả các đức tính, các giá trị ưu việt mà con người cần có nhằm hướng sự sống đến một tương lai hoàn thiện, tốt đẹp lý trưởng.
Ngược với tâm A1 là tâm A2, nó bao gồm nhóm các đức tính, các giá trị (tiêu cực) trái với tâm A1. - Xem “Cách Sống Mới”.)

Dân gian có câu “lưới trời lòng lộng …”.
 Theo HTNT, “lưới trời” chính là tâm A1, nó hiện hữu trong mỗi nhân cách con người. Tùy theo cách sống của mỗi cá nhân mà nó có những phản xạ tương ứng, tất yếu là tuyệt đối chính xác.
Tâm A1 có từ khi con người chưa và sau khi chào đời.
Nó làm nhiệm vụ giúp con người biết định hướng phải làm gì để sự sống đạt hiệu quả cao nhất. Lúc đầu nó vận động bằng vô thức, sau nó thực hiện bằng các hoạt động có ý thức mạnh mẽ.
 Tất cả được dẫn dắt bằng tâm giác A1, được phản ánh dưới dạng CLG, kim chỉ nam của sự sống.

Tuy nhiên chúng ta lưu ý từ khi có sự hình thành của “ý thức”, tư duy con người nãy sinh hai hướng lựa chọn cơ bản cho cuộc sống, “sống hoặc không sống theo tâm A1”.
Nếu sống theo, nhân cách sẽ phát triển toàn diện tốt đẹp, bằng ngược lại nhân cách sẽ “thụt lùi” … (vô tâm, ác).
Thế nhưng vấn đề lựa chọn trên không được “khoa học” ý thức kịp thời, nên trong hệ thống giáo dục định hướng đào tạo nhân cách, người ta đã bỏ qua nội dung đào tạo này.
Trong khi kinh nghiệm dân gian, các nhà tư tưởng “tiền khoa học” (các tôn giáo, v.v…) … đã ý thức được vấn đề, và họ đã có những quyết định kịp thời trong định hướng phát triển nhân cách.
Tuy nó vẫn được duy trì đến ngày nay, nhưng tầm ảnh hưởng của nó không đủ đề kháng trước cơn lốc “vô tâm” của thời đại phát triển khoa học vật chất.

Lịch sử đã chứng kiến nhiều biến cố tiêu cực trong quan hệ, tất đều có liên quan đến sự khiếm khuyết ý thức về “tâm”.
Con đường dẫn đến “tâm” lúc dễ lúc khó tùy người, tùy môi trưởng, tùy hoàn cảnh khi sinh ra ... Song dù khó hay dễ con người cũng phải đi tìm về con đường hoàn thiện nhân cách bản thân, để hiểu cuộc sống để tránh lối đi sai lầm không đáng có, biết rằng nó chỉ xảy một lần duy nhất trong đời người.
Nay nếu nó có một tổ chức (đảng - KHTT) đứng ra giúp mọi người lo việc rèn tâm, thì sự việc sẽ tốt đẹp và thuận lợi biết bao.
Rèn tâm là đi tìm nguyên nguyên nhân của sự đúng- sai trong bản thân mỗi người, để có hướng khắc phục hoàn thiện nhân cách, xây dựng giá trị cuộc sống hạnh phúc đúng nghĩa.
Nếu là những sai lầm đơn giản, mỗi cá nhân có thể tự nhận thức và khắc phục. Nhưng nếu nó khó hơn, thì cá nhân phải bỏ công nghiên cứu tìm hiểu, đồng thời phải tham khảo mọi người nhờ góp ý cho (diễn đàn).
Nếu cái khó mở rộng ra có liên quan đến vấn đề tư tưởng chính trị xã hội phức tạp, thì phải nhờ đến “học thuyết chân lý” để lý giải thông qua các nhà chuyên môn … đảng viên cao cấp (chuyên sâu).
Nếu chọn học thuyết sai, lý giải sẽ không thông, sự sống sẽ lẩn quẩn mãi trong bất ổn và kém hạnh phúc.
Vì thế đòi hỏi phải có sự ra đời của … HTNT.
HTNT cho thấy sự sống có lý lẽ riêng của nó, do tự nhiên qui định, con người không có khả năng bịa ra để rồi dùng quyền lực áp đặt mọi người phải tuân thủ. Lấy lý do … vì sự sống này làm gì có chân lý, nếu có chăng …  sức mạnh đây chính là … chân lý (!?).
Sự thật, sự sống có chân lý vĩnh cữu.
Vấn đề là, con người phải nghiên cứu khai thác nó, thì nó mới phát huy tính hiệu quả, phù hợp với đặc tính tư duy ý thức của loài người.
Sự sống cần có chân lý vĩnh cữu làm chuẩn, để lý giải mọi hiện tượng bất đồng, nhằm đem lại sự bình an và hạnh phúc bền vững trong phát triển ...



2.    KHOA HỌC VÀ CHÂN LÝ

LPCL (lẽ phải chân lý) là kết quả vận dụng CLG (chân lý gốc) vào cuộc sống thực tế.
LPCL là lời giải chuẩn cho các vấn đề phát sinh trong quan hệ. Nhờ có nó, quan hệ con người sẽ trở nên thân thiện đoàn kết hơn, và sẵn sàng giúp đỡ nhau hoàn thành tốt con đường sống, mà tạo hóa đã ngẫu nhiên ban cho mỗi cá nhân sự tồn tại … tạm thời.
Có LPCL, sự sống con người trở nên hợp lý hơn, hiệu quả hơn, đàng hoàng hơn, minh bạch hơn.
LPCL là thành quả của tâm giác sau quá trình rèn luyện theo định hướng tâm A1, để thành tâm giác A1.

HTNT chính là công cụ nhận thức lý luận, nhằm giúp tâm giác hoàn thành mục tiêu của mình (xem “Mở Cánh Cửa Tự Nhiên”).
(Chú thích: HTNT hay KHTT cũng là một. Tùy nơi tùy lúc, mà vận dụng khái niệm nào cho hợp cảnh hợp mục đích.)

Khái niệm “KHTT” được dùng ở đây, một là để cân đối với “KHVC”, hai là nhằm vạch ra con đường sao cho tổng vận hành của Ý THỨC, luôn chịu dưới sự giám sát và quản lý của KHOA HỌC.
Bởi bản chất sự sống loài người, theo nghiên cứu, nó vận hành theo đúng bài bản của khoa học nếu con người biết sắp xếp tổ chức nó lại.
Nói cách khác “Khoa học” là một tôn giáo được con người ghi chép lại từ “khách quan tự nhiên”. Đặc điểm của nó là dùng minh chứng khách quan và hiệu quả thực tế để xây dựng niềm tin. Từ niềm tin, cuộc sống dần được thiết kế trên mọi góc độ, vì một thế giới hoàn thiện.

Biết rằng KHVC là một tổng thể của nhiều ngành khoa học khác nhau kết hợp lại. Tính độc lập phát triển của mỗi ngành là rất cao.
Nhưng trong KHTT, tất cả chỉ có một ngành khoa học đơn độc, và nó chỉ nhằm theo đuổi một mục đích duy nhất, “hạnh phúc con người”.
Lý do là vì, trí tuệ của mỗi cá nhân- con người là một hệ thống vận hành nhất quán, nó không có bất kỳ một sự phân chia độc lập tương đối nào có thể tồn tại bên ngoài hệ thống ấy. Tất cả là một khối vận hành thống nhất tuyệt đối.
KHTT thực tế là một phương thức luận có nhiệm vụ xây dựng định hướng sự sống sao cho, “hệ thống tư duy của mỗi cá nhân không phát triển trái chiều qui định của qui luật tự nhiên”. Từ tiền đề cá nhân, con người mới có điệu kiện tiến đến gặt hái thành quả góc độ xã hội.
Như thế mỗi cá nhân thực chất tương đương với một ngành KHTT độc lập (tương đối). Vì nơi đó không ngành nào giống ngành nào một cách tương đối, bởi tất cả giống nhau tại bản chất sống cơ bản của tâm A1.

Thế giới dù bao la vô tận, tuy nhiên cuối cùng xét góc độ một cá nhân, nó cũng phải lăng chiếu qua não để qui thành nhận thức. Nhận thức là thành quả của nhiều kỹ năng sinh tồn phức tạp cộng lại.
Vì tính phức tạp này mà nếu chỉ giao riêng lẻ một cá nhân phải hoàn toàn tự quán xuyến chịu trách nhiệm, thì nhất định nó sẽ thất bại. Tức là nhận thức bị thất bại, suy ra hình ảnh thế giới tồn tại đối với góc nhìn cá nhân, đã bị bóp méo KHÔNG CÒN TRUNG THỰC.
 Do vậy bắt buộc sự sống con người nói riêng và loài người nói chung, phải có một sự hướng dẫn nào đó (từ một công trình nghiên cứu) để đảm bảo tính trung thực của NHẬN THỨC đối với thế giới tồn tại.
Mà ta quen gọi là SỰ CHỦ QUAN của con người - (chỉ đặc biệt trong vấn đề quan hệ).
Và khi ấy sự sống bị ngộ nhận thành …  “không tốt đẹp, không hạnh phúc”.

Do đó KHTT như là một công trình nghiên cứu đã được hoàn thành, nhằm đáp ứng cho yếu cầu khách quan trên.
Tất yếu mọi người đều có thể có nhiều phương án lý giải khác nhau về sự sống, nhưng từ góc độ nghiên cứu sự sống loài người chỉ có độc nhật một lời giải tối ưu, mà ta gọi là chân lý hay học thuyết chân lý.
Như thế KHTT có phải là lời giải chân lý hay không, điều này xin hãy để tất cả mọi người có được quyền phán xét, cũng như có được quyền được ra lời giải khác đúng đắn hơn, có sức thuyết phục cao hơn (không sử dụng quyền lực – chủ quan - để áp đặt).

Tức là mọi người cùng có trách nhiệm và nghĩa vụ tìm ra con đường “GIÁC NGỘ” cho bản thân và cho mọi người, đây là công việc không thuộc riêng ai. Khi sự sống còn đó vô tận những bất bình thường.
Hình như sự sống đang yêu cầu con người phải học lại nhận thức sự sống như nó vốn có …


Nếu so sánh giữa KHTT và KHVC, ta thấy chúng giống nhau về nguyên tắc đạt mục đích, tất cả phải dựa trên minh chứng và hiệu quả thực tế làm tiêu chuẩn.
Song về đối tượng nghiên cứu thì chung khác nhau hoàn toàn về chất, một bên là rất cụ thể, một bên hoàn toàn trừu tượng vô hình trong truy tìm nguyên nhân nguồn gốc. Vì vậy có sự khác nhau cơ bản trong phương thức tiếp cận đối tượng nghiên cứu, cũng như tâm thế con người cũng khác khi đối diện trước mỗi ngành khoa học.
Nếu một bên là cụ thể dễ hiểu mọi người không khó để thống nhất trước thành quả sản phẩm tạo ra. Còn một bên là trừu tượng vô hình, mọi người gần như ai cũng có … quyền tự do phán xét giá trị thành quả (nhân cách đạo đức của ai đó) theo quan điểm hay sở thích chủ quan của cá nhân mình.
Vì giá trị của thành quả KHTT chỉ có thể nhận biết trực tiếp bằng tâm giác là chính, ngoài ra không còn cách nào khác. Nếu tâm giác HỎNG thì nhìn thành quả cũng là HỎNG, mặc dù nó đang rất tốt. Đây chính là yếu tố then chốt, đã làm phức tạp hóa sự sống loài người.
Bởi thế gian không có bất kỳ công cụ khoa học nào có thể cân đo tâm giác của con  người một cách chính xác và cụ thể.
Vì vậy nhiệm vụ KHTT, là giúp mọi người trau dồi kỹ năng tâm giác sao cho mọi người đều phải đạt TRÌNH ĐỘ TÂM GIÁC TỪ CƠ BẢN TRỞ LÊN. Để khi đứng trước một hiện tượng quan hệ, mọi người có thể thống nhất nhau trong xét định giá trị (tương tự  như bên KHVC).
Đấy là vấn đề cốt lõi để xây dựng thành công một thời đại mới, một xã hội mới (con người mới), văn minh hơn, hợp lý hơn, hiệu quả hơn và hạnh phúc hơn.

KHTT là một đạo như bao nhiêu các đạo sống khác (với đa phần do các tôn giáo chủ đạo), mà cá nhân mỗi người có quyền chọn lựa.
Nhiệm vụ của nó là vạch ra con đường sống để mọi người đi theo đến suốt đời. Nó đúng nghĩa là một “đạo làm người” (sao cho đúng đắn nhất).
KHTT khác với các tôn giáo, là nó chú trọng hướng dẫn con người rèn luyện niềm tin vào bản thân, vào năng lực trí tuệ, vào những minh chứng khoa học khách quan (trừu tượng hay cụ thể) để xây dựng niềm tin tiến vào tương lai.
Những LPCL trong KHTT chính là những lời răn dạy của Tạo hóa- Tự nhiên (thượng đế) dành cho con người vậy.
Trong KHTT, mọi người đều có thể tham gia tranh luận về mọi “lời dạy của Thượng đế” vì không khéo nó có thể … sai, do tư duy con người có thể bị … bất cẩn trong quá trình tạo ra, phản ánh ra các lời dạy ấy.
Trong KHTT, LPCL không thể sao chép và học thuộc lòng. Mà mỗi người phải tự rèn luyện kỹ năng, để có đủ khả năng tự mình cảm nhận, phát hiện và đề xuất ra các LPCL phù hợp với năng lực và hoàn cảnh của từng cá nhân.
KHTT chỉ là một công cụ, nhằm giúp con người có phương tiện nâng cao trình độ tâm giác, trình độ “cảm nhận và sáng tác” ra các LPCL ấy.
LPCL không có công thức để xây dựng, nó chỉ có những tiêu chí cơ bản làm kim chỉ nam cho tư duy, qua đó vận dụng kỹ năng tâm giác A1 để biểu đạt thành những lý lẽ những luận giải cho là hợp lý nhất và được mọi người cùng công nhận.
Có thể lúc này nó là đúng nhưng lúc khác là sai, là chuyện bình thường. Vấn đề là  phải theo dõi sự khác biệt của nó có phù hợp với hoàn cảnh hay không, v.v...
Giá trị của LPCL do HIỆU QUẢ THỰC TẾ trả lời. Và cá nhận phải chịu trách nhiệm về các LPCL do mình là tác giả đề xuất, và được cộng đồng (diễn đàn) thông qua.

Xã hội loài người phải mất nhiều ngàn năm để phát triển, nhưng KHVC chỉ cần vài thế kỷ đã đủ làm mức sống thế giới thay đổi đột biến.
Bù lại KHTT đến nay vẫn chưa có tiếng nói của riêng mình, trong khi những tiêu cực xã hội và thế giới tiếp tục là những bài toán phức tạp và nan giải.
Cộng hai hiện tượng trên lại sẽ ra bức tranh của xã hội văn minh hiện đại ngày nay, và nó được qui thành lối sống cơ bản của thời đại.

Lối sống ấy đã được hình thành theo thời gian, nên nó đã thâm nhập toàn diện vào tim, vào máu, vào khối óc của con người, nó đã thành thói quen tập quán …. Từ niềm vui đến nỗi buồn, từ sự yêu mến đến giận hờn, từ hạnh phúc đến đau khổ, từ các quan hệ đời thường đến chính trị xã hội, từ niềm tin đến thất vọng, từ sinh hoạt giải trí đến lao động mưu sinh, v.v…. tất cả đều ít nhiều có mang dấu ấn của lối sống cơ bản chung trên.
Nó hình thành nên một liên minh giữa tư duy cảm xúc và lý trí, giữa ý thức và tiềm thức (vô thức), giữa cá nhân và xã hội, giữa quốc gia và thế giới, v.v...
Cuối cùng nó qui ra thành một sức mạnh quyền lực, nhằm tự vệ trước mọi thay đổi có xu hướng tích cực hơn …
Vì thế mọi sự thay đổi mang tính cách mạng tận gốc đối với lối sống của thế giới loài người là không dễ ... từ đối đầu đến thân thiện đại trà …

Trong môi trường luôn nhập nhòe về khái niệm “phải- trái” như trên, các thế hệ nhân cách được nuôi dưỡng khôn lớn và trưởng thành. Họ là những thành viên kiến tạo nên đời sống của mỗi thời đại.
Trong ấy lối sống hai mặt đã trở thành một kỹ năng phổ biến, để con người ứng phó và thích nghi trước những phức tạp đa chiều của cuộc sống. Ví dụ người ta thường khuyên bảo nhau … “thấy vậy mà không phải vậy!”.
 Ai không thông hiểu những nghịch lý trên, không khéo sẽ bị xã hội đào thải như chơi ...

Cứ như thế xã hội văn minh lừng lững tiến lên. Nơi ấy lúc này lúc khác luôn có những xung đột rất khó tin rất khó hiểu, và tất yếu cũng rất khó để lý giải …
 Tuy nhiên để sự sống không bị ngưng trệ, người ta phải tạm chấp nhận một lý giải tương đối nào đấy để có cớ sở xử lý mọi sự, cho dù như thế là ít nhiều bị trái chiều, trái lý lẽ tự nhiên của lương tâm.
Cứ thế lâu dần thành quen, thành bản tính của cá nhân và của mọi người xã hội khi nào không hay.
Tất yếu cũng có khối người không chấp nhận những hiện tượng sống bất thường trên. Nên bằng cách này hay cách khác, họ trở thành những nhà tiên phong quyết đi tìm lối đi khác khả dĩ hơn ...
Bởi họ tin sự sống có lẽ công bằng hợp lý của nó, nhưng có thể nhất thời bị những sai trái do ngẫu nhiên chiếm ưu thế, và làm cuộc sống thành biến dạng. Vì vậy sớm muộn gì mọi bất hợp lý trên sẽ bị cuốn trôi bởi thời gian và sự đúng đắn của lẽ tự nhiên.
Những niềm tin như trên chính là điềm báo, thế gian có qui luật, mọi sự không thể do ý chí trái tự nhiên chủ quan quyết định dù nó có sức mạnh thế nào.



3.    CÂN ĐO TÂM

“Khoa học” tính đến nay đã lập được nhiều công lớn trong cãi thiện đời sống loài người.
Thế nhưng nếu tính kỹ lại, nó mới hoàn thành được một nửa phần việc, còn một nửa kia nó vẫn đang … nợ .
Nhiều người muốn đi kiện “khoa học” vì tội … đã làm biến dạng sự sống loài người, đã một thời bình yên với nhiều mộng mơ cao đẹp lý tưởng ...
Xưa nếu có “giận” con người chỉ cần hục hặc nhau vài câu vài cử chỉ, hay kéo nhau ra vật lộn với vài nắm đấm là đủ … . Nay người ta “giận” nhau chỉ cần dùng ngón tay … là bao nhiêu sinh mạng phải trả giá.
“Khoa học” là thế chăng …

“Tinh thần” là một thế giới ảo nhưng không ảo. Vì bản chất nó là dựa trên hiện thực để hình thành, và một phần do bản năng bẩm sinh tự nhiên, để cuối cùng hoàn thành nên một hỗn hợp như đang có.
Tinh thần là một tổng thể các phản xạ của não trước môi trường sống, bên ngoài và bên trong não, để cuối cùng nó qui ra thành ý chí của cá nhân, của cộng đồng xã hội, v.v…
Nhiệm vụ KHTT là nghiên cứu qui luật phản xạ tự nhiên trên. Xem khi nào thì nó cho ra “kết quả tiêu cực”, và khi nào là “kết quả tích cực”. Con người phải làm gì để giữ lại và phát huy phần “tích cực”, đồng thời ra sức tiêu trừ triệt để (đến mức có thể được) phần “tiêu cực”.

Mỗi con người là một cá tính, một lối sống, một mối trường sống, v.v… nên vốn tinh thần không ai giống ai.
Do không ai giống ai nên nó dễ cộng hưỡng lại thành một mớ lộn xộn, làm cho các nhà khoa học không dễ trong nghiên cứu.
Song nếu có điều kiện quan sát cẩn thận hơn các hiện tượng sinh tồn của con người, người ta sẽ thấy nó không quá lộn xộn như đã nghĩ.
Hãy nhìn vấn đề dưới góc độ của bản chất, ta sẽ thấy “tinh thần con người” vận động có nguyên tắc có qui luật đàng hoàng. Nó chỉ có vẻ lộn xộn về mặt hình thức, do cách biểu hiện về cường độ và kỹ năng cá tính của mỗi người.
Sự khác biệt này, từ góc độ KHTT tất cả đều có thể được cân đong đo đếm hiệu quả, từ một phương thức hợp lý.
Ví dụ: nhận xét theo số đông, khi họ đã được trang bị một trình độ nhận thức tương đồng.
Vì thế phạm trù “tinh thần” xét cho cùng, nó đủ điều kiện để trở thành một đối tượng nghiên cứu hiệu quả, như bao nhiêu đối tượng nghiên cứu vật chất khác mà “Khoa học” đã gặt hái thành công với rất nhiều thành quả vang dội.

Do đặc điểm “vốn tinh thần” mang đậm tính cá nhân, nên điều kiện tiên quyết để nghiên cứu khoa học thành công, nó đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có tính TRUNG THỰC rất cao trong thực thi trách nhiệm.
Đây là điều kiện cơ bản và tiên quyết không thể thiếu, cho những ai muốn tham gia  ngành khoa học này.
Tính trung thực trước hết là đối với cá nhân mình, mỗi khi đối diện trước những đúng- sai mà đời người vấp phải.
Như thế tính trung thực là một tài sản vô giá đối đối với các nhà khoa học, cũng như đối với mỗi con người sống trên thế gian này.
Nếu hoàn thiện được tính trung thực, cá nhân có điều kiện nâng cao mức sống tinh thần mình lên trên mức bình thường.
Biết rằng tinh thần là một thế giới trừu tường và phức tạp, vì thế nếu thiếu tính trung thực làm chuẩn cơ bản, thì mọi cố gắng nhận thức và quản lý nó sẽ sớm bị phá sản, chứ chưa nói đến mục đích nâng cấp nó.
 Để xây dựng thành công một cuộc sống tốt đẹp toàn diện, ngoài sự trung thức đối với bản thân, còn phải tiến đến trung thực với mọi người.

Trung thực sao cho sự sống riêng và chung ngày càng hòa nhập vào qui luật tự nhiên, một cách thành công mỹ mãn trong một thời gian hợp lý nhất.

Có tính trung thức, cá nhân mới tính đến mục tiêu hoàn thiện “kỹ năng tâm giác”. Đây chính là nhiệm vụ trọng tâm của người tham gia rèn luyện theo phương pháp của KHTT.
Rèn luyện kỹ năng tâm giác là rèn luyện kỹ năng cảm nhận sự sống bằng tâm A1.
Thực tế đã minh chứng, tâm A1 của mọi người đều giống nhau. Vì vậy nội dung học tập rèn luyện đều như nhau với bất kỳ ai.
Song nó có thể khác về phương thức hay hình thức học tập. Lý do là vì vấn đề cá tính, sở trường năng khiếu của mỗi người, vấn đề phong tục tập quán của mỗi dân tộc, vấn đề môi trường và hoàn cảnh tác động, v.v…
Rèn luyện kỹ năng tâm giác phát triển, thực chất là rèn luyện tâm A1 phát triển sao cho đủ lớn mạnh để thay thế hoàn toàn tâm A2. (xem “Cách Sống Mới”)
Rèn luyện bằng cách, phấn đấu thay đổi quan điểm nhận thức cuộc sống theo hướng của quan điểm tâm A1. Lâu dần nó nhập tâm từ nhận thức đến hành động, cuối cùng cá nhân sẽ thu hoạch tâm A1 phát triển như mong muốn.
Tâm A1 phát triển, tức tâm giác A1 phát triển, suy ra khả năng xác lập LPCL (cảm nhận và ngôn từ) phát triển.
Có kỹ năng xác lập LPCL hiệu quả trên nhiều vấn đề của cuộc sống, đồng nghĩa với cá nhân đã sở hữu một thước đo tâm giác trong vấn đề quan hệ một cách hiệu quả.
Nhiều người như thế hợp lại sẽ tạo ra thước đo tâm chung của xã hội vậy.

 Ví dụ, khi cá nhân đề xuất một LPCL được mọi người công nhận (tổ chức diễn đàn HTNT, hay theo thống kê dư luận xã hội, v.v…). Thì đây là một hình thức “cân đo” về chất lượng tâm đối với cá nhân.
Số lượng người đồng tình càng cao, chứng tỏ chất lượng tâm cao. - Tốt nhất là “cân đo” trong môi trường đồng thuận của HTNT.

Ngoài cách thông qua LPCL như trên, người ta còn có thể “cân đo” (đánh giá) từ một người có trình độ tâm giác cao hơn trước một đối tượng có trình độ tâm giác thấp hơn. Đây là cách đem lại hiệu quả nhanh nhất (trong môi trường HTNT), tuy nhiên nó có thể bị sai số do chủ quan. Nên tùy trường hợp mà người ta chọn phương thức đánh giá đơn hay đa chiều.
Đánh giá tâm là đánh giá thông qua các hoạt động toàn diện của một cá nhân hay tập thể.
Thực tế cho thấy, người có tâm giác cao đưa ra nhận xét về người có tâm giác kém không khó hiệu quả đem lại cao, nhưng sự đánh giá ngược lại sẽ chỉ cho kết quả tương đối hoặc sai lầm.
Tuy nhiên nếu sự đánh giá là của một tập thể (dù tâm giác chưa cao), thì mức độ hiệu quả sẽ rất cao. Nếu trên phạm vi toàn xã hội thì sự đánh giá gần như tuyệt đối. Song nếu là những vấn đề có độ phức tạp cao, thì tốt nhất đưa nó vào môi trường HTNT.

Đặc biệt đối với những nhà lãnh đạo, thì việc tạo điều kiện cho xã hội lượng giá công khai trình độ tâm giác là rất cần thiết và hữu ích …
Nếu LPCL được chọn làm kim chỉ nam trong điều hành xã hội, thì điều này càng kích thích mọi người ra sức nâng cao trình độ tâm giác đều khắp.
Tâm giác phát triển (theo hướng chân lý gốc) chứng tỏ nhân cách con người được nâng cao, kỹ năng nhận thức qui luật xã hội (LPCL) có điệu kiện phát huy hiệu quả, trong khi tâm A1 có cơ hội được củng cố và mở rộng.
Trong xã hội có nhiều người ý thức rèn luyện như trên, thì đất nước nhất định phồn vinh, thế giới nhất định thanh bình an lạc.

Rèn tâm giác hay rèn tâm, cũng chính là rèn nhân cách đạo đức làm người.
“Cân đo” tâm cũng chính là “cân đo” đạo đức nhân cách của mỗi người. “Cân đo” để biết như thế là được chưa so với vị trí nhiệm vụ, hay cố gắng rèn luyện thêm điểm yếu nào để đạt mức cơ bản tối thiểu, đủ khả năng sống hòa nhập bình thường với xã hội.
Do tâm con người đa dạng không ai giống ai, nên việc chỉnh sửa tâm chủ yếu tùy thuộc vào ý thức tự giác của mỗi người. Đây là một trọng trách mà không bất kỳ một phương pháp đào tạo nào có thể thay thế.
Trong KHTT, vấn đề chỉnh sửa tâm là một trách nhiệm và cũng là một công trình khoa học mà mỗi cá nhân khi lớn lên đều phải có ý thức hoàn thành.
Vì thế mọi con người khi sinh ra đều tự nhiên gánh lên vai mình một trọng trách không thể thoái thác, là phấn đấu trở thành một nhà KHTT cho chính mình. Tối thiểu là nhà khoa học nghiệp dư, và tiến lên chuyên nghiệp nếu có điều kiện.
Vì thế giới tự nhiên đã qui định, con người không thể sống thành công nếu không vận động não tích cực nhằm đem lại mức sống hiệu quả đồng bộ từ cấp xã hội trở lên.



4.    NHẬN DIỆN LẼ PHẢI - CHÂN LÝ CƠ BẢN (LPCLCB)

Mỗi thời kỳ xã hội bao giờ cũng có một số tiêu chí sống làm kim chỉ nam phấn đấu chung cho mọi người.
Ví dụ, thời Phong kiến thì có tiêu chí “ý chí của vua” là tuyệt đối, thời Tư bản thì có tiêu chí “lợi nhuận” làm mệnh lệnh tuyệt đối, thời Cộng sản thì có “nghị quyết Đảng” làm huấn lệnh tuyệt đối, … đến thời HTNT thì “tâm A1  hay CLG” là mệnh lệnh tuyệt đối (chưa xảy ra).
Ta gọi các tiêu chí trên là những “Lẽ Phải Khách Quan Cơ bản” (LPKQCB) của cuộc sống. – Ngoại trừ thời HTNT thì được gọi là“LPCL  CƠ BẢN” (LPCLCB), vì nó đạt về ý nghĩa và giá trị.
Mục đích của các tiêu chí trên là được dùng làm động lực trung tâm, để tạo tiền đề cho toàn xã hội phát triển đồng bộ.

Chúng ta nhận thấy, tất cả các LPKQCB trên đều phải dùng đến sức mạnh của quyền lực (vũ khí) để phát huy giá trị, bởi nếu không sẽ không được mọi người chấp nhận.
Vì phải dùng đến quyền lực áp đặt, nên tính đúng đắn của các tiêu chí trên chưa có gì đảm bảo. Nên xét góc độ chân lý, tất cả chưa thể gọi là “lẽ phải” mà phải gọi là “lẽ trái” mới đúng.
Nên tất cả còn có tên “Lẽ Phải Chủ Quan Cơ Bản” (LPCQCB).
Trong một xã hội mà kim chỉ nam cơ bản đã mang tính sai trái, thì các lẽ phải còn lại chắc chắn ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng sai số “sai trái”. Ngoại trừ các lẽ phải chống lại  những LPCQCB kia, thì nó mới đúng nghĩa là các LPKQCB.

Như thế trong xã hội luôn có hai nguồn lẽ phải,  LPCQCB là LPKQCB.
LPKQCB có đặc điểm là không cần dùng đến sức mạnh quyền lực (vũ khí) để áp đặt, mà chỉ bằng những lời kêu gọi hợp lý là mọi người đã sẵn sàng tự giác ủng hộ tích cực.
Vì nó phù hợp với qui luật tự nhiên, tức là phù hợp với lòng dân, phù hợp với ý chí nguyện vọng của mọi người. Nó thực chất không chống lại lợi ích chung của xã hội.
Từ LPKQCB nếu mở rộng và đào sâu hơn nữa, chúng ta sẽ tìm thấy LPCLCB mà loài người muốn tìm.

Khác với học thuyết Mác, hay chủ nghĩa tư bản:
- HTNT là một gợi ý về phương thức xây dựng LPCL, còn cụ thể nó như thế nào là do mọi người cùng bàn luận và quyết định.
- HTNT định nghĩa xã hội là do nhân dân lãnh đạo, thông qua hệ thống diễn đàn (phổ thông) để mọi người được rộng được thể hiện nguyện vọng và ý chí của mình. Từ đó  LPCL được hình thành, nó là sản phẩm chung của xã hội về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
- Và LPCL được hình thành trên nguyên tắc của CLG lầm chuẩn, đây cũng là  LPCLCB mà HTNT muốn giới thiệu đến mọi người.
    - Sau khi LPCLCB đã được mọi người thông qua, cùng với các nguyên lý (phương thức) xây dựng LPCL theo mô hình HTNT, thì khái niệm “Tập Trung Dân Chủ và Quyền Lực”  mới chính thức có ý nghĩa.

Nếu xã hội chấp nhận CHỌN CON ĐƯỜNG TIẾN LÊN theo qui luật tự nhiên, thì LPCLCB và LPCL chính là kim chỉ nam ĐÚNG ĐẮN dẫn đến sự thành công ấy.
Vì chỉ có LPCL là đại diện ý chí của mọi người trong xã hội một cách đúng đắn nhất, do không chịu bất kỳ sự chi phối quyền lực nào ngoại trừ sự tự nguyện của mỗi cá nhân, sau khi con đường ý thức của họ đã được rộng mở.



5.    SỰ GIÁC NGỘ  CHÂN LÝ

Mục đích của chân lý là vì sự sống hạnh phúc của mọi người.
Hạnh phúc bao gồm hạnh phúc vật chất và hạnh phúc tinh thần.

-    Ví dụ 1: vì theo định nghĩa sự sống bắt đầu từ tâm ….
        Vậy khi tâm đã được giác ngộ, người có khả năng sẵn sàng chia sẻ với người còn thiếu. Họ có thể bị giảm đi một số tài sản, bù lại họ thu về … cái tâm. Ta nói người đó đang được hưởng “hạnh phúc tinh thần”.
        Sự “chia sẻ” như trên là một hành động mang tính chân lý, thuộc phạm trù KHTT.
-    Ví dụ 2: Anh nông dân trúng mùa vụ, năng suất kỳ này đạt rất cao …
        Đấy là nhờ anh biết vận dụng tốt kỹ thuật trồng trọt (giác ngộ). Kết quả sau thời gian, tài sản của anh tăng lên giàu có. Ta nói người nông dân đang được hưởng “hạnh phúc vật chất”.
        “Kỹ năng trồng trọt” như trên là một hành động chân lý, thuộc phạm trù KHVC.

Chúng ta nhận xét qua hai ví dụ trên, đã là chân lý thì không có khái niệm “bạo lực áp đặt” chen vào giữa quá trình sống và hành động của con người (khi cánh cửa ý thức đã mở).
    
Thường nếu ai đã hiểu ra vấn đề (chân lý) thì được gọi là “tỉnh ngộ” hay “giác ngộ”, nhất là về nhận thức sự sống, để đánh dấu thời điểm trí óc đã vượt qua thời kỳ “chưa biết” (u tối). Cụ thể là sự lẫn lộn giữa lẽ phải và lẽ trái đã được sáng tỏ.
 Đặc điểm của giác ngộ là cá nhân có cảm giác “sung sướng thích thú …” trước sự nâng cao của trí tuệ.
 Nó xảy đến một cách tự nhiên sau quá trình cá nhân phấn đầu, bằng nhiều phương thức.
Quá trình “giác ngộ chân lý” thường đạt hiệu quả cao nhất, khi có sự kết hợp giữa thông lý với thông tình (tâm giác phát triển cân đối). Thiếu một trong hai chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại, đặc biệt trong giác ngộ về chân lý KHTT.
Vì tình cảm là một phần tất yếu của chân lý sống.
Suy cho cùng mục đích của “lý” là để có “tình”, mục đích của “tình” là để có “lý”. Nếu gãy một trong hai chân lý sẽ bất thành.

Như người ta vẫn nói, mục đích là hành trình đạt đến chứ không đơn thuần chỉ vì chính nó. Suy ra, nếu sự sống là vì chân lý, thì “quá trình sống” hay “cách sống” là thời đoạn tốt nhất để tính “mục đích chân lý thể hiện”.
Và nếu kết hợp với nội dung phân tích “lý và tình” ở trên, chúng ta suy ra kết luận, loài người trong quá trình sống không nên dùng bạo lực với nhau vì nó phản lại cái tình, trong “tính mục đích” mà mỗi đời người đều mong muốn đạt tới.

Con đường giác ngộ chân lý bao giờ cũng đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ phiến diện đến toàn diện, từ riêng đến chung, từ chủ quan đến khách quan, từ hận thù đến thân thiện, từ bạo lực đến lương tâm, từ ích kỷ đến chia sẻ, từ ít đến nhiều, từ số lượng đến chất lượng, từ mê muội đến sáng trí, từ thụ động đến năng động,  v.v... và từ cụ thể đến trừu tượng, từ hữu hình đến vô hình, từ ý thức đến vô thức …
Mỗi con người sinh ra có tố chất tâm khác nhau hoàn cảnh khác nhau, nên quá trình giác ngộ cũng biến hóa đa dạng theo (nhanh hay chậm, cao hay thấp, nhiều hay ít, rộng hay hẹp, v.v…).
Vì thế xã hội là một tập hợp của đa dạng tính cách, tiêu biểu cho đa dạng trình độ sống hay đẳng cấp sống, nếu chiếu theo chuẩn mực chân lý sống.

Trong môi trường HTNT, sự khác nhau về trình độ sống không đồng nghĩa với hạnh phúc người này CAO HƠN hạnh phúc người kia, v.v… Nếu có chăng chỉ là những cảm nhận tương đối về hình thức.
Bởi theo HTNT, hạnh phúc là khi con người đạt được điều mình mong muốn, hay đã hoàn thành tốt phần việc của mình (cho bản thân và cho xã hội). Nếu người trình độ sống cao mà không hoàn tốt phần việc của mình, thì đương nhiên khái niệm “hạnh phúc” chưa chắc đã đến với họ. Ngược lại người trình độ sống thập nhưng biết hoàn thành tốt phạm vi trách nhiệm của mình, thì “hạnh phúc” vẫn có thể đong đầy.
Như người ta thường nói “nước lên thuyền lên”, tài cao thì khó khăn thách thức càng cao càng nhiều. Sự sống là như vậy.
“Ông … Tự nhiên” cho ai nhiều thì bù lại đòi hỏi cũng nhiều, làm cho con người dù ở khả năng nào vẫn luôn cảm thấy như mình đang bị “cái thiếu” bũa vây mọi lúc mọi nơi. Khái niệm “hạnh phúc” vì thế luôn ở trạng thái nửa thật nửa hư, có đó rồi mất đó …
Cách tốt nhất theo HTNT, con người nên chọn mục đích “hạnh phúc” ở “cách sống”. Mà cách sống có thể do cá nhân tự quyết, nên thành quả luôn ở trong tầm tay. Hơn nữa rèn “cách sống” là rèn kỹ năng linh hoạt, dễ dàng thích nghi với hoàn cảnh. Điều này giúp cho nhân cách đạt đến ý chí “biết đủ thì đủ”, phàm như thế người ta gọi là biết sống “hạnh phúc” vậy.
Ví dụ: nhà thờ Nguyễn công Trứ có câu:
“Tri túc tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
  Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?”
Đây là câu thơ diễn tả đúng nội dung mà HTNT muốn giới thiệu đến đọc giả. Mọi sự muốn chờ cho hoàn toàn đủ sẽ không bao giờ có, mà nên biết đủ trên thành quả mà chúng ta đã “tận nhân lực …”.

Ngoài ra nếu hiểu theo một cách nào đó, “hạnh phúc” mỗi đời người còn là thành quả do trời định. Nên mỗi người có cách tiếp cận “hạnh phúc” khác nhau, không ai có thể sao chép ai hoàn toàn được.
Mọi sự chênh lệch khác nhau về “đẳng cấp hạnh phúc” nếu có, chẳng qua là một loại men kích thích nhằm thúc đẩy mọi người hãy phấn đấu tốt hơn từ vị trí hoàn cảnh và khả năng đặc thù của mình.
Trong môi trường HTNT, khi sự sống được chọn theo quĩ đạo của qui luật tự nhiên, thì mọi con người đều sớm muộn có thể đạt mức sống từ hạnh phúc cơ bản trở lên, mọi sự buồn khổ bất hợp lý sẽ tiến dần đến triệt tiêu.
Khi bài toán quan hệ con người đã được lý giải đồng bộ.
Đây chính là mục đích lớn nhất trong tất cả các mục đích, mà xã hội loài người cần ra sức phấn đấu.

Chân lý, là một ân huệ của tạo hóa- tự nhiên muốn dành tặng cho loài người, nhằm đem lại những giá trị tốt đẹp cho cuộc sống.
Tìm đến chân lý, là nguyện vọng tự nhiên và cao cả của mọi cá nhân và của xã hội.
Tùy mỗi người mà kỹ năng tiếp thu chân lý có khác. Nếu may mắn cảm thụ được nhiều, thì sự sống sẽ phong phú và ý nghĩa hơn.
Tuy nhiên đến nay khái niệm “chân lý” ít nhiều còn lạ lẫm với nhiều người, nhất là từ góc độ khoa học. Vì vậy chân lý sống tuy không khó, nhưng có thể nó … không hợp với những ai chưa từng một lần nghĩ về nó.
Chân lý không thể dùng tiền để mua, nó phụ thuộc vào sự rung động trong lý trí và trái tim của con người (tự tìm hay sau khi được hướng dẫn).
Đồng tiền có thể giúp rút ngắn thời gian học tập rèn luyện tiếp cận chân lý, nhưng nó có thể là đối tượng gây cản trở vì tính ỷ lại, lười bỏ công tốn sức ... Trong khi yêu cầu phải trải qua những nhọc tâm khổ trí v.v… thì con đường giác ngộ  mới thuận lợi.
Trong tự nhiên bản chất nó có luật bù trừ. Cái gì đạt quá dễ, thì giá trị thành quả sẽ không cao không bền. Ngược lại càng khó càng gian nan hợp lý, thì giá trị chân lý giác ngộ càng cao.

Trong tự nhiên còn có luật số mạng … bởi “người tính không bằng trời tính”. Thường phải đợi đến quá nửa đời người, người ta mới biết rõ tương đối “trời cho ta những gì, và không cho những gì …”.
Nhưng dù sao phải “tận nhân lực” mới “tri thiên mệnh”. Một lời khuyên rất cần cho con người. Mỗi người hãy cố hết sức mình vì một ý nghĩa mục đích tốt đẹp nhất, để sau đó nên biết chấp nhận những gì tạo hóa- tự nhiên đã ân huệ với mình.
Nếu xét vấn đề trong môi trường HTNT, có thể tin rằng … mọi người sẽ có được “mức sống hạnh phúc” như đúng số phận cho phép …

Vật chất là cái con người có thể mua bán, trau đổi, cho, lưu trữ, v.v… hay hưởng thụ ngay nó ngay. Song nó sẽ bị mất mát, hao mòn … trong quá trình sử dụng.
Với tinh thần con người chỉ có một sự lựa chọn, trước hết là “phải bỏ công sức ra học tập rèn luyện theo thời gian” để hình thành kỹ năng sở hữu và hưởng thụ (giác ngộ). Tiếp theo cá nhân mới có thể truyền bá, buôn bán, trau đổi, v.v… nhưng trong quá trình sử dụng, nó không bị hao mòn mất mát như vật chất, mà ngược lại nó có điều kiện phát triển phong phú hơn.

Trong KHVC, con người có thể kế thừa nhau về kiến thức và tài sản vật chất.
Trong KHTT, con người cũng có thể kế thừa nhau về kiến thức và tài sản tinh thần (nhân cách).

Cứu cánh đời người về cơ bản là giống nhau, đó là hạnh phúc. Vì thế nguyên lý làm người chỉ có MỘT.
Nó bao gồm, suốt đời phấn đầu vì mục đích hạnh phúc vật chất và hạnh phúc tinh thần.
Để phấn đấu đạt mục đích hạnh phúc tinh thần, con người phải thỏa điều kiện rèn luyện sao cho hình thành kỹ năng phát triển từ CLG thành LPCL. Tức là xây dựng thói quen tâm giác sao cho nó trở thành công thức trong quá trình “tư duy ra LPCL”, nhằm kịp thời đáp ứng trước yêu cầu đa dạng của cuộc sống.
Mọi người nhìn chung đều chưa đạt kỹ năng sống như trên, do được … đào tạo tự nhiên (tự phát) từ môi trường sống xung quanh.
Vấn đề đặt ra là làm sao chuyển từ thành quả tự phát sang thành quả chủ động có ý thức đúng đắn từ A đến Z, thì kỹ năng tư duy số đông mới đạt chuẩn đồng bộ.

Muốn như thế, trước tiên cần xây dựng kỹ năng cảm nhận cơ bản về CLG, từ lý trí đến tình cảm. Khi kỹ năng cơ bản đã thành thạo, người tham gia luyện tập mới phát triển nó từng bước thành các LPCL đơn giản dễ hiểu trước, để rồi tiến lên khó dần sau.
Quá trình tiến từ CLG đến sáng tạo nên LPCL thành công, cũng là quá trình nhân cách thay đổi tiến lên, từ thời kỳ “sai lầm ngộ nhận” đến “giác ngộ thông suốt”, từ “nhân cách kém cỏi” đến “nhân cách hoàn thiện dần”.
Tất cả tùy thuộc vào sự chuyển biến của tâm giác, chứ không tùy thuộc vào kỹ năng học và trả bài thuộc lòng là thành công. Tức là nó phải đạt sự chuyển biến về tâm tư tình cảm và lý trí theo nguyện vọng của cá nhân, chứ không nhằm đối phó … để đạt “bằng cấp”, hay sự công nhận hình thức từ những người … đã bị lừa …

Đỉnh cao của kỹ năng tư duy (KHTT), là kỹ năng tư duy khách quan trung thực về tình và lý, một cách đúng đắn, trước mọi vấn đề của cuộc sống.
Tức là về lý luận, họ (những người thành đạt về “tâm giác”) có thể giúp mọi người nhận thức ra LPCL trong hầu hết (…) những vấn đề mâu thuẩn mà cuộc sống đang đặt ra.
Vì theo nguyên lý vận hành của tâm (A1), mọi người đều giống nhau về mục đích sống cơ bản, do vậy mọi mâu thuẩn chỉ là nhất thời do chưa đạt điều kiện thông hiểu nhau. Nay sau khi đã được lý giải thông suốt từ học thuyết chân lý, thì về nguyên tắc tất cả mọi người sẽ tìm thấy sự đồng thuận lẫn nhau.
 Vì tất cả cùng ý thức rằng, họ có như giống nhau một lợi ích chung, mà nếu để bị hư hỏng thì tất cả sẽ gánh chịu hậu quả, cho dù kẻ trước người sau, cách này hay cách khác, v.v ...
 
Quá trình học tập rèn luyện kỹ năng sống (tư duy) cũng là quá trình con người tự khám phá về bản thân (nhân cách) mình, biết đâu là những ưu khuyết để đề ra yêu cầu tự khắc phục. Nên đây cũng là con đường dẫn đến kỹ năng làm chủ bản thân, điều kiện tiền đề tiến lên kỹ năng làm chủ xã hội.

Phải chăng sự sống từ lâu đã được tự nhiên tiêu chuẩn hóa (tại tâm A1), và con người chỉ còn một nhiệm vụ là tuân thủ những gì lương nó mách bảo. Chỉ có như thế sự bình an vĩnh cữu mới đến với loài người …
Xã hội ổn định thì cá nhân mới tìm thấy sự bình an và hạnh phúc. Cái chung bao giờ cũng cần được ưu tiên trước, kế mới có điều kiện tính việc riêng. Nhưng muốn cho cái chung được bền vững lâu dài, thì cái riêng phải được chăm lo phát triển vững mạnh và toàn diện.
Rõ là chung hay riêng đều cần, lúc cấp thiết thì cái chung phải được ưu tiên. Khi nó đã tạm ổn, thì cái riêng phải được ưu tiên tính đến.
Chân lý trên không khó để hiểu, nhưng để đạt hiệu quả trong thực hiện, sự sống rất cần có một học thuyết đúng đắn để lý giải nếu không mọi chân lý … cũng chỉ là chân lý suông …

Khi đã chọn một con đường sống là đồng nghĩa với một định hướng hình thành nhân cách. Tương ứng với nó là một kỹ năng sống, một kỹ năng tư duy.
Một quyết định như trên rõ ràng không đơn thuần chỉ có ý nghĩa đối với một cá nhân hay một xã hội, nó có ý nghĩa đến tất cả nếu xét về lâu dài hay về những mong ước tuyệt đối hóa.
“CLG của tâm A1” là một hướng …




VI – Ý THỨC

“Vũ trụ và con người” là hai thái cực về kích cỡ.
Nhưng con người “có ý thức” vũ trụ thì “không”, nên kích cỡ đôi khi hóa vô nghĩa.
Do “có ý thức”, con người có vẻ “tự do” hơn – muốn làm gì có quyền chọn ...

Nhưng thực tế con người bị lệ thuộc “ý thức”, nên “có tự do” mà như … “không”. - Ý thức sai, con người mất quyền chủ động.
Trong khi vũ trụ thấy vậy mà … “tự do” hơn. Do không bao giờ biết kêu ca phàn nàn như loài người, tạo hóa- tự nhiên kêu sao cứ thế một con đường … bay vô tận.

Sự sống loài người có đặc điểm, muốn làm gì đều phải có ý thức.
Từ không gian vũ trụ rộng lớn đến các hạt nguyên tử nhỏ bé li ti, đến các sinh hoạt đa dạng đời thường dù lớn dù nhỏ, v.v…, con người đều cần ý thức để xử lý. Thiếu nó là thiếu tất cả.
Song ý thức lại là đối tượng ít được con người chú ý nhất, trong suốt quá trình sống.
Ý thức như cặp kính đeo mắt, mắt nhìn thấy mọi thứ trừ cái kính không nhìn thấy. Ngày kia phát hiện cái kính bị ố vàng, mới hiểu ra thế giới lâu nay bị nhuộm vàng là do tại nó.
Người khác thì kính xanh, kính đỏ, v.v… , khiến cho thế giới tự nhiên hóa thành nhiều hình dạng mà bản thân nó chưa từng có.
Có người thắc mắc, sao lại nói tôi thấy toàn đỏ trong khi mắt tôi vẫn sáng tỏ. Nhưng khi kiểm tra lại mới thấy tại cặp kính đeo.
Căn bệnh “chủ quan” của con người có nguồn gốc là như thế.
Hãy thay kính màu bằng kính trong bình thường, thì căn bệnh “chủ quan” sẽ khỏi
Tức hãy gỡ bỏ màu sắc của “ý thức”, mọi người sẽ cùng nhìn thấy một thế giới tự nhiên duy nhất, một xã hội loài người chỉ có một màu tự nhiên thân thiện. Khi ấy những mâu thuẩn do căn bệnh “chủ quan” lâu đời gây ra, sẽ tự động rời khỏi “mọi cớ chế sinh tồn có nguồn gốc Ý THỨC”.

Từ lâu, nhiệm vụ của ý thức là chốt chận cánh cửa “LÝ TRÍ” của loài người. Chốt có mở không khí và ánh sáng mới lan tỏa vào mọi không gian sức sống.
Để xác định của chốt ý thức, chúng ta diễn đạt thành phân số như sau:

                   lý trí                       NHÂN
                              ý thức                    CÁCH    

          (PHÂN SỐ: tử số lý trí , mẫu số ý thức   =      NHÂN CÁCH    )

Theo tự nhiên, lý trí  và ý thức là hai số nguyên nên có thể âm (sai) hoặc dương (đúng). Suy ra NHÂN CÁCH cũng có thể âm (sai) hoặc dương (đúng).

Ví dụ:
Trong sự sống hiện nay, nếu con người có
-    tử (-) và mẫu (-), suy ra NHÂN CÁCH là (+) = người tốt
-    tử (+) và mẫu (-), suy ra NHÂN CÁCH là (-) = người xấu

Phấn đấu tương lai, nếu con người có
-    tử (-) và mẫu (+), suy ra NHÂN CÁCH là (-)  = người xấu
-    tử (+) và mẫu (+), suy ra NHÂN CÁCH là (+) = người tốt

* Diễn giải 1:
Do xã hội hiện nay nhìn chung ý thức đang âm (-),
- thêm lý trí âm (-) nữa tức trái với tư tưởng chính thống, NHÂN CÁCH nhiều khi lại tốt.
- nhưng lý trí dương (+) sống theo tư tưởng chính thống, NHÂN CÁCH dễ sinh thoái hóa.

* Diễn giải 2:
Tương lai phấn đấu đạt ý thức dương (+) nhằm mục đích:
-    nếu lý trí âm (sai) thì nhân cách âm (SAI),
-    nếu lý trí dương (đúng) thì nhân cách dương ĐÚNG.
Như thế hợp tự nhiên hợp với kỹ năng tư duy thông thường, mọi người không còn sợ bị lạc lối do ngộ nhận phải- trái dễ sinh mâu thuẩn không cần thiết.
Minh họa trên cho rằng, con người dù hoạt động đa dạng nhưng về bản chất nó bị mẫu số chi phối, nên dù cố gắng con người cũng không thể thoát ra những bất ổn “thế cờ tư duy sai lầm”.

Muốn chỉnh sửa ý thức, tất yếu phải tìm hiểu ý thức.
Và nó chỉ có một cách duy nhất, là dùng nó để khám phá ra nó.
Nhưng bản thân ý thức rất khó quan sát chính nó.
Phần vì nó bận phục vụ tối đa cho ý chí, phần khác bị môi trường tác động, phần khác bị những tác động phức tạp từ nội tâm, v.v… nên cuối cùng nó không còn sức để chăm sóc cho chính nó.
Tuy nhiên ý thức sẽ nhìn thấy nó, khi để ý nhìn về  “đáy lòng” (tâm).
Và kết quả sau nhiều thử nghiệm cho thấy, ý thức và ý chí là hai “quyền lực” độc lập nhau, trong ý thức giữ vai trò quyết định hơn khi xét thời gian dài hay vấn đề ở góc độ toàn diện.

Nguyên nhân ý thức đóng hai vai trong sự sống. Một do ý chí (đại diện cá nhân), một do tâm A1.
Nhất thời ý chí (tâm A2) có thể thắng ý thức, nhưng cuối cùng bao giời quyền quyết định cũng thuộc về ý thức (tâm A1).
Sự quyết định này được thể hiện nổi bật nhất là qua các cuộc cách mạng xã hội và chiến tranh thế giới, v.v…

Như đã giới thiệu, tạo hóa- tự nhiên đã dùng một phần ý thức để kéo loài người vào quĩ đạo của qui luật tự nhiên. Tuy nhiên do quá trình tác động ấy rất linh hoạt, nên con người rất khó khăn nhận ra vai trò chủ đạo của tạo hóa- tự nhiên trong cuộc sống.
Nhưng dù cách nào sự sống cũng không thể thoát ra khỏi quĩ đạo của tự nhiên …, nhanh hay chậm chỉ sau khi ra sức khắc phục hậu quả sai lầm do mình gây, loài người mới có đủ cơ sở kết luận.
Ví dụ: theo HTNT, tâm A1  đại diện cho ý chí của tạo hóa, tâm A2  đại diện cho ý chí chủ quan của con người hiện nay.
-    A1  đề ra tiêu chí sự sống phải có lương tâm, có tính lôgíc trong nhận thức quan hệ, v.v … trên cơ sở CLG làm chuẩn.
-    A2  NGƯỢC LẠI đặt tiêu chí sống chủ yếu “thỏa mãn dục vọng vật chất” cá nhân, như giàu tiền và giàu quyền lực, trên cơ sở những thế mạnh … “trời” cho.

Như thế trong mỗi con người luôn có hai tiêu chí như trên xảy ra và đối nghịch nhau. Một là vì mục đích của tạo hóa- tự nhiên và một là vì chủ quan của con người.
Tất yếu theo nguyên lý sinh tồn tự nhiên, con người chỉ có một quyền duy nhất là “sống theo mục đích của tạo hóa- tự nhiên”.
Vì thế một trong hai mục đích trên bắt buộc phải có một cái bị loại ra khỏi cuộc chơi sinh tồn. Thực tế nó được biểu diễn thành hai phe thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, đúng và sai, v.v… luôn đấu tranh sống còn với nhau.
Phe chính nghĩa tâm A1 của tạo hóa- tự nhiên tất yếu phải dành chiến thắng cuối cùng.
Nhưng thực tế nó phải chờ đến cao trào để tích tụ đủ sức mạnh lật ngược thế cờ sau một thời kỳ dài bị những sai trái, phi nghĩa lấn lướt áp đão. Trong khi ấy, phe phi nghĩa của tâm A2  tha hồ gây mưa gió … nhằm tích lũy của cãi cá nhân và củng cố quyền lực với hi vọng dành ưu thế lâu dài trước ... “quyền lực tự nhiên”.
Quá trình tích lũy và gây sóng gió như trên, xét góc độ lịch sử, bao giờ cuối cng “phe tâm A2 ” cũng bị án phạt đích đáng. Thế nhưng lòng tham và sự chủ quan đã khiến  con người không sao thức tỉnh, khi tay lái “ý thức” đã bị hỏng.
Lịch sử đã chứng minh phần thắng luôn thuộc về số đông ý thức A1, chừa thất bại nghiêng về phía ý thức A2 .

Vấn đề của loài người nếu có … chính là sự ngộ nhận lâu dài về chân lý sống.
Nói cách khác, sự sống loài người từ lâu đã không nhận ra vấn đề “chân lý sống” là điều kiện sinh tử để được sống hòa bình an vui và hạnh phúc trên phạm vi toàn cầu. Mà chỉ thích chọn (chính quyền) sống theo con đường tự phát phi tự nhiên, nó cũng là con đường “tự hại chính mình”.
Điều chỉnh lại ý thức là một nhiệm vụ cấp thiết của thời đại, khi môi trường sống xã hội đã trở nên rất phức tạp bởi sự phát triển vượt bậc đầy lôi cuốn và hấp dẫn của kỷ nguyên vật chất kỷ thuật siêu tân tiến đang bắt đầu.

Chúng ta có thể so sánh ý thức của tạo hóa là cái nhà, ý thức con người (tầm nhìn) là nội thất được trang bị trong đó.
Do là ở trong nhà, nên tầm nhìn của “nội thất” tất yếu phải bị che, bị giới hạn bởi các bức tường. Để rồi chủ quan cho rằng “sự sống chỉ là những bức tường”, trong khi “nó là cả cái nhà” mới đúng nghĩa.
Nay muốn cho cuộc sống được tốt hơn, thì vấn đề là tìm cách thóat khỏi “bốn bức tường” kia để nhìn thấy “toàn khối nhà”.
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Phải chấp nhận sự sống chúng ta là do tạo hóa- tự nhiên tạo ra, và “Người” đã cần gì ở chúng ta. Có như thế cái khả năng “biết người biết ta” mới trở thành hiện thực, và cánh cửa “thắng trận” mới có cơ hội mở ra.
Phải khám phá ý thức của tạo hóa- tự nhiên muốn gì, sau mới tính đến phần ý thức của “ta” sao cho hợp. Như thế mới phải lẽ mới hợp đạo lý làm người.

Muốn soi tìm ý thức của tạo hóa- tự nhiên, con người nhìn về tâm, nhìn về quá khứ (lịch sử), nơi ý thức tạo hóa và ý thức con người cùng song hành. Để chúng ta chiêm nghiệm ra đâu là vấn đề cần rút ra.
Vị trí của tâm rất thuận lợi trong quan sát ý thức, nên nó sẽ giúp con người thóat khỏi thói quen chủ quan thiển cận hẹp hòi, để thẳng thắng phân loại những gì trái với lương tâm A1 .
Những gì phù hợp với lương tâm hay tâm A1 , đây mới là ý chí chân chính nhất của con người, là bản chất cơ bản của nhân cách con người.
Trong khi những hiện tượng thuộc tâm A2, chỉ những phát sinh chủ quan nhất thời. Nó chống lại tâm A1 do ngộ nhận trong giai đoạn đầu của qui luật tiến hóa ý thức.

Do đó muốn tìm hiểu đâu là bản chất đúng đắn của con người, chúng ta phải nhìn về tâm và kỹ năng quan hệ toàn diện, chứ không phải đơn thuần chỉ dựa trên các thành quả hình thức (tiền tài, bằng cấp, địa vị xã hội, v.v…).
Muốn nhìn về tâm của người, trước hết phải nhìn về tâm của mình để khám phá, hiểu và nâng cấp nó.
Khi tâm đã đạt trình độ cơ bản tối thiểu, thì mới có khả năng cảm nhận được tâm của người một cách tương đối.
Muốn quan sát tâm, ngoài nhìn trực tiếp, cá nhân có thể kết hợp với góc nhìn toàn diện về kỹ năng sống cá nhân, vì tất cả là sản phẩm của tâm. Hoặc chỉ cần quan sát một vài hiện tượng đặc thù của nhân cách, là có thể kết luận tương đối về tâm về nhân cách của một cá nhân.
Tâm là thành quả của một quá trình lâu dài của cá nhân, nên muốn nhận thức nhiều về tâm chúng ta cũng phải dành một quỹ thời gian và công sức tương đối. Tất yếu nó không đơn giản và dễ hiểu như chúng ta đang xem một phim hài.
Những nhận thức ban đầu về tâm thường không chính xác. Nhưng “cây kim trong bọc cũng có ngày lòi ra” hoặc “cháy nhà lòi mặt chuột” v.v… , nên nhiều khi phải chờ thời gian và thời cơ thích hợp, để tâm được bọc lộ ra hết nguyên trạng của nó.

Bản chất của tâm là ẩn sâu dưới tận đáy lòng. Song có nhiều đáy lòng cạn nên chỉ cần qua một vài biểu hiện cá tính, người ta có thể kết đoán dễ dàng tâm của một nhân cách.
Nhưng với những người có tâm phức tạp, cá tính phức tạp, hoặc giỏi trong kỹ năng che giấu nội tâm, v.v … nên việc tìm hiểu đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm, cũng như thành quả rèn luyện tâm của đối tượng muốn chủ động khám phá.
Tuy nhiên tất cả tâm, khi có thời gian cộng với sự tham gia quan sát của nhiều người, thì kết quả sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều.

Tâm và ý thức là hai mặt của một vấn đề. Cả hai tác động biện chứng với nhau, tạo cho nhau động lực chi phối con người. Vì thế qua quá trình sinh hoạt đa dạng, con người trước sau cũng phát hiện ra chân tướng của tâm nếu có ý khám phá nó.
Trong ý thức bao giờ cũng còn có xen kẻ những ý chí chủ quan nhất thời của cá nhân. Nên khi xét đoán tâm cần cẩn thận loại trừ hiện tượng trên. Như người ta nói, đây là bài toán về hiện tượng và bản chất.

Người có lối sống tích cực thì khả năng làm chủ (nhận thức) tâm A1 sẽ rất lớn.
Ví dụ: họ có thể dễ dàng phân biệt giữa ý chí A1 và ý chí A2 , tại nút thắt ý thức, để hoàn thành nhân cách tích cực của mình.
Vì thế nếu có điều kiện, họ sẽ có thể tiến đến khả năng làm chủ được tâm, ý thức, và ý chí , tức là hoàn thiện kỹ năng làm chủ bản thân, tiền đề làm chủ xã hội trong tương lai nếu tiếp tục theo đuổi mục đích.

Trọng tâm của kỹ năng làm chủ ý thức, là con người có đủ tự tin làm các điều thiện từ đơn giản đến phức tạp trong cuộc sống. Nếu con người có thể hoàn thành được như trên, chứng tỏ bài toán về nhân cách đã có lời giải. Tức là qui trình hình thành “bản chất của một nhân cách” xem như không còn là một bí mật nan giải.
Suy ra mục tiêu làm chủ bản thân làm chủ xã hội cho mọi người, rất có khả năng trở thành hiện thực. Với điều kiện, con đường hướng tâm A1 phải được lựa chọn.

Cũng như chìa khóa giải bài toán qui luật xã hội, nó không ở đầu ngoài nút thắt Ý THỨC. Vì từ đây sẽ truy ra được tâm, truy ra được bản chất con người, truy ra được nguyện lý vận hành sự sống nói chung.
Như thế ý thức vừa là mục đích, vừa là phương tiện giải cứu cho chính nó, cho sự sống, cũng là cho sự nghiệp tiến hóa của loài người.

Nhiệm vụ trên xem ra rất khó hoàn thành. Tuy nhiên khi sự tiến hóa đạt đến thời điểm thì cái không thể sẽ trở thành có thể.

Tạo hóa đã định cho tâm A1 làm chức năng dẫn đường thông qua CLG, nhằm định hướng con người đạt đến sự hưởng thụ hài hòa về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần trong cuộc sống.
Nhưng vì thực tế loài người văn minh đến nay mới quen chú trọng hưởng thụ lợi ích vật chất như một chân lý sống, nên đã phải thường xuyên bị trả giá.
Suy ra tâm A2 được phát tán mở rộng, trong khi tâm A1 bị đẫy vào góc tối. Nó đồng nghĩa với kỹ năng phân biệt lẽ phải-trái trong các quan hệ không thể đạt đến hiệu quả cuối cùng.
Đấy là đặc điểm cấu tạo của nền Văn Minh Văn Hóa Nhân Loại đến nay.

Thuốc giải là tạo điều kiện và cơ hội cho tâm A1 được khôi phục lại vị trí cũng như được phát huy ưu thế vốn có. Tức là con người cần thay đổi thói quen nhìn sự sống, nó phải đi từ hướng nội trước rồi mới đến hướng ngoại sau.
Để lời giải trên thâm nhập thành công vào thực tiễn cuộc sống, vấn đề cần được tiến hành một cách có hệ thống và hợp lý, từ lý thuyết đến thực hành, từ số ít đến số đông người tham gia thực hiện, v.v…
Tất cả dựa trên cơ sở, lấy CLG làm sức mạnh quyền lực nội tại, động viên mọi người tích cực vượt qua mọi khó khăn ...

Lương tâm (A1) là một khái niệm phổ thông ai cũng khá rõ. Như thế mọi người không quá khó để lý giải những bất hợp lý thông thường trong cuộc sống, kế đến động viên nhau chỉ bảo nhau cùng hoàn thành tốt nó.
Khi phải đối diện trước những vấn đề phức tạp khó hiểu hơn, thì cần tìm đến những nhà chuyên môn nhờ lý giải.
Những nhà chuyên môn cũng là những người chịu trách nhiệm lèo lái con thuyền xã hội đi đúng hướng,  vì họ là những đại diện trí tuệ ưu tú của xã hội.
Nên họ được qui vào giới “thượng tầng kiến trúc xã hội”. Nó bao gồm chính quyền, trí thức, các tổ chức đảng hay giáo phái, v.v… Trong số ấy theo HTNT, “đảng” với vai trò Trung tâm KHTT, Trung tâm Phát triển Trí tuệ và Sự sống, … phải làm tròn trách nhiệm chủ đạo toàn diện trước xã hội.
Nếu không như thế, xã hội sẽ tự động phân hóa thành hai đối cực cơ bản, do mâu thuẩn bất đồng quan điểm phát triển. Nổi bật là giữa chính quyền với nhân dân. Một bên quen tật đóng khung cố định, một bên bản chất linh hoạt bỏ cũ thay mới theo biến đổi thời thế.

Dù khôn hay dại, mạnh hay yếu, sự sống luôn cần học thuyết để vững vàng hơn trong phát triển.
Người thức thời cầu tiến sẽ dễ nhạy bén với hoàn cảnh, người bảo thủ quan điểm và quyền lợi thì chỉ muốn dặm chân một chỗ … ngoại trừ không còn cách nào khác.
Con người chỉ thật sự thay đổi khi các minh chứng về lý thuyết và thực tiễn đạt đến sự hoàn mỹ. Một đòi hỏi vô cùng khắc khe, nhưng có lẽ không còn cách nào khác.
Hay ta có thể nói, những chủ quan sai lầm cực đoan chỉ có thể bị tiêu trừ triệt để trước sự ra đời của các LPCL.

Am hiểu nội tâm là một nhiệm vụ mới của thời đại, một thách thức mới cho các nhà khoa học.
Nó là loại nhiệm vụ không dễ để kiểm tra và báo cáo lập thành tích. Nó là loại nhiệm vụ rất khó để phô trương gây tiếng vang tạo sự chú ý. Nó là loại nhiệm vụ lặng lẽ âm thầm theo dõi sự biến đổi chậm rãi về chất của nhân cách.
Nhiều lắm là bằng lời nói để minh họa những diễn biến của quá khứ, hiện tại, tương lai.
Nó là loại công việc quá thiệt thòi về hình thức, nhưng nó đủ khả năng làm thay đổi nhân cách con người, làm hiện thực hóa khát vọng hòa bình hạnh phúc thịnh vượng của toàn thể loài người trong tương lai.




VII – Ý THỨC VÀ SỰ SỐNG

Làm người ai cũng gánh trên vai một sứ mệnh vô cùng lớn lao, mang tên “ý thức”.
“Ý thức” là cánh cửa quyết định vận mệnh của mỗi đời người. Tùy nó có thể mở rộng hay hẹp, mà ánh sáng trí tuệ được tháp sáng lên bao nhiêu.
Trong môi trường quan hệ, điều rất đáng nghi là cánh cửa “ý thức” đã mở khá hẹp.

Vì thiếu ánh sáng trí tuệ, nên công cụ “đối thoại” hoặc là tránh dùng đến, hoặc là có dùng nhưng hiệu quả mang đến không cao, khi khái niệm “lẽ phải” thiếu cơ sở hậu thuẩn.
Thiếu lẽ phải đồng nghĩa với thiếu nhân cách, đồng nghĩa với khó làm chủ trong lời nói và hành động.
Sự sống không ai muốn phải đối diện với sai lầm.
Nhưng vì thiếu khả năng, thiếu ánh sáng trí tuệ, nên buộc phải lấy “cái sai” làm “cái đúng” để … tạm qua ngày đoạn tháng.
Muốn chấm dứt tình thế éo le trên chỉ có mỗi cách, hãy mở hết cánh cửa “ý thức” để ánh sáng tỏa đều đến mọi gốc cạnh của sự sống.
Lời giải trên nhằm phản biện về nguyên nhân chính của sự sống. Nó không chủ yếu do các vấn đề như đảng phái, cơ chế chính quyền, thành phần lãnh đạo, mâu thuẩn giai cấp, bóc lột hay không bóc lột, tội lỗi kiếp trước kiếp sau, v.v…. 
Tất cả những lý do trên có thể không sai, nhưng nếu đáp án “ý thức” chưa hoàn thành, thì mọi cải tiến vẫn tiếp tục dừng ở thành quả tương đối ...

Nguyên nhân chính là do “ý thức” nếu để tự nhiên nó sẽ phát triển lầm đường một cách “vô tư”. Vì thế, trời sinh ra nó rất cần được sự chăm sóc uốn nắn chỉnh sửa kịp thời, ngay từ rất sớm có thể, trước khi sự cố cúp điện xảy ra ...
 “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Làm chủ sự nghiệp “ý thức” tức đã hoàn thành tốt mục tiêu “tốt gỗ” vậy.
Từ xa xưa đến nay con người đã biết chăm lo đào tào “ý thức” ngay từ sớm, nhưng mới chú trọng một nửa (ý thức vật chất), còn thiếu một nửa còn lại (ý thức tinh thần góc độ khoa học).

Hoàn thành đào tạo “ý thức vật chất”, tức là mới xong việc “tốt nước sơn”. Cần phải tiến lên “tốt gỗ” mới là giai đoạn thật sự quyết định.
Do chỉ thành thạo “tốt nước sơn”, nên các hội nghị khắp nơi bàn nhiều về mọi vấn đề, nhưng ngoại trừ … bài toán về “đạo đức và nhân cách” tầm chiến lước.
Kết quả xã hội văn minh đã mắc bẫy của chính mình ...

Học thuyết Mác-Lê là một hướng lý giải tốt về ý nguyện. Song nó phải chịu khiếm khuyết khi đảm nhận vai trò tiên phong.
Chân lý sự sống chỉ có một, trong khi học thuyết của Mác đã hoạch ra một chân lý thứ hai. Nó rất đẹp về hình thức, nhưng đã xa lạ về nội dung so với qui luật tự nhiên.
Học thuyết Mác đã vô tình đóng hẹp hơn nữa cánh cửa “ý thức”, vốn dĩ đã hẹp, đã u tối, và đã khốn khổ lắm rồi.

Một trong các cách mở cửa “ý thức” hiệu quả nhất và nhanh nhất, là cho quyền mọi người được “mở miệng” theo cách của mình, và tốt nhất trong môi trường của HTNT.
Chỉ có sự hợp lực của mọi người mới đủ lực đẫy cổ máy chân lý vận hành hiệu quả. Mọi cá nhân hay tổ chức dù tài năng đến đâu cũng không thể hoàn thành được trọng trách trên. - Có chăng chỉ là nhất thời, hoặc nó mang tính lừa dối theo kiểu “đục nước béo cò”, cơ hội ...
Như thế, mọi học thuyết sẽ trở nên đúng đắn, khi nó đặt trọng tâm phát huy quyền lực nhân dân lên mức tuyệt đối, trên cơ sở của những minh chứng hợp lý và khoa học.
Điều trên đồng nghĩa với yêu cầu trao trả lại cho nhân dân quyền lãnh đạo tối cao trong thực tiễn. Vấn đề cũng đồng nghĩa với yêu cầu phải có đáp án cho bài toán “ý thức”, nếu mong ước vẫn chỉ là mong ước  …

Sự sống loài người bản chất nó là một sự liên kết thống nhất toàn hệ thống, có chìa khóa cơ bản là “ý thức”. Nhất cử nhất động của chiếc “chìa khóa” ấy, cả hệ thống đều ít nhiều bị ảnh hưởng.
Chìa khóa và cửa là một, chìa có mở cửa mới mở, sự sống mới thăng hoa.
Muốn chìa mở, một là phải tìm học thuyết hợp lý để đủ sức “bôi trơn” các gốc kẹt khô dầu của ổ khóa và bản lề cửa (các mâu thuẩn đối kháng), hai là dùng sức mạnh toàn dân để lay chuyển cánh cửa “ý thức” về vị trí tối ưu nhất.
Nếu mở cửa mà không dùng học thuyết đúng đắn, thì khô vẫn khô cửa vẫn cứng. Những cái sai càng có dịp hợp thức hóa sự tồn tại của mình, từ chính cái chất liệu dầu trái tự nhiên phản tác dụng đó.
Sự sống như thế càng thêm phức tạp, những giá trị đúng bị hóa thành tội phạm vì tội … “muốn cửa chuyển động”.
Đấy là sự nguy hiểm của một dân tộc khi tình cờ vướng phải một học thuyết sai trái, và được các nhà lãnh đạo hết lòng tin dùng làm kim chỉ nam phát triển.



VIII – Ý THỨC VÀ SỰ THAY ĐỔI

A - Cánh cửa “ý thức” sẽ thay đổi, khi con người thay đổi cách sống, mục đích sống, phương hướng sống, niềm tin sống.
Tốt nhất là thay đổi bắt đầu từ kim chỉ nam phát triển và điều hành xã hội, tức là thay vì quen dùng “quyền lực chủ quan” thì nay tập đổi qua dùng “quyền lực khách quan” trong điều hành phát triển xã hội.
Tức là xã hội từ chỗ thiểu số nắm quyền nay tiến lên, giao cho toàn dân nắm quyền.
Đây được xem là một cuộc cách mạng về “ý thức hệ” toàn diện, bao gồm “kỹ năng sống”, “kỹ năng quan hệ”, “kỹ năng xây dựng niềm tin”, v.v…

Đây là cuộc cách mạng không có tiếng súng, nó chỉ cần lời nói và lý lẽ để phân minh công khai rạch ròi mọi giá trị phải- trái, trắng- đen, đúng- sai, v.v... trong quan hệ, mà từ lâu do nhiều nguyên nhân nó đã bị ngộ nhận.
Mọi người ai cũng có thể làm người cách mạng và cũng là đối tượng của cách mạng, vì “cách mạng là giác ngộ con đường dẫn đến hạnh phúc”.
Cách mạng tiến hành bằng cách tạo điều kiện cho mọi người, cùng nhau trau đổi bàn luận đâu là con đường đúng đắn nhất của sự sống. Để từ đó tìm ra chân lý sự sống là gì.
Tóm lại, vũ khí của cách mạng là, “đối thoại công khai và HTNT”.
Kẻ thù của cách mạng là “sự ngộ nhận trong nhận thức”.
Đường lối cách mạng là “dựa vào tâm A1 để tìm lời giải”.
v.v…

“Hưởng thụ tinh thần”, có người cho là mơ hồ không thiết thực, “hưởng thụ vật chất” mới cụ thể và hiệu quả.
Đặc điểm của loài người là trí tuệ, bản thân nó cũng là một nhu cầu về hưởng thụ và phát triển trong quá trình xảy ra sự sống.
Vì vậy mọi hưởng thụ vật chất, thực tế mới thỏa về nhu cầu phát triển cơ thể, chưa thỏa về trí tuệ.
Phải có hưởng thụ tinh thần thì thế giới sự sống mới tìm thấy sự ổn định bền vững.
“Hưởng thụ tinh thần” tức là mọi nhu cầu lý giải sự sống cần được đáp ứng đến giới hạn cuối cùng, trên khả năng trí tuệ tối đa của con người.

Trong hưởng thụ tinh thần, thì “đạo đức hay kỹ năng quan hệ hay cách sống” là bài toán nan giải nhất. Nó khó thích nghi nhất đối với đa số cá nhân, vì hoàn cảnh sinh tồn, vì tật tánh của một số thích sống theo sự tự phát chủ quan nhằm thỏa mãn tính cá nhân, dễ dãi buôn thả trong ý thức tôn trọng người khác bất kể hậu quả, v.v …
Tất cả là do tính phức tạp trong nguyên lý rèn luyện nhân cách, dẫn đến trong một thời gian dài (lịch sử) con người chưa nghiên cứu thành công về nó.
Cuối cùng sự mâu thuẩn về quyền lợi vật chất đã đưa loài người đi vào con đường phát triển hẹp, trong khi lòng tham và tính độc ác luôn tìm cách lấn sân tối đa ...
Kết quả, “hưởng thụ vật chất” trở thành đỉnh cao của số người này, nhưng là nguyên nhân gây đau khổ cho số người khác. Trong một xã hội như trên, người đau khổ … hóa thành nạn nhân, người sung sướng … hóa thành tội phạm (ngẫu nhiên).

Để sự sống trở nên hợp lý hơn, con người cần có một cuộc cách mạng về chất lượng sống. Nó bắt đầu từ sự thay đổi về cách sống và nhận thức cuộc sống.
Có như thế bất công xã hội mới bị tiêu trừ tận gốc và vĩnh viễn.
Vấn đề bắt đầu từ hai yếu tố, “bản chất” và “thói quen”.
Thực tế xã hội loài người hiện nay gọi chung là “không hạnh phúc”, như thế là trái với “bản chất” con người.
Nay chúng ta lấy từ “bản chất” nhơn lên thành “thói quen”, tức là đã tạo nên cuộc cách mạng về “kỹ năng sống mới”.
Từ “kỹ năng sống mới”, mọi người sẽ có ý thức sống vì mục đích “hạnh phúc khi tất cả cùng hạnh phúc”. Tức là xã hội không còn cảnh, người thì quá giàu và kẻ thì quá nghèo, mà tất cả mọi người biết thỏa thuận phân chia nhau sao cho hợp lý trên số tài sản vật chất khai thác được.
Bằng cách “kỹ năng sống mới” cung cấp cho con người chiếc chìa khóa giúp “tối ưu hóa trí tuệ” trong kỹ năng quan hệ, cũng như kỹ năng hưởng thụ cuộc sống mới.

Kỹ năng sống như trên thực tế không mới vì nó đã xảy ra trong cuộc sống đương đại.
Ví dụ: con người có thể vượt qua các “giá trị vật chất” (tính mạng, tài sản, v.v… ) để bảo vệ “giá trị tinh thần” (lý tưởng, hi sinh cho thế hệ tương lai, v.v…).
Vì người ta đã ý thức được “giá trị tinh thần” có những lúc nó to lớn hơn “giá trị vật chất” mà họ đang có.
Điều trên chứng tỏ họ là những người đã giác ngộ “giá trị tinh thần”, và đã đi trước thời đại.
Từ thực tiễn điển hình trên, dưới góc độ khoa học, nó được nghiên cứu thành công thức sống (HTNT) nhằm đại trà hóa đến mọi người.
Ví dụ: trước hết chính quyền hãy gương mẫu trao trả lại “quyền làm chủ toàn diện cho nhân dân”, thay vì chỉ muốn hưởng lợi ích “quyền thế” cho riêng mình …

“Sự công bằng hợp lý” trong phân chia “quyền lợi” là vấn đề mang tầm trí tuệ phát triển (ý thức giác ngộ, đời sống tinh thần nâng cao).
Chỉ khi con người đạt trình độ “hưởng thụ tinh thần” cao, mới có đủ động lực phân chia quyền “hưởng thụ vật chất” với mọi người trong xã hội mà không luyến tiếc (một cách hợp lý – không bị lạm dụng).
Khi toàn xã hội đạt được trình độ sống như trên, thì chính quyền chỉ còn sót lại những người tài có ý thức phục vụ hết mình vì nhân dân, chứ không nhiều thành phần cơ hội như hiện nay.
Như thế có một xã hội mới an toàn và tốt đẹp hơn được hình thành. Nơi đó mọi người đều được hưởng phúc lợi hạnh phúc kể cả … “người giàu”.
Suy ra, nhu cầu tích tụ tài sản vô hạn trở nên không cần thiết nữa, điều đó càng góp phần thêm cho dòng chảy vật chất trong xã hội được lưu thông điều hòa hợp lý rộng khắp.
Ví dụ: Một số tỉ phú ngày nay đã cống hiến tài sản to lớn của mình cho mục đích từ thiện.


B - Một số luận điểm đúc kết về phạm trù tinh thần:

1-    Hạnh phúc.
“Hạnh phúc” là sự kết hợp của hai khái niệm, “hạnh phúc vật chất” và “hạnh phúc tinh thần”.
Một, chủ yếu nhằm đáp ứng cho nhu cầu cơ thể, và một, chủ yếu nhằm đáp ứng cho nhu cầu trí tuệ.
Trong hai hạnh phúc,“hạnh phúc tinh thần” bao giờ cũng mang tính quyết định hơn, khi điều kiện mức sống vật chất đã tương đối ổn thỏa. Bản chất đúng nghĩa của sự sống loài người là thuộc về “trí tuệ”, nên “hạnh phúc tinh thần” là tiền đề rất quan trọng cho sự  vững vàng của “tay lái” trí tuệ.
Trong thực tế, sự sống bắt đầu từ “nhu cầu cơ bản vật chất” trước. Nhưng sau khi bài toán vật chất đã được thỏa, thì “nhu cầu mức sống tinh thần” nỗi lên như một tất yếu tự nhiên của phát triển.
Cộng chung lại sự sống con người cần được đáp ứng cùng lúc cả hai nhu cầu trên, hoặc mang tính trình tự xen kẻ nhau, tùy sự vượt trội của mỗi nhu cầu trong mỗi thời điểm. Theo thời gian “nhu cầu hạnh phúc tinh thần” sẽ dần chiếm ưu thế rõ rệt trong nhận thức con người.
Tuy nhiên không vì thế mà trong đào tạo, người ta chỉ quá chú trọng mục đích này mà bỏ qua giai đoạn của mục đích kia. Mà tất cả cần tiến theo thứ tự tự nhiên để sự sống được cân bằng phát triển tự nhiên toàn diện.

    Ví dụ:
-    Con người phát triển từ ý thức “hưởng thụ vật chất” rồi mới đến ý thức “hưởng thụ tinh thần”, nhưng trong tiềm thức … cả hai hiện tượng trên cùng phát triển song hành.
-    Trong giao tiếp, cá nhân chú ý tự phục vụ mình trước (nặng về ý nghĩa vật chất), sau mới quan tâm đến mọi người (nặng về ý nghĩa tinh thần).
-    Trong kinh doanh, phải tạo ra được sản phẩm (vật chất), rồi mới đặt vấn đề uy tín (tinh thần) với khách hàng sau.


2-    Nhận diện sai lầm.
  
Trong sự việc, những sai lầm về vật chất nhìn chung là “dễ thấy, dễ phát hiện”, ngược với những sai lầm về tinh thần từ “khó thấy đến rất khó thấy”.
Ví dụ: sai lầm về quan điểm sống, là rất khó thấy vì thuộc phạm trù tinh thần.
Loài người xưa nay chưa có qui định thống nhất về những hành vi tinh thần chuẩn mực (quan hệ). Nếu có thì chỉ ở góc độ tự phát (dư luận), hoặc do các trường phái tư tưởng, tôn giáo, hội đoàn, v.v… qui định trong phạm vị nội bộ.
Do vậy sự sống gặp nhiều khó khăn khi phải ứng xử trước các mâu thuẩn phức tạp, người ta không biết phải phân định ranh giới đúng- sai thế nào cho đúng với “khách quan”. Bởi thế để giải quyết tận cùng những vấn đề lớn cho hợp lý là phải nhờ đến … “bạo lực áp đặt”.
  

Khi sự sống chưa chuẩn hóa và luật hóa những sai phạm về tinh thần, thì trách sao những sai phạm tinh thần xảy ra phổ biến, nó chỉ chờ đến khi tích tụ đủ hậu quả là bộc phát thành cách mạng nhằm phế bỏ những sai trái (chủ quan) cản trở.
    KHTT do bản chất phức tạp trừu tượng đã phát triển chậm so với KHVC, là điều hợp lý vậy.
Điểm đặc thù cơ bản của phạm trù tinh thần là rất khó xác định nguyên nhân.
Con người phải có tâm giác cao (tinh ý) thì mới đủ nhận thức phát hiện và xác định ra nguyên nhân sai trái của hiện tượng tinh thần. Trong khi số đông vẫn còn ngộ nhận.
Từ tính phức tạp trên đã ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách con người, tức là nó cũng bị phức tạp hóa. Nhân cách phức tạp dẫn đến xã hội phức tạp là chuyện đương nhiên.
Xã hội phức tạp dẫn đến các hệ quả phức tạp khác theo phương thức dây chuyền “domino”, bao gồm kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, v.v…

Để đến khi xã hội cần bầu chọn người đại diện sao cho thật “dân chủ, công bằng, xứng đáng”, trên nguyên tắc lấy đa số phiếu ủng hộ làm trọng tài, thì khả năng lọt NHỮNG TỘI PHẠM TINH THẦN trúng cử là điều khó tránh khỏi.

“Tội phạm tinh thần” là những hành động chiếm mất quyền “phát triển tinh thần” của người khác, bằng cách nói và hành động sai trái nhưng làm cho mọi người ngộ nhận nó là đúng đắn chính nghĩa, trên cơ sở thuyết phục, ngụy biện, gian dối, che giấu sự thật, v.v… kể cả dùng bạo lực áp đặt khi cảm thấy thất bại.

Đây là dạng tội trạng có thể không gây nên mâu thuẩn xung đột lớn tức thời (do mọi người ngộ nhận, sợ sệt, v.v…), nhưng về lâu dài nó để lại hậu quả khôn lường về vật chất và tinh thần cho xã hội, để cuối cùng giải quyết bằng một sự thay đổi …
Một là nó làm sai lệch về nhận thức đến tình cảm, đến nhân cách. Xã hội bị chia rẻ, niềm tin giảm sút, hạnh phúc bắp bên, sau đau khổ gia tăng, v.v…
Cộng chung lại nó làm cho sức sống con người bị hao mòn vô hình theo thời gian, mà không sao biết được đâu là nguyên nhân cốt lõi tận cùng.
Bù lại người ta thay vào bằng những nguyên nhân phụ làm chính, cuối cùng thất bại vẫn hoàn thất bại. Tất cả chỉ gây hao tốn uổn phí lớn lao cho xã hội, mà cụ thể từng người dân phải gánh chịu.
Do sự sống bắt đầu từ trí tuệ, tức tinh thần, nên mọi sai phạm tinh thần đều dẫn đến sự trả giá lớn lao về vật chất. Khi ấy người gây ra, ho dù nhân danh cái thiện, cũng bị biến thành “kẻ ác” một cách ngẫu nhiên.
Ví dụ: chiến tranh là do hiện tượng sai phạm về tinh thần gây ra, vì ý thức “lợi ích vật chất” xếp cao hơn ý thức “lợi ích tinh thần (quan hệ)” - do thiếu tôn trọng đối phương, thiếu ý thức xây dựng quan hệ thân thiện công bằng, v.v …).
(Chú thích: phạm trù tinh thần mang tính hệ thống nhất quán)


Về nguyên tắc, xã hội sản sinh ra kẻ ác thì xã hội phải gánh phần trách nhiệm. Vì theo nguyên lý tự nhiên hay xét góc độ KHTT, thì nguyên nhân thuộc về hệ thống giáo dục của xã hội còn yếu kém, không hiệu quả.
Suy rộng ra … xã hội loài người, các học thuyết …
Đặc biệt khi cái ác bị ngộ nhận là cái thiện, thì hậu quả đem lại càng nặng nề hơn. Khi ấy người gây tội không cảm thấy cắn rứt lương tâm, nên sẵn sàng kéo dài thời gian gây tội, đồng thời có thể qui nguyên nhân ác về phía đối phương.  
Tất cả tạo nên một thế trận hỏa mù về nhận thức đúng- sai, thiện- ác,… , mạnh ai nấy giành lấy phần lẽ phải về mình, con người không tin nhau, cuối cùng tôn ti trật tự trong quan hệ bị đổ vỡ.

Ví dụ 1: “vua ngộ nhận mình là con trời”, thế là tự do quyết định không sợ sai.
Ví dụ 2: “học thuyết ngộ nhận là chân lý”, nên tha hồ phán cho bất kỳ ai trái chiều là phản động.

Vì thế trong sự sống, rất cần có sự cảnh giác nghiêm khắc trước các vấn đề lớn hay các nhiệm vụ quan trọng, tốt nhất nên cố gắng lắng nghe nhau, từ mọi phản hồi từ mọi phương hướng, nhằm hạn chế mức thấp nhận mọi ngộ nhận chủ quan gây hậu quả sai lầm đáng tiếc.
Trong khi chờ ý thức xã hội nói chung, có đủ thời gian phát triển chính mùi theo qui luật, để tìm ra các lý giải chân lý đúng đắn, cho những vấn đề mà có thể trong thời điểm hiện tại nhiều người qui nó vào nhóm sai trái.
Hay với sự ra đời của HTNT, có thể tin rằng những sai phạm tinh thần sẽ có cơ hội  sớm được minh giải sáng tỏ, rút ngắn thời gian ngộ nhận kéo dài.


3-    Nhận thức xã hội mới
“Sai một li đi một dặm.”
Khi sự sống đang ở thế “một dặm … sai”, thì các vấn đề sẽ dễ trở nên phức tạp nan giải.
Ngược lại nếu ở thế “một dặm … đúng”, thì mọi sự như được thuận lợi suôn sẻ hơn.
Khi chân lý sự sống còn chưa sáng tỏ, con người tin rằng phải bằng sức mạnh mới giành được chiếc bánh “hạnh phúc”, cuối cùng nhiều người cùng giành, chiếc bánh bị vỡ  vụn ra, ai cũng bị mất phần và tiếc ...
Có chân lý, con người sẽ hiểu ra chiếc bánh “hạnh phúc” là của chung, mọi người cần hợp tác nhau vừa làm vừa chung hưởng nó, thì phần ai cũng có, dùng hoài dùng mãi mà vẫn không bao giờ thấy hết.

“Đoàn kết” là một đức tính hợp với qui luật tự nhiên, hợp với lòng người, hợp với xu thế thời đại.
Cá nhân, phe phái cục bộ, v.v… không bằng mọi người trong xã hội cùng hợp sức. Đoàn kết giả tạo do áp đặt (từ cụ thể đến học thuyết), không bằng đoàn kết thật lòng vì ý thức tự giác tự nguyện, khi cùng tự do lựa chọn một con đường thống nhất cho tất cả.
 Không cái lợi riêng nào có thể đạt đến sự mãn nguyện như ý, khi cái lợi chung còn dang dở không yên.
Sự sống cần ở con người mới biết ưu tiên đầu tư cho cái lợi chung, trong một lý giải hợp lý cân đối hài hòa với cái lợi riêng, để cuối cùng riêng chung cùng cân đối tiến lên.
Suy ra chiếc bánh “quyền thế” cũng vậy.
Trong xã hội mới, mỗi người hãy giữ lại cho mình phần đủ dùng, còn lại hãy chia cho mọi người trong xã hội cùng hưởng, cùng trách nhiệm, thì mọi “quyền thế” cá nhân mới có cơ hội được gìn giữ và phát huy một cách an toàn và tốt đẹp. Thế hệ hôm nay hoàn thành tốt thành quả này, các thế hệ muôn đời mai sau sẽ mãi mãi được thụ hưởng và ghi công những bậc tiền bối.

Làm người quý nhất là sống có “lý trí”. Lý trí có đúng tình cảm mới phát huy giá trị.
Lý trí ví như thân cây, tình cảm ví như hoa trái. Thân cây yếu lệch lạc, hoa trái sẽ èo uột hư xấu.
Tình cảm là đích cuối của quan hệ. Tình cảm bất hợp lý quan hệ thành thất bại, do lý trí đã không làm tốt nhiệm vụ lý giải đúng đắn cho “ý nghĩa của tình cảm”.
Khi xã hội phát triển, nếu để tình cảm phát triển tự nhiên thiếu “lý trí hóa”, nó sẽ lạc lối trước vô vàn những hiện tượng lôi kéo không thật.  Tình cảm lạc đường là tình cảm phân rã theo thời gian, nó mất dần sự chân thật tự nhiên tốt đẹp như ban đầu. Nhân cách vì thế bị hỏng, tương lại không toại nguyện.

Khai thác tốt lý trí con người sẽ tìm ra cách hành xử hợp với LPCL, hợp lòng mọi người (tất yếu khác với hợp lòng do áp đặt, lừa gạt, nhồi nhét, v.v ...).
Xây dựng xã hội mới là xây dựng một môi trường quan hệ “lý trí hóa” toàn diện, cũng là vì một tương lai “tình cảm hóa” toàn diện vững bền giữa mọi người.
Bằng con đường này con người sẽ quen dần hình thức quan hệ hòa nhã tôn trọng lẫn nhau trong thân thiện và trách nhiệm, hơn là … xúc phạm lòng tự trọng của nhau, bằng từ ngữ hay hành động … nhằm chứng tỏ sự “hơn nhau” bất kể từ chuyện lớn hay nhỏ …
Muốn lý trí nhanh phát triển, cách đơn giản là tạo môi trường thuận lợi để mọi người tự do giao lưu với nhau. Qua giao lưu con người có cơ hội tìm hiểu cảm thông thân thiện nhau, đồng thời bổ sung cho nhau những điều hay lẽ phải, những thiếu sót hạn chế về kiến thức, v.v…, từ đó mọi người ngộ ra con đường sống hợp lý nhất cho mình và mọi người.
Đây cũng là cách giúp xã hội tìm ra chân lý cuộc sống, điều kiện xây dựng thành công một xã hội mới trong tương lai.

Tuy nhiên, lý trí nếu để tự nhiên nó cũng không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Nó rất cần được khoa học giúp sức, nghiên cứu kỹ năng phát triển sao cho lý trí có thể đạt hiệu quả tư duy cao nhất. Nếu không mọi giao lưu, cho dù lý trí vẫn đầy rẫy, nhưng kết cuộc vẫn bằng không, hay tạo mâu thuẩn mất đoàn kết và gây xung đột.
Vì thế xã hội mới đặt trọng tâm xây dựng hệ thống “Diễn Đàn Phổ Thông” hay “Diễn Đàn Nhân Dân” (DĐND) khắp mọi nơi (giống … dễ như hợp chợ), nhưng không quên kết hợp với HTNT như một kim chỉ nam được đề xuất, trong mọi hình thức trau đổi bằng lý lẽ về quan hệ.

DĐND có thể là nơi của mọi vấn đề riêng cá nhân hay chung xã hội, đều có thể đem ra mổ xẻ công khai nếu có yêu cầu. Đây là dịp để mọi người khám phá thế giới sự sống, hay trau dồi nhận thức về các vấn đề con người và xã hội, địa phương và trung ương, v.v… , đồng thời cũng là nơi giao lưu kết bạn, đoàn kết tương thân tương trợ, lá lành đùm lá rách, v.v...
Tổ chức hội hợp nhân dân dưới hình thức đại trà có tổ chức hệ thống, một cách thuận lợi như trên, xưa nay lịch sử xã hội văn minh chưa từng thực hiện được. Chính vì thế quyền làm chủ của người dân trong thực tế đã bị tước mất, bởi các cơ chế xây dựng bộ máy chính quyền bầu chọn đơn giản …
Tất cả nguyên nhân đều bắt nguồn từ sự khiếm khuyết về khái niệm “chân lý” trong đời sống xã hội.
Nay chân lý đã có, học thuyết đã được giới thiệu, phải chăng thời điểm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách đầy đủ đã đến. Vấn đề tùy thuộc rất nhiều vào sự sáng suốt của chính quyền hiện tại và ý chí quyết tâm của mọi người dân.
Nhiệm vụ của chính quyền là ra sức tạo điều kiện cho nhân dân đứng lên nhận trọng trách làm chủ xã hội (đất nước), và mình tự nguyện quay về với vai trò người làm thuê của chủ .
Chính quyền … là một hiện tượng mang tính lịch sử, trong khi nhân dân mới là quyền lực vĩnh cữu. Trả lại cho nhân dân quyền làm chủ đúng nghĩa, là một quyết định chính đáng trong thời điểm, nhầm tạo ngả rẻ cho một giai đoạn phát triển mới của lịch sử tiến hóa.

Làm con người mới là phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tham gia bàn luận các vấn đề của xã hội, dù lớn dù nhỏ, mà mình cảm thấy có khả năng. Đặc biệt các vấn đề về chính trị xã hội từ trung ương đến địa phương.
Đã bàn luận thì phải có phương pháp, có nguyên lý, có quan điểm đúng đắn, v.v…, chứ không thể nói đại nói đùa tùy tiện, thì lợi bất cập hại.
Xã hội là do thành quả của nhiều ngàn năm để lại, vì thế ý thức con người ít nhiều đã ấn tượng sâu về một khuynh hướng nhận thức “tự phát”, nên kỹ năng cảm tính chân lý sẽ có phần giới hạn hay khó khăn đối với nhiều người.
Do vậy để hoàn thành tốt quá trình tham gia DĐND, người tham gia cần được trang bị một số nhận thức cơ bản hợp lý và tối thiểu, để sau đó họ có thể tự phát huy.
Những nhận thức cơ bản ấy phải thông dụng đơn giản, ai nghe cũng có thể đồng tình và tiếp nhận.

Sau đây một số tiêu chí cụ thể về mô hình xã hội mới:

a-    Về học thuyết
-    Xã hội mới được đề nghị xây dựng trên nền của HTNT.
-    HTNT chọn tâm A1 làm cơ sở lý giải sự sống, thông qua các LPCL. Lý giải sao cho sự sống không còn bạo lực áp đặt trong quan hệ, con người có ý thức tự giác trước việc riêng và chung, các mâu thuẩn trong cuộc sống (cá nhân hay xã hội) đều được giải quyết bằng các lý giải hợp lý thay cho xung đột.
-    HTNT không giới hạn quan điểm trong thảo luận (tranh luận, bàn luận, trau đổi, góp ý, v.v… ), nên ai cũng có quyền tham gia diễn đàn. Kết luận của diễn đàn do số đông quyết định, trên nguyên tắc không trái với tâm A1. – Trường hợp nếu thảo luận bị bế tắc (số đông không đồng thuận) thì vấn đề sẽ được các nhà chuyên môn có tâm giác cao hơn tham gia lý giải, hoặc đưa lên diễn đàn cấp cao hơn, hoặc mở rộng phạm vi diễn đàn ra toàn xã hội quyết định … (xem “Mở Cánh Cửa Tự Nhiên”)
-    Mọi người đều được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu thông tin (trên quan điểm của LPCL).

b-    Về xã hội
-    Xã hội mới có mức sống tốt đẹp và hạnh phúc phù hợp với các chuẩn mực chung của loài người.
-    Mọi cấm đoán đều phải hợp lý dễ hiểu, ai cũng có khả năng thực hiện.
-    Xã hội mới không có người thất nghiệp, ai cũng có việc làm thích hợp (học tập rèn luyện để sống hạnh phúc cũng là một công việc), v.v…
-    Sống hạnh phúc là một tiêu chí phổ thông, ai cũng có thể đạt đến từ đơn giản đến cao cấp. Sống hạnh phúc là mức sống tinh thần, nó có nghĩa “con người được sống hạnh phúc toàn diện về vật chất và tinh thần”. - Nó là mức sống cao hơn, toàn diện hơn “mức sống vật chất” (các xã hội văn minh hiện nay đang dùng phổ biến).

c-    Về giáo dục
-    Giáo dục là nhịp cầu lý tưởng để con người đạt kỹ năng xây dựng LPCL một cách nhanh nhất.
-    Giáo dục cùng lúc trên hai lĩnh vực, KHVC và KHTT.
-    Rèn tâm A1 là nhiệm vụ trọng tâm của KHTT đối với mỗi đời người.
-    Tùy theo kết quả rèn tâm A1 mà mỗi người nhận lấy trách nhiệm đóng góp phần giá trị lao động của mình, phục vụ cho bản thân và cho xã hội một cách phù hớp.
-    Mục đích của lao động không còn đơn thuần chỉ để “làm giàu”, mà vì mục đích chính là “đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho mọi người”.
-    Rèn tâm (kết hợp với các lao đông khác) trở thành một phần của các lao động chính, nhằm xây dựng con người phát triển hoàn thiện về tài và đức.

d-    Về con người
-    Con người mới có mục đích sống vật chất và tinh thần cân đối. Mục đích tinh thần (trí tuệ phát triển toàn diện) sẽ là trọng tâm, khi mức sống vật chất đã đạt mức cơ bản trở lên.
-    Thể hiện tài năng và thành tích, là nhu cầu tự nhiên của một nhân cách đúng đắn. Nó không còn đặt nặng mục tiêu, khai thác tài năng để làm giàu cá nhân.
-    Người tài là những trụ cột của xã hội, theo nguyên tắc “người nhỏ (tài kém) gánh vác việc nhỏ, người lớn (tài cao) gánh vác việc lớn”.
-    Người tài tất yếu có ưu thế làm giàu có về vật chất và tinh thần hơn người bình thường. Song do chọn con đường sống theo tâm A1, nên họ biết tự giác cân đối nguồn thu nhập với xã hội một cách hợp lý, dưới sự định hướng của các LPCL trong từng thời điểm từng trường hợp. Nhưng quyền quyết định của cá nhân vẫn là tối hậu.
-    Lòng tự trọng, tính trung thực, tính công khai minh bạch, kỹ năng quan hệ đoàn kết thân thiện, lá lành đùm lác rách, v.v … là những đức tính cơ bản và phổ thông ở mọi con người mới.

e-    Về đảng lãnh đạo
-    Đảng lãnh đạo theo nghĩa, là một trung tâm khoa học chuyên ngành quan hệ, có nhiệm vụ thuyết phục mọi người bằng những chứng lý khoa học, nhằm giác ngộ ra con đường sống hiệu quả nhất.
-    Với tư cách là một trung tâm KHTT, đảng hướng dẫn mọi người, thông qua đào tạo rèn luyện hay góp ý bàn luận v.v…. , sao cho môi trường sống nói chung đạt đến giá trị lý tưởng.
-    Các hoạt động của đảng tất yếu phải công khai tự nhiên, để mọi người có cơ hội học hỏi, hoặc tham gia đóng góp nếu có thể. Bởi mọi người theo nguyên lý là đảng viên tự nhiên của đảng, vì đảng là một tổ chức của “tự nhiên”.
-    Như thế đảng không khác gì một tôn giáo, nhưng nó hoạt động theo góc độ khoa học.
-    Triết lý của đảng là trên thế gian này chỉ có một triết lý sống đúng đắn duy nhất, gọi là triết lý sống tự nhiên, nó được phản ánh dưới cái gọi là … “HTNT”. Nó là học thuyết nói về qui luật tự nhiên dành cho loài người (qui luật xã hội).
-    Nếu xã hội có nhiều đảng phái, song theo thời gian xã hội sẽ hợp nhất lại chỉ còn một đảng (không phải bằng bạo lực), vì thế gian chỉ có một phương pháp luận để tìm ra một chân lý độc nhất.
-    Do bản chất sự sống con người là trí tuệ, và trí tuệ ấy phải trải qua học tập rèn luyện để đủ khả năng nhận thức và sống theo qui luật tự nhiên, mà tạo hóa đã dành cho con người.
        Đây là nhiệm vụ trọng tâm của đảng đối với mọi người đối với xã hội.
-    Do nguyên lý của sự sống khá phức tạp, nên đảng chú trọng đào tào con người sống phải có đức tin vào qui luật tự nhiên, vào tâm A1, có như thế quá trình rèn luyện mới nhanh đạt kết quả, hơn là chỉ học thuộc lòng cho xong việc đến khi sống và hành động lại theo tùy tiện tự phát.
-    Do vậy con đường vào đảng, nên để mọi người tự nguyện chọn lựa, khi xã hội còn chưa có niềm tin với HTNT … Nhưng khi toàn xã hội đã xác tín học thuyết mới, sau thời gian đã minh chứng tính hiệu quả trong vận dụng, lúc bấy giờ việc kết nạp đảng nên áp dụng ngay từ sớm (giống như các tôn giáo khác) … từ các tác động vô thức đến ý thức.
-    Theo nguyên tắc, đảng viên tự do vào thì cũng có quyền tự do ra khỏi đảng, nếu thấy không còn thích hợp . – Phòng khi đảng đến một lúc bị thoái hóa chăng … (?)
-    Lãnh đạo đảng là những nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực tinh thần (tâm A1), hay trong phạm trù quan hệ. Họ là những người có trình độ tâm giác cao nhất xã hội. Họ được các diễn đàn (DĐND) phát hiện và bầu chọn theo uy tín tự nhiên, qua các lý giải thực tế mà họ đã đóng góp cho diễn đàn (từ địa phương đến trung ương).
-    Trong chiến tranh, người lãnh đạo cấp cao (đảng hay chính quyền) thường rút ẩn mình phía sau, nhầm đảm bảo tính liên tục hiệu quả trong chỉ đạo.
        Nhưng trong  hòa bình, người lãnh đạo cao nhất (đảng hay chính quyền) phải là người thường xuyên có mặt ở các tuyến đầu, thảo luận lý giải trực tiếp với từng người dân, khi nó đã trở thành vấn đề gây nan giải bức xúc ngoài khả năng địa phương xử lý.
        Đây chính là lúc minh chứng tài năng thật của người lãnh đạo cao nhất. Vì mọi cái khó cái phức tạp của cuộc sống cuối cùng đều tích tụ đầy đủ vào các sự việc cụ thể. Lý giải các vấn đề cụ thể thực tế trong thời bình, có khi còn khó hơn nhiều, nếu so với kiểu lý giải chung chung tổng quát (thuộc tầm vĩ mô), nhưng thực chất dễ mang tính công thức lý thuyết, mà thực tế không liên quan hoặc không giải quyết được gì cho các vấn đề nan giải cụ thể đang gây ảnh hưởng thiết thân đến cuộc sống của người người dân.
        Kiểu lý giải chung chung không tiến vào tham giả giải quyết trực diện các vấn đề cụ thể (thường đùn đẩy cho cấp dưới tự đối phó), từ cao nhất đến thấp nhất, thì đây là kiểu lãnh đạo vô trách nhiệm bất tài, mà thực chất ai cũng có thể làm thay thế được,  miễn có phe đảng ủng hộ.
-    Đảng (người lãnh đạo) lãnh đạo xã hội bằng cách cung cấp các LPCL cho các diễn đàn, để mọi người tham khảo. Nó giúp rút ngắn thời gian mò mẫm, nhưng vẫn trên nguyên tắc không áp đặt, để mọi người tự  do phản biện tìm ra chân lý khách quan.
-    HTNT khai thác triệt để sức mạnh đoàn kết xã hội, không phân biệt đối tượng, để tạo sức mạnh tổng hợp vì sự nghiệp trước mắt và tương lai lâu dài.
-    Về nguyên tắc, toàn dân là đảng viên của đảng. Nên đảng lãnh đạo, đồng nghĩa toàn dân lãnh đạo xã hội. Chính quyền chỉ là người thừa hành theo quyết nghị của hệ thống DĐND.
        (Quốc hội là phần cuối (cao nhất) trong hệ thống DĐND. Quyết nghị công khai của quốc hội chỉ có giá trị khi không còn có ý kiến khác biệt bất kỳ từ ĐÂU, từ CÁ NHÂN NÀO. Nếu còn một ý kiến khác, thì quốc hội sẽ phải là : quốc hội + một, để tranh luận công khai đến KHI thống nhất mới thôi (hoặc bảo lưu công khai, và tạm thời dùng biểu quyết số đông). Cứ như thế cộng dồn lên (nếu còn có yêu cầu) (xem “Mở Cánh Cửa Tự Nhiên”).
-    Đảng tham vấn (chính quyền) thông qua các LPCL, nhưng quyền quyết định vẫn thuộc về nhân dân (diễn đàn) , mà quốc hội là diễn đàn tổng kết chung lại. Tuy nhiên tiếng nói của đảng (khoa học gia – nhà lãnh đạo) thường được mọi người tôn trọng, vì chất lượng cao hơn. Nhưng tất cả đều phải thông qua thực tiễn kiểm tra lại, và phải luôn có cá nhân chịu trách nhiệm dù đúng hay sai.
-    Đảng viên có chức vụ càng cao tất yếu có kỹ năng giao tiếp toàn dân thuộc hàng tốt nhất, có sức thuyết phục cao, vì thế cần dành nhiều thời gian để làm công việc dân vận trực tiếp, đa dạng, v.v…  (không chỉ ngồi bàn giấy, dự lễ lộc, v.v…, phần này nên chia cho những người khác đảm nhận). Vì việc giao tiếp thực tế, giải quyết các vấn đề cụ thể đời thường, có khi còn khó hơn các vấn đề tầm vĩ mô, bởi nơi đây là sản phẩm đầu cuối  của tất cả các nguyên nhân hay dỡ.
-    Những người được bầu vào chính quyền đương nhiên được kết nạp vào đảng. Vì không ở trong đảng thì không đủ điều kiện hoàn thành trách nhiệm, nếu đảng (KHTT) được xã hội chọn là kim chỉ nam phát triển duy nhất – hoặc một đảng khác nếu được xã hội chọn.
-    Đảng chịu trách nhiệm cùng với ngành giáo dục, phổ cập cho toàn dân kiến thức KHTT từ cơ bản đến nâng cao.
-    Nếu sau một thời gian trong xã hội còn xảy ra bất ổn, mâu thuẩn đối kháng không tìm thấy lời giải v.v…, thì đảng phải là người chịu trách nhiệm đầu tiên. Nó nói lên tính chân lý trong KHTT (HTNT) đã có vấn đề (sai lầm), hay trong hệ thống DĐND có khiếm khuyết v.v... – song xét trên  lý thuyết những trường hợp phức tạp như trên rất khó xảy ra. Tuy nhiên nếu có xảy ra, thì vấn đề sẽ giao về cho nhân dân, cho thực tế cuộc sống quyết định (thành lập các đảng khác, xây dựng học thuyết mới, v.v… ).
-    Bước đầu xã hội có thể cho thí điểm ở một vài địa phương, về phương thức lãnh đạo mới của đảng cũng như áp dụng mô hình tổ chức xã hội mới, theo định hướng HTNT. Nếu kết quả đạt khả quan (chỉ vài tháng là đủ) chứng tỏ học thuyết mới có nhiều triển vọng.
-    Thành quả của đảng được tính chủ yếu dựa trên tiêu chí “mức sống tâm giác” của xã hội. Tức là quan hệ con người đạt tỷ lệ “thân thiện hợp lý” bao nhiêu phần trăm, suy ra “sự chênh lệch giàu nghèo” có còn là nguyên nhân thách thức bất ổn xã hội hay không.
        Nếu tiêu chí của Mác-Lê là “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, thì nay nó sẽ là “làm theo LPCL, hưởng theo sự trưởng thành của tâm”.
        Giữa hai tiêu chí có sự khác biệt cơ bản:
-    Một bên “lao động tính theo năng lực cá nhân” (tính thống nhất được thực hiện trên nguyên tắc quyền lực áp đặt – “chính quyền chuyên chính”), một bên “lao động tính theo kỹ năng tự giác hòa nhập cộng đồng”.
-    Một bên lấy “hưởng thụ vật chất làm tiêu chí phấn đấu”, một bên lấy “tiêu chí giác ngộ của TÂM làm trọng tâm hưởng thụ”.    

f-     Một số đặc điểm tóm tắt chung
-    Đề xuất “Chủ nghĩa Nhân Tâm” (HTNT) là tên gọi của mô hình xã hội mới. Nó là tổng hợp của hai mô hình xã hội CNTB và CNCS, với đặc điểm con người mới được “sống tự do nhưng có ý thức tổ chức tự giác”.
-    Mục đích sống của con người mới là lấy tâm làm tâm điểm học tập rèn luyện và phát triển. Sự sống tiến đến làm giàu về vật chất và tinh thần một cách cân đối.  
-    Đảng, chính quyền và nhân dân là một tập hợp các nhà khoa học về vật chất và tinh thần, mang tính bán chuyên nghiệp hay chuyên nghiệp. Trong đó khoa học tinh thần giữ trọng trách tổng và điều hành hợp toàn diện.
-    Toàn xã hội vận hành dựa trên các nguyên lý khoa học để minh chứng mọi hiện tượng tồn tại. Khi phải đối diện trước những giới hạn của nhận thức, thì dùng biểu quyết trên phạm vi toàn xã hội (hoặc cho ủy quyền …).
-    LPCL là đáp án phổ thông cho mọi vấn đề quan hệ trong cuộc sống, đặc biệt giữa nhân dân với chính quyền.
-    Quyền lực khách quan được dùng trong điều hành xã hội do tâm giác A1 của mọi người tổng hợp lại (LPCL). ó khác với thói quen dùng quyền lực chủ quan của thiểu số và dùng bạo lực để áp đặt mọi người.
-    Kỹ năng làm chủ bản thân và xã hội được hình thành, bằng phương thức rèn luyện kỹ năng tâm giác của mọi người.
-    Mọi người được đảm bảo mức sống vật chất tối thiểu (cơ bản), thông qua sự đồng cảm chia sẻ của mọi người tài năng và thành đạt hơn trong xã hội.
-    Những người được chia sẻ giúp đỡ, có nhiệm vụ mang ơn bằng tích cực phấn đấu tiến lên và tham gia đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của xã hội (các công việc thời vụ …).
-    Xã hội mới không có người thất nghiệp, vì rèn tâm cũng là một hình thức lao động được trả lương.
-    Môi trường sống không còn hiện tượng bất công đau khổ, về vật chất lẫn tinh thân, nhờ có sự đáp ứng kịp thời và hiệu quả của hệ thống diễn đàn phổ thông (từ trung ương đến cơ sở).
-    Trong môi trường HTNT, mọi vấn đề đều có lời giải công khai rõ ràng hợp lý, nhằm xây dựng niềm tin và sự an tâm thống nhất trên hành trình sống của mọi người.
-    Mọi xã hội phát triển đều cần có một mô hình tổ chức phù hợp. Song nó phải do toàn xã hội (quốc gia) quyết định, trên cơ sở các phương án (học thuyết) do mọi người đề xuất. Không ai hay thiểu số nào có quyền nhân danh bất kỳ lý do gì để áp đặt một học thuyết mà mình thích cho toàn xã hội (dùng quyền lực).
-    Trong cuộc sống tất yếu phải có sự chênh lệch về năng lực, trình độ sống, do hoàn cảnh khác biệt v.v… Vì vậy xã hội luôn có tôn ti trong quan hệ, người có công nhiều so với người ít đóng góp cho xã hội hơn, v.v…


g-    Về kinh tế
-    Kinh doanh tư bản chủ nghĩa là hình thái phát triển tự nhiên của quá trình tiến hóa của loài người. Sự phát sinh dư thừa (lãi suất … ) là tất yếu và hợp lý. Vấn đề là sử dụng sự dư thừa ấy một cách hợp lý, dưới góc độ cá nhân  và xã hội.
-     Ý nghĩa của kinh doanh là làm cho cá nhân và cho xã hội, một cách hợp lý.
-    “Kinh tế” là phương tiện của “hạnh phúc”, chứ không là mục đích chính của cuộc sống. Vì thế chỉ tiêu kinh tế khi cần thiết phải điều chỉnh xuống vì mục đích môi trường, vì có sự bất đồng của dân cư, v.v…
-    Sự hợp tác tương trợ nhau cùng tiến lên, là đặc điểm cơ bản của quan điểm kinh tế kiểu mới. Vì nó không còn là điều kiện tiên quyết của sự sống còn, hay danh vọng, v.v…
-    Kinh tế dần trở thành là một công cụ chung của xã hội, nó khép dần tính tùy tiện nhằm cạnh tranh hơn thua như hiện nay.



IX -  KẾT LUẬN

Sự sống loài người chỉ là một tiểu tiết trong tổng thể tiến hóa của thế giới tự nhiên. Cho dù ý thức của loài người là một hiện tượng gần như độc nhất vô nhị trong vũ trụ. Vì con người suy cho cùng tất cả đều “sinh lão bệnh tử”.
Vì thế các hoạt động của loài người tất yếu phải nằm trong khuôn khổ chi phối chung của tự nhiên, mà cụ thể là qui luật tự nhiên.
“Ý thức” là một đặc điểm cơ bản của thế giới loài người. Có thể do qui luật tự nhiên, sự tiến hóa của nó mang tính qui luật. Nó tiến từ thấp đến cao, từ tương đối đến cụ thể, từ hiện tượng đến bản chất, từ cảm giác đến lý trí, … và từ vật chất đến tinh thần.
Đến giai đoạn tinh thần, phải chăng sự sống con người sẽ trở nên “lý trí hóa, trí tuệ hóa” toàn diện hơn. Suy ra con người ý thức về qui luật tự nhiên cụ thể hơn.
Do ý thức được qui luật tự nhiên, nên “Khoa Học Tinh Thần” được đề xuất hình thành, nhằm giữ nhiệm vụ lý giải toàn bộ các hiện tượng tồn tại của loài người dưới góc độ khoa học.
Nếu được như thế có nghĩa là con người đã tiến từ “Mức Sống Vật Chất” lên “Mức Sống Tinh Thần”. Có nghĩa là khi làm việc gì con người đều có ý thức đối chiếu “thế nào là qui luật tự nhiên mà tạo hóa- tự nhiên đã dành áp dụng riêng cho loài người”.
Từ sự trưởng thành về ý thức như trên, sẽ là nguyên nhân làm thay đổi “Nhân Cách” hay “Cách Sống” của con người trong tương lai.

Đặc điểm của cách sống cũ là thiếu kim chỉ nam chân lý làm lẽ sống, do vậy sự đoàn kết giữa con người trở nên bất khả thi.
Đặc điểm của cách sống mới là sự sóng có CHÂN LÝ làm kim chỉ nam dẫn đường. Nhờ vậy loài người có điều kiện thông hiểu nhau nhờ yếu tố trung gian này.
Có chân lý, xã hội loài người có cơ hội tiến lên cơ chế vận hành theo nguyên lý của quyền lực khách quan (tâm A1), thay vì chịu sự áp đặt bằng bạo lực dưới cơ chế của quyền lực chủ quan gần như trong suốt chiều dài lịch sử tiến hóa.

Con người sinh ra đều giống nhau về mục đích sống. Nhưng do lệ thuộc trình tự tiến hóa, nên khi nhận thức con người đã ngộ nhận rằng “có sự khác biệt trong mục đích sống”. Thế là con đường đối đầu và ra sức triệt tiêu nhau được mở ra.
Nếu nhìn chung có thể mọi sự không tại ai, không tại kiếp trước, mà tại … “thời thế thế thời phải thế”.
Nếu nhìn chi tiết hơn, cuộc sống đã làm phân hóa nhân cách con người, khi chân lý của giá trị còn chưa được xác định. Sự sống được tiến hành phổ biến theo phương thức “mạnh được yếu thua”, khái niệm “luật rừng” thường được nhắc đến.
Đã là “luật rừng” thì con người rất sợ công khai, rất sợ sự minh bạch … thế là bất công và tội phạm có cơ hội chồng chất theo thời gian.

Để xóa đi cái gọi là “chưa thật văn minh tiến bộ” ấy, con người cần được trang bị lại mới về nhận thức sự sống. Nó cũng là một sự lựa cho con đường tương lai nên rẻ theo nhánh nào, phù hợp với “qui luật tự nhiên” hay “tự phát” như quá khứ và hiện tại.
Sự khác biệt giữa hai sự lựa chọn, chủ yếu là vấn đề bài toán về niềm tin. Đây là vấn đề hoàn toàn mang tính tâm lý và nhận thức.
Đối với tâm lý , vấn đề đặt ra là bài toán về “thói quen hay sở thích lâu đời” của con người. Đối với nhận thức, nó là bài toán về sự lý giải, nhằm minh chứng sao cho mọi người công nhận có sự tồn tại của “chân lý” ở thế gian này, dưới góc độ khoa học.
 Muốn mức sống con người được nâng lên thoát khỏi thế trận lẩn quẩn như xưa nay, có thể con người nên nhìn thẳng về phía trước hướng về tương lai, công nhận và chấp nhận những gì hữu lý và khép lại những gì vô lý thuộc quá khứ.
Hãy hướng nhìn về lợi ích số đông để quyết định những vấn đề rõ ràng nó có ích cho bản thân và cho mọi người, như thế là đã tự cứu mình và cứu mọi người vậy./.


                                             HẾT




                                  Tp. HCM ,  ngày 19  tháng  12  năm  2011
                                                        Chấm bút
                                       Bút danh: HOÀNG VĨNH SƯU





PHẦN ĐỌC THÊM

Sau đây một số phát họa khi chuyển đổi từ mô hình xã hội cũ sang mô hình xã hội mới.

I – KẾT CẤU XÃ HỘI MỚI
Trong xã hội, người đầu tiên khai thông hệ lý giải nhân tâm mới (HTNT), được gọi là “người A” (A).
Những người khác gọi là “người B” (B) -  những người có chân lý gốc nhưng thiếu kỹ năng phát triển thành LPCL.
Để chia sẻ kinh nghiệm cho nhau, người A lần lượt truyền kỹ năng sang cho những người B.
Sau khi đạt kết quả những người B sẽ là những “người AB” (AB).

Nếu chỉ một A làm nhiệm vụ truyền kỹ năng sống mới cho mọi người là không thể,  nên cần có người phụ giúp. Khi ấy trong số những AB sẽ có những người có năng khiếu trong lĩnh vực này, nên họ được mới tham gia nghiên cứu học tập sâu hơn. Sau thời gian nếu đạt kết quả họ sẽ là những “người AA” (AA).
Như vậy trong xã hội mới sẽ có bốn thành phần công dân cơ bản, A, B, AB và AA.
Nếu mọi sự phát triển như dự kiến, xã hội sẽ dần chỉ còn những AA và AB (do A quá tuổi thọ, B không còn hợp thời - trừ các trẻ nhỏ do kết quả đào tạo còn hạn chế).
(chú thích: B là những người xem lợi ích vật chất là trên hết.)
Đến đây, xem như xã hội đã phát triển đến thời kỳ lý tưởng - vì tính hám lợi vật chất đơn thuần đã bị triệt tiêu.

Trở lại vấn đề, làm sao xã hội tạo ra được A.
Bằng cách nào tạo ra A, và bằng cách nào biết A đã đạt chất lượng tài năng đáng tin cậy. Và A sẽ truyền kỹ năng sống qua B theo phương thức nào.

Về nguyên tắc có hai con đường truyền đạt kỹ năng sống giữa A và B.
Một là truyền đạt theo số đông, để mọi người cùng bạn bạc nhận xét và góp ý chung với nhau hoặc với A.
Nếu kết quả mọi người công nhận giá trị kỹ năng sống mới mà A muốn truyền đạt, thì vấn đề có thể bắt đầu từ nhóm ít người trước, song song với hình thức cá nhân A với cá nhân B, khi B có biểu hiện phát triển nhận thức vượt trội.
Trong cách truyền đạt, tốt nhất là hình thức đối thọai trực tiếp để dễ thích nghi với yêu cầu của đối tượng (vì lý lẽ sự sống là vô cùng), song song với hình thành truyền đạt qua sách báo.
Sau khi đã có nhiều A trở thành AB, lúc này có thể phát triển sự truyền đạt sang các phương tiện thông tin đại chúng khác, như phát thanh, truyền hình, v.v…. Tuy nhiên nó cũng  cần có sự kết hợp với đối thoại trực tiếp (xin xem “Mở Cách Cửa Tự Nhiên”) thì kết quả thực tế mới đạt.
Quá trình truyền đạt kỹ năng sống sẽ bao gồm:

a-    Xã hội
Khi tham gia học tập rèn luyện, lần lượt mọi người sẽ trở thành AB hoặc AA.
AA là những người có tâm giác rất cao, gần với hoàn thiện. Họ là những chuyên gia về lĩnh vực KHTT.Nhiệm vụ của họ là góp phần định hướng cho xã hội phát triển theo tâm A1. Sản phẩm của AA trước hết là nhân cách của bản thân họ và các LPCL khi quan hệ với mọi người, kế đến là những thành quả nhân cách mà họ đóng góp cho mọi người.
AB là những người có nghề nghiệp chính là tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng có ý thức định hướng cuộc sống theo tâm A1. Đồng nghĩa với việc họ có giành một quỹ thời gian thích hợp để tích cực trau dồi kỹ năng sống A1 tùy theo sở nguyện.
AA và AB là hai thành phần chính của xã hội. Giữa họ thường xuyên có sự giao lưu trau đổi hai chiều:
- AB đến với AA là để được đáp ứng các nhu cầu về “hàng hóa tinh thần”, cụ thể là nhờ lý giải về các vấn đề quan hệ trong cuộc sống, cũng như những vấn đề bất an khác trong tâm, v.v...
- Còn AA đến với AB là để được đáp ứng các nhu cầu về “hàng hóa vật chất”, dịch vụ chăm sóc sức khỏe, v.v… .

Tất cả những giao tiếp trên đều trên nguyên tắc, có lợi hai chiều, lấy chân lý gốc làm điểm xuất phát và LPCL làm tiêu chí quan hệ. Cuối cùng lấy giá cả làm thước đo chất lượng sản phẩm dù là vật chất hay tinh thần.
Lúc bấy giờ AA chính là những đảng viên cao cấp hiện nay, nhưng khác là họ phải sống bằng thành quả kinh doanh của mình, từ vốn nhân cách (kỹ năng sống) mà họ đã dày công rèn luyện.
Đây cũng là nhiệm vụ lãnh đạo (định hướng phát triển xã hội) của họ, nhưng thay vì bằng những mệnh lệnh áp đặt, thì nay bằng tài năng thật mà họ có thể đem kinh doanh mua bán bình đẳng với các khách hàng thượng đề là nhân dân. Nhân dân có muốn mua hay không là tùy sở thích.
Như thế sự phát triển của xã hội sẽ không còn phụ thuộc vào một cá nhân hay một nhóm người lãnh đạo, mà nó thuộc về mọi người. Ở đâu người ta bỏ tiền ra nhiều để mua, ở đó chứng tỏ có giá trị, có uy tín, đáng để mọi người bầu chọn và ủng hộ, v.v...
Sự sống trở thành bình đẳng giữa mọi người. Các nhà khoa học trở thành những tài năng, là những điểm tựa, là hạt nhân đoàn kết chung cho toàn xã hội.

b-    Người AB
Mọi con người sinh ra tự nhiên đã là B.
Đặc điểm của B là ý thức còn hạn chế ở tầm nhìn, thích quan tấm đến các lợi ích trước mắt, trong phạm vi hẹp như cá nhân, gia đình …, nên giá trị vật chất thường là khuynh hướng phát triển mục đích sống của họ.
Khi được hướng dẫn về kỹ năng sống mới, họ bắt đầu mở rộng tầm nhìn lợi ích, từng bước cố gắng điều chỉnh lại mục đích sống, để dần trở thành AB (có giác ngộ).
AB là những người rất yêu mến vật chất nhưng có ý thức phát triển cuộc sống theo hướng của tâm A1.
AA là những người chịu trách nhiệm giúp B phát triển thành AB.

c-    Người AA
AA được A đào tạo từ những AB có năng khiếu về tâm giác.
Về nguyên tắc, AA không thể được đào tạo trực tiếp từ B lên, mà phải thông qua giai đọan AB. Tức là B phải kinh qua tuổi trưởng thành và có thời gian trang bị kinh nghiệm từ quá trình sống thực tế, thì mới có đủ cơ sở đào tạo lên AA.
AB là những người có lối sống hài hóa về nhu cầu vật chất và tinh thần. Tuy nhiên nghề nghiệp của họ chọn là về lĩnh vực “sản xuất vật chất”. AA cũng như trên, nhưng nghề nghiệp của họ chọn thuộc về lĩnh vực “sản phẩm tinh thần” (kỹ sư tâm hồn).
AB có quan điểm sống khách quan trong phạm vi hẹp, ví dụ trong nghề nghiệp hay trong các sinh hoạt giao tiếp đời thường.
AA có quan điểm sống khách quan trên phạm vi rộng toàn diện. Họ không phải là người luôn luôn đúng, nhưng họ có khả năng rút ra bài học kinh nghiệm kịp thời, nhanh hơn, tốt hơn mọi người trong cùng vấn đề.
AA giúp cho AB hạn chế tốn thời gian lên diễn đàn, khi đã được hỗ trợ lý giải thông suốt các vấn đề cuộc sống. Tuy nhiên nếu AB vẫn thấy chưa thỏa mãn, họ có quyền đưa những vấn đề ấy lên DĐND để nhờ làm sáng tỏ.


d-    Người A
Trung tâm của tất cả những vấn đề trên đều do A đề xuất và chịu trách nhiệm.
Vậy A bằng con đường nào để hoàn thiện bản thân và xây dựng HTNT.

A bắt đầu con đường nghiên cứu và rèn luyện từ tâm. Muốn hiểu tâm A phải tìm hiểu và minh chứng về thế giới sự sống toàn diện. Theo thời gian cùng với thực tế và từ các thông tin đa dạng, A đã đúc kết sự sống qua các kết luận như sau:
- Nguyên nhân lớn nhất làm cho sự sống chưa thể lý giải thành công, là do con người chưa tìm ra chân lý sống. Nó có thể do điều kiện khách quan về sự tiến hóa của xã hội loài người chưa hội đủ.
Để tìm chân lý sống, A áp dụng một số định nghĩa như sau:
Trước hết thế nào là khái niệm “vật chất” và “tinh thần”. Cách đơn giản, tinh thần là toàn bộ các hoạt động trí tuệ …
Từ góc độ tinh thần trên, ta qui tất cả những gì thấy được ngoài tinh thần, đều là “vật chất” …
Sau đó nâng hai khái niệm lên theo nghĩa rộng hơn nữa, đến mức những gì ý thức không thể ý thức được thì gọi là tinh thần, còn lại tất cả mọi hiện tượng khác đều là vật chất (kể cả tư duy ý thức, tình cảm, v.v…).

Sự sống con người là thành quả của sự kết hợp giữa “thấy” và “không thấy”. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng để cuối cùng tạo nên sự phát triển của mỗi cá nhân.
Muốn nhìn cái “không thấy”, con người chỉ cần kiểm chứng từ những cái “thấy” để suy ra. Cộng lại xem như con người có thể “thấy” được toàn diện sự sống, kể cả tiềm thức (vô thức).

Trong đời thường tinh thần được hiểu là trí tuệ, nó bao gồm ý thức, tư duy, ý chí, tình cảm, tâm, chân lý gốc, lẽ phải- chân lý, v.v…. Cộng chung tất cả lại cùng có chung một mẫu số là “ý thức” (“thấy”), xa hơn nữa là “tâm” (“không thấy”).
Cộng “thấy” và “không thấy”, nó tạo thành một khối sản phầm gọi là “nhận thức” (kết hợp “tình cảm”). “Nhận thức” là biểu hiện sự sống đầu tiên của mỗi đời người, khi muốn giao lưu với thế giới xung quanh.

Nhưng các thời đại văn minh trong khoa học đào tạo con người, người ta mới chú trọng đào tạo phần “thấy”, còn phần “không thấy” nói chung là chưa được chú ý tới.
Trong khi theo nguyên lý tự nhiên của tạo hóa về “con người”, thì phần “không thấy” mới là yếu tố quyết định làm nên giá trị sự sống, còn lại tất cả chỉ là phương tiện sống.
Hiện tượng đào tạo lệch lạc trên bắt đầu trở nên trầm trọng, khi CỦA CẢI VẬT CHẤT XÃ HỘI TĂNG LÊN ĐÁNG KỂ, tức là phương tiện sống đã trở nên dồi dào. Con người đã nhanh chóng ngộ nhận nó là “chân lý sống” (giá trị sống), nên đã sẵn sàng tranh giành chiếm hữu nó bằng mọi giá kể cả bằng tính mạng.
Kết quả, sự sống con người đã gặt hái không như mong đợi, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khái niệm “hạnh phúc” đã nhiều lần tưởng như CÓ nhưng rồi lại quá KHÔNG.

Đúc kết lại lịch sử tiến hóa của loài người văn minh, mới thấy rằng mức sống xã hội tiến nhanh là nhờ có sự phát triển của KHVC (“thấy”), trong khi vắng bóng hoàn toàn của KHTT (“không thấy”).
Biết rằng bản chất sự sống của loài người là dùng TRÍ TUỆ. Mà trí tuệ là tinh thần. Thế nhưng “Khoa Học Trí Tuệ” chưa được phát triển, thì sự sống loài người văn minh sẽ hóa vật chất hết chăng.
Đây là nguyên nhân cơ bản của bài toán nan giải của mọi thời đại.

Kết quả suy luận trên được rút ra từ quá trình so sánh giữa cái “thấy” và cái “không thấy”.
Để quan sát theo cái “không thấy” tất yếu cần phải có thời gian, để theo dõi sự sống, theo dõi sự chuyển động của tư duy cá nhân, kế là theo dõi đâu là những nguyên nhân tác động đến các thành quả trí tuệ, v.v… Sau đó nghiên cứu phân tích, đặt giả thiết, lập luận, chỉnh sửa nguồn nếu thấy bất hợp lý, v.v… để cuối cùng bổ khuyết thành công cái phần mà đúng ra “KHTT” phải thực hiện.
Người hội đủ điều kiện hoàn thành những công việc tiên phong như trên được gọi là “người A”.
Từ kinh nghiệm của “A” được diễn giải thành “HTNT” hay “KHTT”.
Các thành quả của “A” có thể như một sự gợi ý. Việc còn lại thuộc về mọi người, thuộc về xã hội trong quá trình ứng dụng.
A là người hướng dẫn cho AA hoàn thành mục đích. Riêng A là do môi trường sống khách quan đào tạo.


II –  CHÂN LÝ THỰC TIỄN

Trong một xã hội văn minh, con người cần có các LPCL để bôi trơn quan hệ. Muốn có LPCL, xã hội cần có KHTT làm bà đỡ.

    1 –  KHOA HỌC TINH THẦN

Sự sống còn một giới hạn rất quan trọng mà khoa học đến nay vẫn chưa khai phá đến tận cùng, đó là “thế giới tinh thần”.
Để làm việc này, cách đơn giản là xây dựng một ngành khoa học mới mang tên “KHOA HỌC TINH THẦN” (KHTT).
Có KHTT, “chàng lực sĩ” KHVC sẽ rất hạnh phúc khi được đồng hành cùng người bạn lý tưởng của mình, trong mục đích phục vụ loài người.
Cùng là khoa học nên qui trình nghiên cứu của hai lĩnh vực khoa học này đều giống như nhau. Cũng bắt đầu từ thực tế, đến phân tích hiện tượng, đặt giả thiết nhận thức, minh chứng lý thuyết qua thực nghiệm, so sánh phân tích từ nhiều góc độ, đúc kết thành quả, ứng dụng kiểm chứng thực tiễn từ hẹp đến rộng, v.v...
Tuy nhiên do khác nhau về bản chất đối tượng, nên giữa chúng có những khác biệt rất cơ bản:
 - Một bên đối tượng nghiên cứu là vật chất cụ thể, nên thành quả dễ kiểm tra bằng ngũ quan, dưới sự chứng kiến khách quan công khai của mọi người.
 - Ngược lại bên này đối tượng nghiên cứu là tinh thần trừu tượng. Thành quả của nó tập trung ở sự thay đổi của tâm giác, mà chỉ riêng cá nhân mới cảm nhận, họa chăng chỉ một số người có tâm giác tương đương hoặc cao hơn, mới đạt sự đồng cảm tương đối.
Song cuối cùng thành quả của tâm giác cũng phải được thể hiện vào cuộc sống thực tế. Nhưng cuộc sống thì đa dạng, nên mắt mỗi người khó thể bao quát toàn diện. Nên cuối cùng mọi người phải nhờ đến số đông, đến dư luận, nghìn mắt nghìn tai, cùng hợp sức kết luận, thì kết quả mới tương đối khách quan.
Nhưng nhìn và nghe cũng phải dựa trên quan điểm. Nếu tất cả quan điểm khác nhau sẽ không tạo thành dư luận. Quan điểm trùng nhau nhưmg SAI cũng vô ích. Phải cùng quan điềm ĐÚNG, thì dư luận mới hiệu quả khách quan.
Nếu để tự nhiên, dư luận sẽ được tạo bởi lương tâm (quan điểm). Song khái niệm lương tâm (tự nhiên) cũng mơ hồ vì nó lệ thuộc sự cảm nhận của mỗi người, nên kết quả dư luận mang lại có nhưng chậm, phải rất lâu nó mới biến thành hành động dứt khoát đồng bộ từ số đông.
Vì thế yêu cầu phải chuẩn hóa lương tâm, thì sự sống loài người sẽ tìm thấy đáp án cơ bản. Tức là giữa NÓI, NGHĨ, LÀM (KẾT QUẢ), trong sự sống và quan hệ, sẽ thành nhất quán, đơn giản, khách quan, dễ hiểu, dễ kiểm chứng, dễ rút kinh nghiệm, dễ chỉnh sửa lại cho tốt hơn.
Lúc bấy giờ sự sống diễn biến chính xác rõ ràng minh bạch, không khác gì một qui trình minh chứng khoa học, mà mọi người ai cũng có khả năng quan sát cho ý kiến đánh giá nhận xét khách quan, không khác gì những thành quả trong KHVC.
Những diễn giải trên đây vừa là mục đích, vừa là sự định nghĩa, vừa là sự minh chứng cho sự ra đời mang tính khách quan lịch sử của một ngành khoa học mới mang tên “KHOA HỌC TINH THẦN”.

Sự khác nhau giữa KHTT KHVC:
KHVC phục vụ cho nhu cầu vật chất (bên ngoài) của con người.
KHTT phục vụ cho nhu cầu tinh thần (bên trong) thuộc trí tuệ con người.
Cái bên ngoài cần sự đầy đủ tiện nghi, cái bên trong cần những lý giải mang tính lẽ phải công bằng hợp lý nhằm thỏa mãn bản năng nhận thức. Cả hai nhu cầu đều cần được sự sống cung ứng đầy đủ, thiếu một trong hai đều dẫn đến phá hủy sự sống theo cách này hay cách khác.
KHVC đem lại sự khoái cảm cho cơ thể, KHTT đem lại sử thỏa mãn cho tâm hồn, bản chất của nhân cách con người. Vì thế KHTT theo thời gian sẽ chứng tỏ nó mới thật là nhân tố quyết định cho sự phát triển tiến lên của xã hội loài người.


2- “KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO VÀ HẠNH PHÚC”

Sự sống cần có “độc lập tự do”.
Để có “độc lập tự do” con người đã phải trải qua những cuộc đấu tranh gian khổ. Nhưng đã có “độc lập tự do” mà không thấy có “hạnh phúc” thì cũng vô nghĩa.
Suy ra “độc lập tự do” mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Phải có thêm “hạnh phúc” (cho mọi người) thì mục đích sống mới đạt.
Để hoàn thành thêm chỉ tiêu này, phải chăng xã hội loài người cần phải trải qua thêm một giai đoạn đấu tranh gian khổ nữa, … nhưng trong lĩnh vực … “thói quen trong sở thích tư duy trí tuệ”.

Xưa “có ăn có ở …” đã là hạnh phúc.
Nay nếu “ăn ở …” không là chưa đủ mà cần phải thêm … “quan hệ tốt” nữa.

“Quan hệ” là vấn đề vừa khó vừa dễ, vừa chính trị vừa dân sự.
Trong một gia đình nếu quan hệ con cái không ổn, cha mẹ chỉ cần cho một “huấn thị” thế là xong việc, đâu đấy vào khuôn phép nề nếp tốt đẹp.
Nhưng trong một xã hội nếu lãnh đạo phạm sai trái, thường dân đa số đành chịu “bó tay” bởi cái rào cản … “quyền lực và cơ chế”.
Như thế con người văn minh từ xưa đến nay, đa số mới đạt về tự do vật chất (thể xác), còn tự do tinh thần (trí tuệ) nhìn chung là chưa đạt. Thế nên chưa được gọi là hạnh phúc đúng nghĩa..
 KHTT đưa ra lời giải, nguyên nhân thuộc về thói quen chọn lối sống của toàn xã hội, cũng là của từng người dân. Do chọn sai nên mới dẫn đến cái cơ chế bế tắc của hiện tượng  quyền lực chủ quan có nhiều cơ hội lên nắm quyền.
Muốn giải quyết triệt để bài toán “quan hệ” (phức tạp) do quyền lực chủ quan gây ra, con người cần quyết chí chọn lại lối sống, tức chọn lại mục đích sống, thì cơ hội thay đổi cơ chế xã hội đến tận gốc mới thành công.
Cơ chế xã hội thay đổi, quyền lực chủ quan tất yếu cũng bị bứng rễ đến tận ngọn.
Đó là lối sống “ham sống hạnh phúc” thay cho “ham sống vì tiền” như hiện nay.


3 – KỸ NĂNG SỐNG

Thay đổi lối sống là thay đổi cả hệ thống kỹ năng sống thường ngày, từ xuất phát điểm tư duy đến hành động (quan hệ).
Xưa để di chuyển con người chỉ cần có chân đất là đủ.
Nay muốn di chuyển, con người phải chuẩn bị lắm việc, nào là phải học lái xe, học luật lệ giao thông, phải đi làm kiếm tiền mua xe, phải nghiên cứu sản xuất các loại phương tiện, v.v...

Mỗi đời người là một hành trình, và cách sống như là “chiếc xe đời”. Người ta sinh ra là phải được học điều khiển “chiếc xe đời” của cá nhân, sao cho có thể về đến đích một cách an toàn trong suốt cuộc hành trình đời người.
Xưa con người có lối sống không quá khó (ít dùng trí tuệ), chủ yếu cần sự lanh lợi ở chân tay, cơ bắp và cặp mắt. Nhưng nay thời thế đã đổi khác.
Muốn sống tốt con người cần được chuẩn bị học tập rèn luyện rất nhiều thứ trên đời, nhầm có đủ khả năng đạt đến đích “hạnh phúc” do mình chọn.
Trong các thứ phải học để sống, thì “kỹ năng sống” là một môn học mang tính quyết định, vì nó giúp con người tìm ra con đường đi đến đích “hạnh phúc”, một cách an toàn và chắc nhất, không những thế nó còn góp phần đem lại cho xã hội loài người một thế giới thật sự hòa bình hạnh phúc thịnh vượng và vĩnh cữu.
“Kỹ năng sống” như trên là sản phẩm theo dạng của KHTT, mà chúng ta đang được giới thiệu.
“Kỹ năng sống” của KHTT có nhiệm vụ giúp con người tân trang lại các “chiếc xe đời” của mình thành đời mới (cách sống mới), nhầm tạo điều kiện thích nghi trước mọi biến đổi phức tạp của thời đại, cũng tức là trước mọi khúc khuỷu ghồ ghề trong từng hnh trình đời người của mỗi cá nhân.

Sự sống tự nhiên đã có bộ luật quan hệ (do tạo hóa- tự nhiên qui định – tạm gọi là “luật tự nhiên”), trước khi con người có các văn bản pháp luật do chính quyền ban hành.
Theo nguyên lý, luật pháp của chính quyền phải dựa trên “luật tự nhiên” để xây dựng. Nhưng trong thực tế, nó được xây dựng chủ yếu dựa trên yêu cầu, bảo vệ quyền lợi của giai cấp (phe “giàu tiền giàu thế”) hay của chế độ, v.v…
Nếu dựa trên “luật tự nhiên” để xây dựng, thì luật pháp của chính quyền phải nhầm mục đích bảo vệ “nhân cách tốt” “cách sống tốt” “kỹ năng sống tốt” hay “con người tốt”, như là quyền lợi lớn nhất của cuộc sống.
“Kỹ năng sống tốt” chính là kỹ năng sống mà KHTT nghiên cứu hình thành và muốn giới thiệu.

Con người muốn có “kỹ năng sống tốt” thì phải trải qua giai đoạn học tập rèn luyện sao cho các qui định trong “bộ luật quan hệ” của tạo hóa- tự nhiên như trên, được chuyển hóa thành LỐI SỐNG TỰ NHIÊN của mỗi nhân cách chủ thể.
Như thế là đã hoàn thành kỹ năng làm chủ “chiếc xe đời” (cách sống).

Đời người bắt đầu từ giai đoạn tuổi thiếu thời, cũng là lúc “luật đời” của tạo hóa- tự nhiên đã bắt đầu được áp dụng dần dần. Vì vậy yêu cầu rèn luyện “kỹ năng sống tốt” ngay từ sớm, khi khả năng tự vệ (sức đề kháng) của trẻ còn yếu, là một việc làm lý tưởng cho lợi ích lâu dài của trẻ cũng như cho sự cường thịnh của xã hội.
Rèn luyện “kỹ năng sống tốt” là một công việc gần như phải làm suốt đời đối với  mỗi đời người. Trong đó xã hội và cá nhân phải cùng hợp tác chịu trách nhiệm, để bảo đảm mọi người ai cũng có cơ hội tốt nhất đi đến đích, đừng để một trường hợp nào phải hối tiếc chỉ vì lý do “kỹ nang sống kém”.


4- VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN

Thế giới tồn tại được cấu tạo bởi hai phần cơ bản, “vật chất” (vật thể) và “tinh thần” (vận động).
Loài người trái đất là một thành viên hiển nhiên của thế giới tồn tại. Vì vậy con ngươi cũng được kết cấu bởi hai nhân tố cơ bản trên.
Đối với con người, chúng ta hiểu “vật chất” là phần cơ thể, và “tinh thần” là phần vận động (nói chung).
Khi ta nói “vật chất quyết định tinh thần”, là mới nói một trường hợp trong nhiều trường hợp của sự sống.

Biết rằng “vật chất” và “tinh thần" là cặp phạm trù biện chứng của nhau. Vì thế không thể nói chắc cái nào có tính quyết định với cái nào.
Tuy nhiên do thế mạnh của loài người đặt ở phạm trù trí tuệ (ý thức), nên “tinh thần" phải có ưu thế hơn “vật chất”.
Ngược lại do trí tuệ có đặc tính “chịu chi phối” bởi môi trường vật chất bao quanh (thông qua các giác quan ngoại trừ tâm giác A1). Do vậy con người bước đầu dễ ngộ nhận  “tinh thần” là do “vật chất” quyết định.
Nhưng nếu nhìn sự chuyển động theo chiều dài thời gian, chúng ta sẽ thấy rằng sự sống con người do tâm giác A1 quyết định. Một nhân tố thuộc phạm trù tinh thần.
Ví dụ: con người sẵn sàng chịu hi sinh thân thể (vật chất), nhưng hi sinh lý tưởng (tinh thần).- Như thế “tinh thần” có tính quyết định trên “vật chất”.
Muốn “tinh thần quyết định vật chất” rõ ràng con người cần có một “kỹ năng sống” cao hơn bình thường.
Trong cuộc sống thanh bình, con người có điều kiện nâng cao mức sống “vật chất” lẫn “tinh thần”. Tuy nhiên “mức sống vật chất” thường được nhiều người ưa chuộng hơn vì dễ hiểu, dẫn đến xã hội hình thành thói quen chọn … “vật chất quyết định tinh thần”. Trong khi mức sống tinh thần là điều kiện để sự sống mọi người trong xã hội, được tự do bình đẳng bác ái ổn định và hạnh phúc (toàn diện), lại là vấn đề khó hiểu với mọi người, nên đa số không ai muốn chọn … “tinh thần quyết định vật chất”.
Bản chất của “vật chất” là “không tư duy”. Nên khi con người chọn “vật chất” làm lẽ sống chính, vô hình trung đã không chọn “lương tâm A1” làm kim chỉ nam cho tồn tại (bởi lương tâm A1 cần rất nhiều tư duy để nhận thức), cũng tức là không chọn “lẽ phải và chân lý” làm lẽ sống. Như thế là đã trái với những nội dung mà hàng ngày trong giao tiếp mọi người đều muốn chứng tỏ … “tôi là người luôn có lý và có lẽ phải”./.
                                

                                       HẾT


                                            Tp HCM, ngày 28 tháng 12 năm 2011
                                                      HOÀNG VĨNH SƯU (LCH)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét